Tóm tắt: Dạy học dựa trên truy vấn được biết đến như là một trong những cách thức dạy học tích
cực hóa người học và được gắn liền với dạy học các môn khoa học nhằm nâng cao các năng lực
khoa học của học sinh. Nghiên cứu này nhằm phân tích mối quan hệ giữa dạy học dựa trên truy
vấn và thành tích khoa học của học sinh Việt Nam dựa trên dữ liệu PISA 2015 với mẫu nghiên cứu
là 5826 học sinh ở độ tuổi 15. Bằng phương pháp phân tích hồi quy tuyến tính, kết quả chỉ ra việc
giáo viên sử dụng thường xuyên dạy học dựa trên truy vấn sẽ làm tăng thành tích khoa học của học
sinh. Nghiên cứu cũng đưa ra một số khuyến nghị dựa trên kết quả nghiên cứu nhằm nâng cao chất
lượng dạy học khoa học và năng lực khoa học của học sinh.
12 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 158 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của dạy học dựa trên truy vấn đến thành tích khoa học của học sinh Việt Nam: Phân tích dữ liệu Chương trình đánh giá học sinh quốc tế (PISA 2015), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 4 (2019) 25-36
25
Original Article
Effects of the Inquiry-based Teaching Approach
on Vietnamese Students' Science Achievement Based on
the 2015 PISA Data
Tang Thi Thuy1, Le Thai Hung1, Le Thi Hoang Ha1, Phan Thi Linh2,*
1VNU University of Education, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
2National Testing Center, Education Quality Management Agency,
Ministry of Education and Training, 35 Dai Co Viet, Hai Ba Trung, Hanoi, Vietnam
Received 03 October 2019
Revised 22 October 2019; Accepted 29 October 2019
Abstract: The inquiry-based teaching is known as one of the most active teaching methods. It is
closely linked to inquiry-based science teaching to enhance students' scientific capacities. This
study aims to analyze the relationship between inquiry-based teaching approach and scientific
achievement of Vietnamese students based on the 2015 PISA database with a sample of 5,826
Vietnamese students aged 15. The results show that the more often the inquiry-based teaching
method is used, the better the students’ scientific achievement is. The study also provides some
recommendations based on research results to improve the quality of science teaching method and
students’ scientific capacity.
Keywords: Inquiry-based teaching, inquiry-based science teaching, students' science achievement, PISA.
*
_______
* Corresponding author.
E-mail address: phanmylinh8x@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1159/vnuer.4315
VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 4 (2019) 25-36
26
Ảnh hưởng của dạy học dựa trên truy vấn đến thành tích khoa
học của học sinh Việt Nam: Phân tích dữ liệu Chương trình
đánh giá học sinh quốc tế (PISA 2015)
Tăng Thị Thùy1, Lê Thái Hưng1, Lê Thị Hoàng Hà1, Phan Thị Linh2,*
1Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
2Trung tâm Khảo thí quốc gia, Cục Quản lý chất lượng, Bộ Giáo dục và Đào tạo,
35 Đại Cồ Việt, Hai Bà Trưng, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 03 tháng 10 năm 2019
Chỉnh sửa ngày 22 tháng 10 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 29 tháng 10 năm 2019
Tóm tắt: Dạy học dựa trên truy vấn được biết đến như là một trong những cách thức dạy học tích
cực hóa người học và được gắn liền với dạy học các môn khoa học nhằm nâng cao các năng lực
khoa học của học sinh. Nghiên cứu này nhằm phân tích mối quan hệ giữa dạy học dựa trên truy
vấn và thành tích khoa học của học sinh Việt Nam dựa trên dữ liệu PISA 2015 với mẫu nghiên cứu
là 5826 học sinh ở độ tuổi 15. Bằng phương pháp phân tích hồi quy tuyến tính, kết quả chỉ ra việc
giáo viên sử dụng thường xuyên dạy học dựa trên truy vấn sẽ làm tăng thành tích khoa học của học
sinh. Nghiên cứu cũng đưa ra một số khuyến nghị dựa trên kết quả nghiên cứu nhằm nâng cao chất
lượng dạy học khoa học và năng lực khoa học của học sinh.
Từ khóa: Dạy học khoa học, dạy học dựa trên truy vấn, PISA, thành tích khoa học.
