TÓM TẮT
Có hai nền tiểu thuyết ảnh hưởng rất sâu đậm đến tiểu thuyết quốc ngữ Nam Kì cuối
thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, đó là tiểu thuyết Pháp và tiểu thuyết Trung Quốc.
Ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc được thấy rõ nhất qua phong trào dịch thuật
“truyện Tàu” ra chữ quốc ngữ ở Nam Kì vào đầu thế kỉ XX. Phong trào này đã tác động
rất lớn đến đời sống văn học của Nam Kì. Đồng thời cũng tạo nên một phản ứng ngược
sau này, đó là phong trào sáng tác những truyện văn xuôi quốc ngữ, những “kim thời
tiểu thuyết”có bối cảnh là đất nước Việt Nam, con người Việt Nam, đặc biệt là tiểu
thuyết lịch sử.
Việc dịch thuật tiểu thuyết phương Tây, cùng với phong trào dịch thuật truyện Tàu đã
tác động quyết định đến việc hình thành tiểu thuyết quốc ngữ ở Nam Bộ. Sau bước dịch
thuật, mô phỏng - phóng tác cũng là một bước đi quan trọng để các nhà văn của chúng ta
học tập, nắm bắt được kĩ thuật viết tiểu thuyết của phương Tây. Độc giả, qua những tác
phẩm này, cũng sẽ làm quen dần với những đặc điểm của thể loại mới. Hiện tượng mô
phỏng - phóng tác này cũng là tình hình chung của văn học Đông Nam Á và Đông Á vào
thời kì đó.
9 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 214 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của tiểu thuyết nước ngoài đến sự hình thành và phát triển của tiểu thuyết Nam Kì cuối thế kỉ XIX - Đầu thế kỉ XX, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 6 - Thaùng 6/2011
54
ẢNH HƯỞNG CỦA TIỂU THUYẾT NƯỚC NGOÀI ĐẾN
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TIỂU THUYẾT
NAM KÌ CUỐI THẾ KỈ XIX - ĐẦU THẾ KỈ XX
VÕ VĂN NHƠN
(*)
TÓM TẮT
Có hai nền tiểu thuyết ảnh hưởng rất sâu đậm đến tiểu thuyết quốc ngữ Nam Kì cuối
thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, đó là tiểu thuyết Pháp và tiểu thuyết Trung Quốc.
Ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc được thấy rõ nhất qua phong trào dịch thuật
“truyện Tàu” ra chữ quốc ngữ ở Nam Kì vào đầu thế kỉ XX. Phong trào này đã tác động
rất lớn đến đời sống văn học của Nam Kì. Đồng thời cũng tạo nên một phản ứng ngược
sau này, đó là phong trào sáng tác những truyện văn xuôi quốc ngữ, những “kim thời
tiểu thuyết”có bối cảnh là đất nước Việt Nam, con người Việt Nam, đặc biệt là tiểu
thuyết lịch sử.
Việc dịch thuật tiểu thuyết phương Tây, cùng với phong trào dịch thuật truyện Tàu đã
tác động quyết định đến việc hình thành tiểu thuyết quốc ngữ ở Nam Bộ. Sau bước dịch
thuật, mô phỏng - phóng tác cũng là một bước đi quan trọng để các nhà văn của chúng ta
học tập, nắm bắt được kĩ thuật viết tiểu thuyết của phương Tây. Độc giả, qua những tác
phẩm này, cũng sẽ làm quen dần với những đặc điểm của thể loại mới. Hiện tượng mô
phỏng - phóng tác này cũng là tình hình chung của văn học Đông Nam Á và Đông Á vào
thời kì đó.
ABSTRACT
(*)
The Cochin china novels have been deeply influenced by the two novels grounds in the
late 19th and the early 20th centuries: French novels and Chinese ones.
