Thuê tài sản là sự thoả thuận giữa người sở hữu tài sản (bên cho thuê) và một người khác (bên thuê) về việc bên cho thuê đồng ý cho bên thuê quyền sử dụng tài sản trong một khoảng thời gian nhất định để đổi lấy một chuỗi thanh toán định kỳ.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 12 trang
12 trang | 
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2595 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của thuê tài sản đến báo cáo Tài chính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ảnh hưởng của thuê tài sản đến 
Báo cáo Tài chính 
Thuê tài sản đã ra đời từ lâu và ngày càng 
phát triển cùng với sự phát triển của nền 
kinh tế xã hội. Ở nước ta, hoạt động thuê 
tài sản cũng đã đi vào hoạt động và phát triển mạnh mẽ, 
chuẩn mực kế toán Việt Nam số 06 “Thuê tài sản” và Thông 
tư số 105/2003/TT-BTC đã hướng dẫn phương pháp kế toán 
thuê tài sản. 
Bài viết này tập trung làm sáng tỏ thêm nữa một số khía cạnh của 
nội dung trên: 
- Phân biệt sự khác nhau giữa thuê hoạt động và thuê tài chính 
và lợi ích của việc đi thuê. 
- Ảnh hưởng của thuê tài sản đến báo cáo tài chính của công ty 
(bên thuê). 
Thuê tài sản 
Thuê tài sản là sự thoả thuận giữa người sở hữu tài sản (bên cho 
thuê) và một người khác (bên thuê) về việc bên cho thuê đồng ý 
cho bên thuê quyền sử dụng tài sản trong một khoảng thời gian 
nhất định để đổi lấy một chuỗi thanh toán định kỳ. 
Trong một giao dịch thuê, về pháp lý, bên cho thuê có quyền sở 
hữu tài sản, bên thuê không có quyền sở hữu mà chỉ có quyền 
sử dụng tài sản trong thời gian thuê. Có nhiều hình thức thuê tài 
sản, được phân biệt căn cứ vào tính chất của từng hợp đồng 
thuê. 
- Thuê hoạt động: Một hợp đồng thuê tài sản là thuê hoạt động 
nếu như phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài 
sản hầu như không được chuyển giao từ bên cho thuê sang bên 
thuê. Bên thuê chỉ sử dụng tài sản thuê trong một thời gian ngắn 
so với thời gian sử dụng kinh tế của tài sản. Chi phí thuê thường 
bao gồm phần hao mòn tài sản, chi phí bảo dưỡng và mức lợi 
nhuận mong muốn của bên cho thuê. Hợp đồng thuê hoạt động 
thường linh hoạt đối với bên thuê, nhưng chi phí thuê thường cao 
vì bên cho thuê chịu nhiều rủi ro đối với sự lạc hậu và giảm giá 
của tài sản. 
- Thuê tài chính: Một hợp đồng thuê tài sản là thuê tài chính nếu 
như phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản 
được chuyển giao cho bên thuê. Thông thường, quyền sở hữu tài 
sản được chuyển giao vào cuối thời hạn thuê hoặc hợp đồng 
thuê có qui định bên thuê được quyền lựa chọn mua tài sản; thời 
gian thuê thường chiếm phần lớn thời gian sử dụng kinh tế của 
tài sản. Thông thường một hoạt động thuê tài chính được bắt đầu 
khi người đi thuê lựa chọn tài sản và thoả thuận giá cả, sau đó sẽ 
thương lượng với một công ty cho thuê tài chính. Công ty cho 
thuê tài chính với tư cách là người cho thuê sẽ mua tài sản và 
chuyển thẳng đến bên thuê. 
Có nhiều lý do khiến việc lựa chọn hình thức thuê tài sản ngày 
càng trở nên phổ biến, trong đó lý do chủ yếu là lợi ích có thể 
mang lại từ việc thuê tài sản. Cụ thể: 
- Đối với bên thuê: khi mua một tài sản, người sử dụng phải đối 
đầu với rủi ro do sự lạc hậu của tài sản. Thuê là một cách để 
giảm hoặc tránh rủi ro này, bên cho thuê (chủ sở hữu tài sản) sẽ 
phải gánh chịu rủi ro về sự lạc hậu của tài sản. Với các hợp đồng 
thuê tài sản huỷ ngang, bên thuê có thể thay đổi tài sản một cách 
dễ dàng hơn so với việc sở hữu tài sản. Bên thuê cũng được 
hưởng một khoản lợi từ thuế so với việc vay để mua hoặc mua 
trả chậm, vì chi phí thuê (gồm khấu hao và lãi) được tính toàn bộ 
vào chi phí trước khi xác định lợi nhuận chịu thuế, vì vậy chi phí 
thực tế mà bên thuê chịu là chi phí thuê sau khi khấu trừ phần 
giảm thuế. Trong khi đó, nếu đi vay để mua hoặc mua trả chậm, 
thuế chỉ được tính giảm trên chi phí lãi, phần nợ gốc không được 
khấu trừ thuế. Ngoài ra, khi thuê tài sản, bên thuê sẽ có được tài 
sản sử dụng trong điều kiện hạn hẹp về ngân quỹ, không có tiền 
để mua tài sản hoặc không có vốn đối ứng cho các hợp đồng vay 
để mua tài sản; Hoặc khi công ty có tài sản cố định nhưng thiếu 
tiền để mua nguyên vật liệu, thanh toán lương, … thì cũng có thể 
thực hiện giao dịch “Bán rồi thuê lại”. 