1. Đặt vấn đề *
Năng lực khoa học (science competence)
của học sinh đề cập đến khả năng và sự sẵn
sàng sử dụng những kiến thức và kĩ năng khoa
học để giải thích thế giới tự nhiên, để xác định
câu hỏi và đưa ra kết luật dựa trên dẫn chứng.
Năng lực khoa học cũng như các năng lực khác
của học sinh chịu ảnh hưởng rất lớn từ phương
pháp dạy học của giáo viên, bên cạnh những
yếu tố tự thân. Thực tế nghiên cứu khoa học
giáo dục và sư phạm đã khái quát hóa và đề
xuất nhiều phương pháp dạy học khác nhau,
mỗi phương pháp có cách tiếp cận riêng, phù
hợp với đối tượng và mục tiêu dạy học. Ngay cả
_______
* Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: phanmylinh8x@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1159/vnuer.4315
với một lĩnh vực dạy học như các môn khoa
học (tự nhiên) thì mỗi phương pháp khác nhau
sẽ mang lại những hiệu quả dạy học khác nhau.
Phương pháp dạy học (dựa trên) truy vấn
(enquiry/inquiry-based teaching) được biết đến
là một phương pháp sinh ra để dành cho dạy
học các môn khoa học (science education).
Thuật ngữ Dạy học khoa học dựa trên truy vấn
(Inquiry-Based Science Education - IBSE) thậm
chí đã được sử dụng rất phổ biến trong nghiên
cứu và thực hành về dạy học khoa học. Cho đến
nay đã có rất nhiêu các nghiên cứu chỉ ra tác
động tích cực của dạy học dựa trên truy vấn tới
thành tích đạt được của học sinh không chỉ
năng lực khoa học mà cả thành tích học tập.
Trong bài báo này chúng tôi kiểm nghiệm lại
những nhận định đó dựa trên khai thác bộ dữ
liệu PISA 2015 với trường hợp của 5826 học
T.T. Thuy et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 4 (2019) 25-36
27
sinh Việt Nam, sử dụng phân tích hồi quy
tuyến tính.
2. Tổng quan nghiên cứu
2.1. Dạy học dựa trên truy vấn
Dạy học dựa trên truy vấn/dạy học truy
vấn/học tập truy vấn được định nghĩa theo rất
nhiều cách khác nhau. Theo Cairns and
Areepattamannil (2019), cụm từ Dạy học dựa
trên truy vấn xuất hiện lần đầu vào đầu những
năm 1960s [1], với hai báo cáo điển hình của
Bruner (1961) và Schwab (1960). Bruner
(1961) đề xuất tăng cường sử dụng các phương
pháp dạy học cho phép người học khám phá
những tri thức mới, thay vì chỉ ghi nhớ bài
giảng của giáo viên; còn Schwab (1060) thì
xem Dạy học dựa trên truy vấn như một nhu
cầu mang tính xã hội, để vừa góp phần đào tạo
nên những nhà khoa học có đầu óc hoài nghi
cho tương lai, và quan trọng hơn, cung cấp cho
cộng đồng những thông tin về công việc của
các nhà khoa học. Những năm 1980s, nhiều báo
cáo phân tích tổng hợp về Dạy học dựa trên
truy vấn được công bố, trong đó báo cáo của
Wise & Okey (1983) về các chiến lược dạy học
khoa học đã gắn khái niệm dạy học dựa trên
truy vấn với Dạy học khám phá (discovery
teaching) [2]. Hai tác giả cho rằng, dạy học dựa
trên truy vấn đơn giản là “một trải nghiệm học
tập trung vào người học nhiều hơn, và bớt đi
những dẫn dắt của giáo viên theo kiểu từng
bước từng bước một” (trang. 421), nó bao gồm
những yếu tố như các bài học truy vấn, các hoạt
động khám phá có hướng dẫn, các thí nghiệm
quy nạp. Haury (1993) thì làm rõ nội hàm ẩn
chứa đằng sau thuật ngữ “truy vấn”, đó là đòi
hỏi người học phải có một bộ óc luôn hoài nghi,
khao khát tìm kiếm câu trả lời cho những thắc
mắc của bản thân [3]. Đặt trong bối cảnh dạy
học các môn khoa học, bản chất của Dạy học
dựa trên truy vấn phải là đưa người học vào
những tình huống, cơ hội, bối cảnh để người
học khám phá bản chất của khoa học, một cách
có động cơ và hứng thú. Dựa trên nhu cầu của
người học, quá trình dạy học phải giúp người
học thu thập được dữ liệu và diễn giải dữ liệu
cần thiết để từ đó người học tìm được lời giải
cho những hoài nghi của mình. Haury cho rằng,
chỉ khi đó hoạt động học tập mới diễn ra một
cách có ý nghĩa.