The influence of Chinese novels emerged from the movement of translating Chinese
fiction into Quoc Ngu ( The national and official language of Vietnam) in Cochin china in
the early 20th century. This movement has tremendously impacted on the life of Cochin
china literature. However, it has also caused an opposite reaction later, that is the
creating prose works by the Vietnamese Roman Alphabet, the “modern fictions” with the
context of Vietnamese people and Vietnamese country, and particularly the historical
novels.
The translation of Western novels together with the translation movement of Chinese
fiction have decisively impacted on the formation of Quoc Ngu novels in Cochin china.
After translating, simulating - adapting is an important step for the Cochin china writers to
learn and master the way of writing Western novels. Therefore, readers were also familiar
with the characteristics of a new genre. The simulating - adapting phenomenon is also the
general situation of Southeast Asian and East Asian literature at that time.
(*)
TS, Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh
55
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nam Kì từ cuối thế kỉ XIX đã trở thành
thuộc địa của thực dân Pháp, vì thế, Nam
Kì tiếp nhận văn minh, văn hoá phương
Tây sớm hơn so với các vùng miền khác.
Và văn học Nam Kì cũng đi tiên phong
trong việc hiện đại hoá, trong đó tiểu
thuyết quốc ngữ là thể loại phát triển mạnh
mẽ nhất.
Bên cạnh ảnh hưởng của văn học
phương Tây, văn học Trung Quốc cũng có
ảnh hưởng không nhỏ đến sự hình thành
tiểu thuyết quốc ngữ ở Nam Kì cuối thế kỉ
XIX đầu thế kỉ XX.
2. ẢNH HƯỞNG CỦA TIỂU THUYẾT
TRUNG QUỐC
2.1. Việc dịch thuật tiểu thuyết Trung
Quốc
Tiểu thuyết Trung Quốc với truyền
thống lâu đời của nó đã có ảnh hưởng sâu
sắc đến sự hình thành của tiểu thuyết Nam
Kì cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Ảnh
hưởng này thể hiện rõ nhất qua phong trào
dịch thuật “truyện Tàu” ra chữ quốc ngữ
rất sôi nổi ở Nam Kì vào đầu thế kỉ XX.
Phong trào dịch truyện Tàu này đã tác
động rất lớn đến công chúng độc giả và trở
thành một yếu tố quan trọng trong đời sống
văn học của Nam Kì.
Trần Bạch Đằng đã nhận định về vấn
đề này như sau: “Nói đến văn học thành
phố Sài Gòn không thể bỏ qua một hiện
tượng đã trở thành lịch sử: sự hưởng thụ
“truyện Tàu” và sau này “truyện chưởng”
của bộ phận quần chúng đông đảo. Tôi tin
rằng mức hưởng thụ đó rộng và sâu hơn ở
miền Bắc. Những Phong thần, Phong kiếm
xuân thu, Tam Quốc, Thuyết Đường, Phi
Long Nhạc Phi Những Chinh Đông Tảo
Bắc, Bình Tây gần như sống trong mỗi
nhà, các nhân vật Khương Trượng, Tôn
Tẩn, Chung Vô Diệm, Quan Vân Trường,
Trình Giảo Kim, Tiết Nhơn Quý, Địch
Thanh quen thuộc đến nỗi họ đi vào
ngôn ngữ dân gian: nóng như Trương Phi,
đa nghi như Tào Tháo, trung như Nhạc
Phi, v.v.”(1).
Sự phát triển phong trào dịch thuật
truyện Tàu thời kì đầu có sự tham gia của
chính quyền thực dân, năm 1872, Liraye đã
cho rằng: “Người ta sẽ không chống lại
việc học viết bằng mẫu tự Latinh, nếu tiếng
Annam được thay thế để dịch một vài tác
phẩm Trung Quốc cơ bản và cổ điển”.(2)
Như vậy ý đồ của thực dân trong việc dịch
thuật truyện Tàu trước hết là để khuyến
khích người dân bản xứ học chữ quốc ngữ.