- Đối với bên cho thuê: trong suốt thời hạn cho thuê, bên cho thuê 
vẫn có quyền sở hữu pháp lý đối với tài sản, do đó bên cho thuê 
có quyền lấy lại tài sản nếu xét thấy bên thuê có biểu hiện vi 
phạm hợp đồng. Mặt khác, trong trường hợp bên thuê lâm vào 
tình trạng phá sản thì tài sản thuê vẫn không bị phát mãi mà vẫn 
bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp của bên cho thuê đối với tài 
sản này. 
 Ảnh hưởng của thuê tài sản đến báo cáo tài chính (bên thuê) 
Ảnh hưởng của thuê tài sản, không phân biệt thuê tài chính hay 
thuê hoạt động, đều ảnh hưởng giống nhau đối với dòng lưu 
chuyển tiền tệ, bởi dòng tiền thuê tài sản đối với bên thuê chính 
là một khoản chi phí phải trả cố định, nó được xem như một 
khoản thanh toán cố định cho một món nợ. Nhưng thuê tài chính 
và thuê hoạt động sẽ có ảnh hưởng khác nhau đối với Bảng cân 
đối kế toán và Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. 
Đối với Bảng cân đối kế toán, theo chuẩn mực kế toán Việt Nam 
số 06 “Thuê tài sản”, bên thuê ghi nhận tài sản thuê tài chính là 
tài sản và tương ứng nợ phải trả trên Bảng cân đối kế toán với 
cùng một giá trị bằng với giá trị hợp lý của tài sản thuê hoặc giá 
trị hiện tại của khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu tại thời điểm 
khởi đầu thuê. Trong trường hợp thuê hoạt động thì giá trị tài sản 
thuê không được ghi nhận vào giá trị tài sản của bên thuê. Giả sử 
đầu năm N, công ty có nhu cầu tăng thêm một tài sản cố định 
dùng cho bộ phận bán hàng với giá trị là 200 triệu đồng, thời gian 
khấu hao ước tính là 10 năm, lãi suất 10%/năm. Để có tài sản 
này, công ty có thể sử dụng hình thức thuê hoạt động hoặc thuê 
tài chính. Với hình thức thuê tài chính, ta xác định được mức 
khấu hao là 20 triệu/năm, sử dụng công thức tài chính ta cũng 
tính được số tiền phải trả mỗi năm (cả gốc và lãi) là 32,55 triệu 
đồng. Với hình thức thuê hoạt động, chi phí thuê phải trả mỗi năm 
là 32,55 triệu đồng. Giả sử các yếu tố khác không đổi trong năm 
N và N-1, ta có Bảng cân đối kế toán (tóm tắt) được lập vào cuối 
năm như sau: 
ĐVT: triệu đồng 
Chỉ tiêu Năm N-1 Năm N 
Thuê 
hoạt 
động 
Thuê tài 
chính 
A - Tài sản ngắn hạn 
B - Tài sản dài hạn 
300
700 
300
700 
300
880 
Tổng tài sản 1.000 1.000 1.180
A - Nợ phải trả 
B - Nguồn vốn CSH 
400
600 
400
600 
580
600 
Tổng nguồn vốn 1.000 1.000 1.180
Đối với Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, chi phí thuê tài 
sản có tác động cuối cùng đến lợi nhuận của công ty là như 
nhau, nhưng thể hiện chi tiết trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh 
doanh là khác nhau. Trong trường hợp thuê hoạt động, chi phí 
thuê được ghi nhận toàn bộ vào chi phí hoạt động sản xuất kinh 
doanh của công ty phù hợp với bộ phận sử dụng tài sản. Trong 
trường hợp thuê tài chính, chi phí thuê được tách ra thành hai bộ 
phận là chi phí khấu hao và chi phí trả lãi. Chi phí khấu được ghi 
nhận vào chi phí sản xuất kinh doanh phù hợp với bộ phận sử 
dụng tài sản, còn chi phí trả lãi tính vào chi phí tài chính. Cũng 
với tình huống trên, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (tóm 
tắt) được thể hiện như sau: 
ĐVT: triệu đồng 
Chỉ tiêu Năm N-1 Năm N 
Thuê Thuê tài 
hoạt 
động 
chính 
1. Doanh thu BH V CCDV 
4. Giá vốn hàng bán 
7. Chi phí tài chính 
8. Chi phí bán hàng 
9. Chi phí quản lý DN 
14. Lợi nhuận trước thuế 
400
200
40
50
60
50
400
200
40
82,550
60
17,45
400
200
52,550
70
60
17,45
 15. Chi phí thuế TNDN hiện hành 
(28%) 
16. LN sau thuế TNDN 
14
36 
4,886
12,564 
4,886
12,564