Hội đồng nghiên cứu quốc gia Hoa Kỳ
(National Research Council) năm 1996 khi ban
hành Tiêu chuẩn quốc gia về giáo dục khoa học
đã đưa ra ba thuật ngữ có từ “truy vấn” [4]: truy
vấn khoa học (scientific inquiry), học tập truy
vấn (inquiry learning) và dạy học dựa trên truy
vấn (inquiry-based teaching), tuy nhiên như
Anderson (2002) đã tổng hợp thì từ khóa thứ 3
mà chúng ta đang quan tâm lại không có một
định nghĩa cụ thể trong tài liệu này. Riêng từ
“truy vấn” được định nghĩa:
Là một hoạt động đa diện, liên quan đến các
hành vi quan sát, đặt câu hỏi, nghiên cứu sách
và các nguồn thông tin khác để nhận diện
những điều đã biết; lập kế hoạch tìm hiểu; rà
soát đánh giá những điều đã biết dưới ánh sáng
của các bằng chứng thực nghiệm; sử dụng công
cụ để thu thập, phân tích và diễn giải dữ liệu; đề
xuất câu trả lời, giải thích, dự đoán; và trao đổi
kết quả. Phương pháp truy vấn đòi hỏi cần xác
định các giả thiết, sử dụng tư duy phản biện và
tư duy logic, cân nhắc sử dụng các cách thức
giải thích khác nhau (National Research
Council, 1996, tr. 23).
Để làm rõ vấn đề, năm 2000, cơ quan này
công bố một tài liệu hướng dẫn có tiêu đề: Truy
vấn và Tiêu chuẩn quốc gia về Giáo dục khoa
học, trong đó 5 đặc trưng cần thiết của Dạy học
dựa trên truy vấn được xác định, bất kể là dạy
học cho khối lớp hay độ tuổi nào (hình 1):
Bên cạnh đó, Minner, Levy & Century
(2010) cũng bổ sung một đặc trưng quan trọng
của Dạy học dựa trên truy vấn, theo Tiêu chuẩn
quốc gia về Giáo dục khoa học của Hoa Kỳ, đó
là việc tạo ra những cơ hội cho người học thiết
kế và thực hiện các điều tra, khám phá [5]. Như
vậy dạy học dựa trên truy vấn là cách thức tạo
ra cơ hội để người học có thể chủ động hơn
trong việc đạt các mục tiêu học tập, bao gồm:
câu hỏi dẫn dắt và đặt tình huống/ nhiệm vụ,
cung cấp hoặc gợi ý nguồn dữ liệu, thực hiện
thí nghiệm Cách thức này sẽ thúc đẩy sự
đam mê tìm tòi, khám phá của người học mà
không cần sự dẫn dắt tỉ mỉ, từng bước.
T.T. Thuy et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 4 (2019) 25-36
28
j
Hình 1. Các đặc điểm của dạy học dựa trên truy vấn.
2.2. Dạy học dựa trên truy vấn và thành tích
học tập môn khoa học của học sinh
Sở dĩ phương pháp Dạy học dựa trên truy
vấn gắn liền với dạy học các môn khoa học là
bởi nội hàm của từ truy vấn cũng như những
yêu cầu của phương pháp này phù hợp với quá
trình khám phá thế giới tự nhiên cũng như công
việc của các nhà khoa học. Bên cạnh đó phải
nói tới những ảnh hưởng tích cực của phương
pháp tới thành tích cũng như động cơ và hứng
thú học tập khoa học của học sinh, đã được
chứng minh bởi không chỉ các nghiên cứu thực
nghiệm, bán thực nghiệm mà cả các nghiên cứu
phân tích tổng hợp (meta-analysis). Jiang &
McComas (2015) đã tổng thuật 3 nghiên cứu
tổng hợp có thời gian công bố khá cập nhật, có
phương pháp luận và khung khái niệm chặt chẽ,
tin cậy để làm rõ những ảnh hưởng tích cực của
phương pháp Dạy học dựa trên truy vấn [6].