Người đầu tiên dịch các sách Nho học
ra quốc ngữ là Trương Vĩnh Kí, nhưng
người dịch tác phẩm văn học Trung Quốc
ra quốc ngữ đầu tiên phải kể đến Huỳnh
Tịnh Của. Chuyện giải buồn (1885) của
ông phần nhiều là những truyện được dịch
từ các tác phẩm Trung Quốc như Cao sĩ
truyện, Trang Tử, Chiến quốc sách, Liêu
Trai chí dị.
Bản dịch “truyện Tàu” hoàn chỉnh phải
kể là Tam quốc chí tục dịch trên Nông cổ
mín đàm, đăng ngay trên số đầu tiên ngày
1. 8. 1901. Tên người dịch được ghi là
Canavaggio, một chủ đồn điền và là
thương gia người Pháp, chủ nhân báo Nông
cổ mín đàm. Theo Vương Hồng Sển, người
dịch chính là Lương Khắc Ninh, chủ bút
của báo. Gần đây, Lưu Hồng Sơn trên Tạp
chí Nghiên cứu văn học, số 9-2009, sau khi
đưa ra các tiêu chí để phán đoán và loại
trừ, cùng với tư liệu về các bài thơ ca ngợi
tài dịch Tam quốc của Nguyễn Chánh Sắt,
đã khẳng định Nguyễn Chánh Sắt mới
chính là người đầu tiên dịch Tam quốc diễn
nghĩa và bản dịch hoàn chỉnh dưới nhan đề
Tam quốc chí tục dịch đăng dài kì trên
Nông cổ mín đàm là công lao của Nguyễn
56
Chánh Sắt và Nguyễn An Khương (Tam
quốc chí tục dịch trên Nông cổ mín đàm
đăng đến số 258, 20 September 1906, thì
tên Canavaggio được thay bằng tên
Nguyễn An Khương).
Sau Tam quốc chí, Nông cổ mín đàm
còn lần lượt đăng các truyện dịch Liêu Trai
chí dị, Kim cổ kì quan, Bao Công kì án...
Đội ngũ dịch “truyện Tàu” sau đó có
Nguyễn Chánh Sắc, Trần Phong Sắc,
Nguyễn An Khương, Nguyễn An Cư, Đinh
Văn Đẩu, Trần Hữu Quang, Huỳnh Trí
Phú..., vốn là những người tinh thông Hán
học và biết chữ quốc ngữ. Họ đều là chủ
bút hay phụ bút cho các tờ báo như Nông cổ
mín đàm, Lục Tỉnh tân văn. Chính họ trong
khoảng từ 1905 đến 1910 đã đua nhau dịch
nhiều tiểu thuyết thần kì, anh hùng nghĩa
hiệp của Trung Quốc, tạo thành một phong
trào dịch “truyện Tàu”. Nguyễn An Khương,
Nguyễn Chánh Sắc, Trần Phong Sắc đã
được báo Phụ nữ tân văn đánh giá là “những
tay dịch thuật trứ danh của Nam Kì”, riêng
“Trần Phong Sắc là nhà dịch thuật trứ danh
nhứt”, một mình Trần Phong Sắc đã dịch
đến 29 bộ truyện Tàu.
Nhìn chung, truyện Tàu được dịch ở
Việt Nam có thể chia làm ba loại: loại tiểu
thuyết anh hùng như La Thông tảo Bắc,
Ngũ hổ bình Tây, Anh hùng náo Tam Môn
Giai, Càng Long hạ Giang Nam, Loại
này chiếm số lượng rất lớn ở Nam Kì do
phù hợp với tâm lí di dân của dân Nam Kì
và cả người Minh Hương xa xứ. Loại thứ
hai là loại tiểu thuyết kiếm hiệp như Phong
kiếm xuân thu, Giang hồ nữ hiệp, Hậu Hán
tam hợp bảo kiếm, Loại này được ưa
chuộng cả ở hai miền Nam Bắc. Loại thứ
ba là loại tiểu thuyết tình cảm xã hội, tiểu
thuyết diễm tình như Tây sương kí, Tuyết
hồng lệ sử, Loại này rất ít thấy ở Nam
Kì trong khi lại được độc giả miền Bắc rất
ưa chuộng. Nguyễn Văn Ngọc đã nhận xét:
“Thực vậy, ở trong Nam thì người ta tranh
nhau mà coi những Ngũ hổ bình Tây, Ngũ
hổ bình Nam còn ở ngoài Bắc thì người
ta chỉ ham coi Song phượng kì duyên, Lục
mẫu đơn”.(3)
Như vậy ở Nam Kì, về xu hướng
dịch thuật, các loại tiểu thuyết anh hùng,
tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết nghĩa
hiệp được dịch nhiều hơn bởi chúng
phù hợp với thị hiếu và hấp dẫn độc giả
hơn loại truyện tình lãng mạn, truyện tài
tử giai nhân.
Việc dịch thuật này cũng có thuận lợi
do nguồn sách cung cấp phong phú từ
người Hoa ở Sài Gòn – Chợ Lớn. Các
truyện này được in báo hoặc in thành tập.
Dưới hình thức tập truyện, chúng dễ dàng
phổ cập đến giới bình dân, nhờ vậy mà chữ
quốc ngữ có thêm phương tiện truyền bá.
Những Phong thần, Tam Quốc đều là
những chuyện gần gũi với tâm hồn người
bình dân, họ đàm luận với nhau về những
nhân vật ấy, những gương trung hiếu tiết
nghĩa rất quen thuộc ấy. Các truyện có
từng chương từng hồi, tình tiết rõ ràng, do
đó rất được hoan nghênh và chữ quốc ngữ
cũng được ưa thích theo. Cha mẹ nhà
nghèo cũng chỉ muốn cho con mình biết
đọc, biết viết để đọc truyện Tàu cho nghe
những khi mùa màng rảnh rỗi. Những nhà
văn lão thành như Hồ Hữu Tường hay
Vương Hồng Sển trong tác phẩm của mình
đều có ghi lại cái thú đọc truyện Tàu này.
Đã có nhiều nhà nghiên cứu giải thích
về sự hấp dẫn đặc biệt này của truyện Tàu
đối với công chúng độc giả Nam Kì. Bằng
Giang cho rằng: “Truyện Tàu tiêu thụ
mạnh trong mấy năm đầu của phong trào
một phần cũng vì mảnh đất sáng tác của ta
hãy còn là một bãi đất trống Truyện Tàu
tung hoành được cũng do vào thời đó
57
những phương tiện giải trí cho người dân
còn hiếm hoi”.(4)
Vũ Hạnh giải thích như sau : “Việc
người miền Nam thích đọc truyện Tàu phải
được cắt nghĩa bằng nhu cầu của họ tiếp
cận với những đức tính cố hữu của họ mà
họ tìm thấy trong những nhân vật tích cực
của truyện: đó là trung hiếu, tiết nghĩa, trí
dũng, tín lễ, cương trực, anh hùng. Truyện
Tàu cho họ những cặp đối kháng như La
Thành - Đơn Hùng Tín, Tần Cối - Nhạc
Phi, Bàng Quyên - Tôn Tẫn, Sài Trịnh
Triệu - Lưu Quan Trường; mà họ không
tìm thấy sách báo nào khác khi đó”.(5)
Địa chí văn hoá thành phố Hồ Chí
Minh cũng nhìn việc tiếp nhận truyện Tàu
ở một khía cạnh tích cực khác: “Rất nhiều
truyện Tàu là những cái túi khôn, đâu phải
là nhảm nhí là chính? Người miền Nam
đọc truyện Tàu, thuộc truyện Tàu, lấy ra từ
đó những cách ứng xử ở đời, soi vào
gương tốt, răn mình bằng những gương
phản diện”.(6)
Vương Hồng Sển cũng nói: “Truyện
Tàu dạy tôi nhiều điều xử thế nên tôi gọi
nó là một nghệ thuật, chứ chẳng phải
chơi Ngoài ra truyện Tàu có nhiều
gương tốt, truyện Tàu là một vùng rừng
thật lớn, một biển sâu và rộng, khai thác
không bao giờ hết và cạn cùng”.(7)
Những nhận định này cho thấy rằng
truyện Tàu đã thực sự trở thành một phần
máu thịt trong đời sống văn hoá tinh thần
của người dân Nam Bộ trong thời kì đó và
nó đã tác động không nhỏ đến khuynh
hướng sáng tác của tiểu thuyết trong giai
đoạn này.