Nghiên cứu đầu tiên mà Jiang & McComas
(2015) đề cập là một Phân tích tổng hợp 61
công bố khoa học tại Mỹ trong giai đoạn 1980-
2004 về ảnh hưởng của các chiến lược dạy học,
trong đó có dạy học truy vấn, lên thành tích
khoa học của học sinh Mỹ (Schroeder, Scott,
Tolson, Huang, & Lee, 2007) [7]. Các báo cáo
đưa vào phân tích được lựa chọn dựa trên các
tiêu chí như: được thực hiện tại Mỹ, là nghiên
cứu thực nghiệm hoặc bán thực nghiệm, có
thông tin về kết quả nghiên cứu là chỉ số ảnh
hưởng (effect size) hoặc các kết quả thống kê
cần thiết để có thể tính toán chỉ số ảnh hưởng.
Trong 61 công bố, có 12 báo cáo lấy trọng tâm
nghiên cứu là các chiến lược truy vấn, và chỉ số
ảnh hưởng của các chiến lược này là 0.65.
Không có thông tin chi tiết và cụ thể hơn về dạy
học truy vấn, có lẽ bởi vì nghiên cứu này không
chỉ tập trung vào dạy học dựa trên truy vấn mà
các chiến lược dạy học khoa học nói chung.
Báo cáo tiếp theo được tổng thuật là phân
tích tổng hợp của Furtak, Seidel, Iverson,
& Briggs (2009) [8]. Đối tượng phân tích của
nghiên cứu này là các nghiên cứu thực nghiệm
và bán thực nghiệm về chủ đề dạy học khoa học
ở trên lớp dựa trên truy vấn, được công bố trong
vòng 10 năm, từ 1996 đến 2006. Nhóm tác giả
này sử dụng khung khái niệmdạy học dựa trên
truy vấndo Duschl (2003) đề xuất, với bốn mặt
của hoạt động truy vấn, bao gồm: khái niệm,
quy trình, tri thức, và xã hội. Với 9 nghiên cứu
được phân tích hồi cứu, nhóm tác giả đã tuyên
bố chỉ số ảnh hưởng của dạy học dựa trên truy
vấn biến thiên trong khoảng từ -0.27 đến 2.95
trong đó có 2 nghiên cứu công bố chỉ số âm.
Bên cạnh đó, nghiên cứu này còn tiến hành
phân tích để chỉ ra mối quan hệ giữa chỉ số ảnh
hưởng và các yếu tố khác, như 4 mặt của hoạt
động truy vấn, khối lớp, thời gian thực nghiệm,
và các điều kiện do giáo viên dẫn dắt, học sinh
T.T. Thuy et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 4 (2019) 25-36
29
dẫn dắt. Từ kết quả phân tích, nhóm tác giả lưu
ý cần tập trung hơn vào mặt tri thức của hoạt
động truy vấn và học sinh cần có nhiều thời
gian tiếp cậndạy học dựa trên truy vấnhơn. Hai
yếu tố này có thể làm tăng chỉ số ảnh hưởng
dương của dạy học truy vấn.
Phân tích tổng hợp cuối cùng là của Minner
và các tác giả (2010), tổng hợp 138 nghiên cứu
trong giai đoạn 1984 - 2002 để xác định mức độ
ảnh hưởng của dạy học khoa học dựa trên truy
vấn lên kết quả học tập của học sinh phổ thông
ở Mỹ. Trong số 138 nghiên cứu có 73 nghiên
cứu phi thực nghiệm, 35 bán thực nghiệm và 30
thực nghiệm. Để đánh giá, nhóm tác giả đã phát
triển một khung khái niệm cho Dạy học khoa
học dựa trên truy vấn, bao trùm 3 khía cạnh: sự
hiện diện của nội dung khoa học, sự gắn kết
giữa học sinh với nội dung khoa học, và những
thành phần của hoạt động dạy học. Riêng hoạt
động dạy học được xác định bao gồm các cấu
phần, liên kết với nhau theo một bảng hai chiều
(Bảng 1):
Bảng 1. Các cấu phần của Dạy học khoa học dựa trên truy vấn
PHƯƠNG PHÁP TRUY VẤN
Câu hỏi/vấn đề Thiết kế Dữ liệu Kết luận Trao đổi
NGƯỜI
HỌC
Trách nhiệm học tập
Tư duy chủ động
Động cơ học tập
l6
Theo báo cáo, chỉ 51% các nghiên cứu cho
kết quả dạy học dựa trên truy vấn có tác động
dương lên hoạt động học tập; không đủ bằng
chứng để kết luận dạy học dựa trên truy vấn tạo
ra những ảnh hưởng tích cực; và bằng chứng
cho thấy mối liên hệ giữa mức độ người học
tiếp cận phương pháp truy vấn và kết quả học
tập cũng rất khiêm tốn.