Cũng cần nói thêm là Nam Kì còn là
nơi dung thân của đông đảo người Minh
Hương, tức những người Việt gốc Hoa
mang tinh thần “phản Thanh phục Minh”.
Những truyện dịch mang không khí tảo
Bắc, chinh Tây có lẽ cũng phần nào thỏa
mãn ước mơ phục quốc của họ.
Việt Nam và Trung Quốc vốn được coi
là “đồng văn”, đồng thời việc dịch truyện
Tàu là sự tiếp nối truyền thống giao lưu
văn học giữa hai nước, đáp ứng nhu cầu
giải trí của công chúng. “Truyện Tàu”, với
lối văn xuôi theo tiếng nói thường, với nội
dung hấp dẫn, đã tỏ ra thích hợp với thị
hiếu và trình độ thuởng thức của quần
chúng độc giả nơi vùng đất mới này. Việc
đọc truyện Tàu một thời gian dài đã thực
sự trở thành một thú vui trong quần chúng
nhân dân Nam Kì.
Việc dịch và xuất bản truyện Tàu tràn
lan vì lí do thương mại, chạy theo thị hiếu
của quần chúng cũng tạo nên một phản ứng
tích cực sau này, đó là phong trào sáng tác
những truyện văn xuôi quốc ngữ, những
“kim thời tiểu thuyết” có bối cảnh là đất
nước Việt Nam, con người Việt Nam, đặc
biêt là tiểu thuyết lịch sử với ý hướng
muốn thể hiện lịch sử dân tộc. Đó là một
phản ứng của lòng tự trọng dân tộc trước
sự xâm lăng của văn hoá nước ngoài,
nhưng quan trọng hơn, đó là bước quẫy
đạp mạnh mẽ của văn học Việt Nam để
thoát ra vòng kiềm tỏa lâu đời của văn học
Trung Hoa, đó là một nỗ lực trên bước
đường hiện đại hoá của văn học Việt Nam,
bước đường vượt ra khỏi ảnh hưởng của
văn học khu vực để hoà nhập vào dòng
chảy của văn học thế giới.
2.2. Ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung
Quốc về mặt thể loại
Ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc
về mặt thể loại trước hết phải nói đến ảnh
hưởng của tiểu thuyết chương hồi. Tiểu
thuyết này thuộc loại hình văn hoá trung
cổ, xuất hiện, định hình và phát triển trong
khoảng thời gian từ giữa thế kỉ XIV đến
đầu thế kỉ XIX. Thuộc thể loại văn xuôi tự
58
sự, tiểu thuyết chương hồi xuất hiện từ lâu
nhưng phát triển mạnh mẽ nhất trong thời
kì Minh – Thanh và có thể chia làm ba
loại: dân gian, bác học và thị dân. Ba loại
này có tính độc lập tương đối nhưng cũng
có sự giao thoa, thâm nhập lẫn nhau. Có
thể tìm thấy dấu ấn của ba loại này trong
các tác phẩm Tam Quốc chí, Tây Du kí
Nhìn tổng quát, tiểu thuyết chương hồi
thời kì Minh - Thanh thuộc thể loại trung
gian giữa truyện kể sử thi và tiểu thuyết
hiện đại.