Tóm lại, dạy học dựa trên truy vấn ở góc độ
nào đó cũng mang lại những ảnh hưởng tích
cực lên hoạt động học tập, và việc sử dụng nó
có thể mang lại hiệu quả dạy học cao hơn
phương pháp dạy học khoa học thông thường
(Jiang & McComas, 2015). Dạy học dựa trên
truy vấn dường như không chỉ cải thiện thành
tích học tập (Blanchard et al. 2010) mà cả thái
độ đối với môn học và các kĩ năng tư duy phản
biện (Hattie, 2009). Để phát triển khả năng lập
luận khoa học ở người học cần có những tình
huống trên lớp để người học tham gia vào các
tương tác xã hội. Đặc biệt, kiểu dạy học lấy tư
duy chủ động của người học và khả năng rút ra
kết luận từ dữ liệu làm trọng tâm dường như rất
hữu ích với sự phát triển của học sinh (Minner
et al. 2010).
2.3. Một số nghiên cứu khai thác dữ liệu PISA
Theo Chương trình đánh giá học sinh quốc
tế - PISA, nhiệm vụ chính của hoạt động dạy
học các môn khoa học trong trường phổ thông
là: giúp học sinh có khả năng giải thích các hiện
tượng tự nhiên một cách khoa học, thấu hiểu
các vấn đề khoa học và có thể diễn giải ý nghĩa
của các bằng chứng khoa học (OECD, 2017)
[9]. Để khảo sát, đánh giá thực trạng giảng dạy
các môn khoa học trong các hệ thống giáo dục,
từ đó cung cấp dữ liệu đánh giá ý nghĩa cũng
như mức độ ảnh hưởng của phương pháp giáo
dục đến thành tích học tập của học sinh, PISA
2015 đưa một số câu hỏi về hoạt động dạy và
học các môn khoa học vào bảng hỏi khảo sát
học sinh. Những mục tiêu của dạy học khoa học
mà PISA đã xác định trên đây được lấy làm cơ
sở để xây dựng nhóm câu hỏi này. Phân tích dữ
liệu PISA 2006 (kỳ đánh giá lấy khoa học làm
mô đun đánh giá chính, như PISA 2015) cho
thấy kết quả học tập của học sinh có thể được
dự đoán thông qua thực tiễn giảng dạy của giáo
viên (Kobarg et al. 2011) [10]. Các tác giả cũng
chỉ ra rằng, có những cách thức giảng dạy giúp
T.T. Thuy et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 4 (2019) 25-36
30
học sinh phát triển năng lực môn học (nâng cao
thành tích học tập khoa học), và cũng có những
cách thức góp phần tạo động cơ và hứng thú
học tập cho học sinh.
Đối với các kỳ đánh giá PISA có trọng tâm
khảo sát là năng lực khoa học (2006, 2015)
[11], phương pháp dạy học truy vấn, cùng với
các phương pháp dạy học khoa học khác, được
đưa vào nội dung khảo sát, thu thập thông tin từ
giáo viên và học sinh. Từ kết quả phân tích dữ
liệu PISA 2006, khung khái niệm của phương
pháp dạy học dựa trên truy vấn đã được điều
chỉnh, phân biệt rõ hai mảng hoạt động: các
hoạt động xã hội và tri nhận của học sinh; hoạt
động hướng dẫn của giáo viên. Thực hành dạy
học dựa trên truy vấn có thể được đo lường
thông qua 4 thành tố, cũng là 4 nhóm hoạt
động, bao gồm tri nhận, xã hội, quy trình, và
ứng dụng vào thực tiễn cuộc sống. Các câu hỏi
khảo sát mới đặc biệt chú ý tới tầm quan trọng
của việc giúp học sinh phát triển kĩ năng tranh
luận khi học các môn khoa học ở trường
(OECD, 2017) [11].
Báo cáo phân tích kết quả chung PISA 2015
của OECD về dạy học khoa học (Mostafa,
Echazarra & Guillou, 2018) [12] là một trong
những phân tích đáng chú ý về thực tiễn dạy
học khoa học dựa trên truy vấn ở các quốc gia
và ảnh hưởng của phương pháp này tới thành
tích khoa học cũng như thái độ học tập các môn
khoa học của học sinh. Kết quả phân tích cho
thấy hệ số hồi quy âm giữa dạy học dựa trên
truy vấn và thành tích khoa học của học sinh,
bất kể đối với phân nhóm học sinh nào hay tính
trên toàn bộ mẫu khảo sát; không chỉ đối với
thành tích khoa học nói chung (điểm năng lực
khoa học tổng thể) mà với từng tiểu thang đo
như các loại năng lực khoa học, các loại tri thức
khoa học, hay theo từng lĩnh vực nội dung khoa
học thì hệ số hồi quy luôn có giá trị âm. Các tác
giả kết luận các loại hình năng lực khoa học, tri
thức và quy trình khoa học hay bộ môn khoa học
không phải là những yếu tố gây ra mối liên hệ
nghịch chiều giữa phương pháp dạy học dựa trên
truy vấn và thành tích khoa học của học sinh.
Nhóm tác giả đề xuất cần có những nghiên cứu
sâu hơn để tìm hiểu về vấn đề này (trang. 29).
Sử dụng phương pháp trọng số trung bình
cận biên thông qua phân tầng (marginal mean
weighting through stratification - MMW-S) để
phân tích xu thế điểm khoa học với dữ liệu
PISA 2006 nhằm tìm kiếm minh chứng về ảnh
hưởng của dạy học dựa trên truy vấntới thành
tích và thái độ học tập khoa học, Jiang &
McComas (2015) đã chỉ ra những mức độ ảnh
hưởng có ý nghĩa lên cả hai biến số là nhận
thức và thái độ học tập của học sinh: học sinh
càng được tiếp cận dạy học dựa trên truy vấnở
phân môn khoa học thì càng có xu hướng đạt
điểm cao ở năng lực khoa học cũng như có thái
độ học tập khoa học tích cực. Với thang đo dạy
học dựa trên truy vấn chia làm 4 cấp độ (từ 1
đến 4), thành tích khoa học của học sinh đạt
mức cao nhất khi phương pháp truy vấn ở cấp
độ 2 (được đặc trưng bởi việc thường xuyên có
những hoạt động thực hành do học sinh tự tổ
chức và tự rút ra kết luận từ dữ liệu có được).
Đối với biến quan sát về thái độ học tập thì dạy
học dựa trên truy vấn càng ở mức cao thì học
sinh sẽ càng có động cơ và hứng thú học tập.
Các tác giả cũng lưu ý, công cụ khảo sát năng
lực khoa học của Chương trình PISA tập trung
đánh giá hiểu biết của học sinh về các nội dung
khoa học hơn là để đo lường tri thức mà học
sinh tri nhận được về bản chất của khoa học. Vì
vậy, ta không thể sử dụng phân tích này để phát
hiện mối liên hệ giữa mức độ dạy học dựa trên
truy vấn và hiểu biết của học sinh về bản chất
của khoa học - một nhiệm vụ mà dạy học khoa
học cần hướng tới.
Vẫn khai thác dữ liệu của kỳ đánh giá PISA
2006, công bố của Cairns & Areepattamannil
(2019) cũng cho những kết quả thú vị khi sử
dụng phương pháp mô hình hóa tuyến tính phân
bậc (hierarchical linear modeling - HLM) để
khám phá mối liên hệ giữa phương pháp dạy
học dựa trên truy vấn và thành tích khoa học
cũng như xu thế theo đuổi các ngành khoa học
của học sinh tại 54 quốc gia/vùng lãnh thổ.
Thực hiện phân tích trên khoảng 170.000 học
T.T. Thuy et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 4 (2019) 25-36
31
sinh, với các biến nhân khẩu học và thái độ đối
với khoa học chia thành 3 cấp độ: học sinh, nhà
trường, quốc gia, kết quả phân tích cho thấy dạy
học dựa trên truy vấn có mối liên hệ nghịch với
thành tích khoa học; trong khi đó, cũng phương
pháp này dường như có ảnh hư