Tiểu thuyết chương hồi bắt nguồn từ
những thoại bản. Thoại bản là những văn
bản làm gốc để người kể thuật chuyện cho
thính giả nghe. Đối với người kể chuyện,
mỗi hồi là một chuyện dùng để kể trong
một buổi, một kì hoặc một đêm. Để hấp
dẫn người nghe và giúp người nghe dễ theo
dõi câu chuyện, trước khi kể tiếp, người kể
có mấy câu thơ giới thiệu, nhắc lại những
đoạn đã kể một cách sơ lược. Kết thúc buổi
kể, thường ở ngay vào chỗ gay cấn, hồi
hộp nhất sẽ dừng lại ở câu “muốn biết việc
thế nào xin xem hồi sau phân giải”. Vì bắt
đầu từ thoại bản nên trong tiểu thuyết
chương hồi Trung Quốc yếu tố kể còn lưu
dấu rất rõ. Những chữ “rằng” xuất hiện
trong lối kể như: “Đổng Trác hỏi rằng,
Trương Phi nổi giận mà rằng ” chính là
dấu tích của truyện kể, khác với tiểu thuyết
là để đọc thầm.
Tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc
kết cấu theo trình tự thời gian đơn tuyến,
xoay tròn, khép kín. Ở đây, thời gian là cái
trục chính để dẫn dắt sự kiện, biến cố và số
phận nhân vật. Những sự kiện có trước nói
trước, có sau nói sau theo đúng thời gian
lịch sử. Trong loại tiểu thuyết anh hùng,
thời gian diễn ra thật gấp gáp, khẩn trương.
Thời gian trong tiểu thuyết đời thường là
dàn trải, chậm chạp. Không gian ở đây là
không gian không biên giới, không phải
biến động tự thân mà hầu như tĩnh tại và
tác giả có thể khống chế được.
Trong tiểu thuyết Nam Kì cuối thế kỉ
XIX đầu thế kỉ XX, hình thức kết cấu
chương hồi có thể thấy ở các tác phẩm như
Nặng gánh cang thường, Nhơn tình ấm
lạnh, của Hồ Biểu Chánh; Giọt máu
chung tình, Gia long tẩu quốc của Tân
Dân Tử; Việt Nam anh kiệt, Lê triều Lí
thị của Phạm Minh Kiên. Cả những tiểu
thuyết tôn giáo trên báo Nam Kì địa phận
phần lớn cũng đều tổ chức theo kết cấu
truyền thống này. Các nhà văn vẫn sử dụng
lối kết cấu theo thời gian đơn tuyến. Tiểu
thuyết Trung Quốc còn chi phối cách miêu
tả ngoại hình nhân vật, cách tả cảnh, tả
tình Câu văn biền ngẫu còn tồn tại khá
rõ trong nhiều tác phẩm cũng cho ta thấy
ảnh hưởng sâu sắc này. Trong nghệ thuật
xây dựng nhân vật, một số nhà viết tiểu
thuyết Nam Bộ quan tâm nhiều hơn đến
việc miêu tả hành động và ngôn ngữ của
nhân vật. Về đề tài, nhiều nhà văn chú ý
đến hành động của các nhân vật anh hùng,
những con người nghĩa hiệp, hảo hớn, ca
ngợi những con người nghĩa khí. Đó cũng
là sự gặp gỡ thú vị giữa truyện Tàu và cá
tính của con người Nam Bộ.
Loại truyện tài tử - giai nhân Trung
Quốc cũng có ít nhiều ảnh hưởng đến nội
dung cốt truyện của một số tác phẩm tiểu
thuyết ở Nam Kì. Hình ảnh Vương Thế
Trân, Nhan Khả Ái (Phan Yên ngoại sử),
Võ Đông Sơ, Bạch Thu Hà (Giọt máu
chung tình) v.v rất gần gũi với loại nhân
vật tài tử giai nhân của truyện Tàu.
Các nhà văn Nam Kì cũng chịu nhiều
ảnh hưởng của tiểu thuyết bình dân Trung
Quốc. Qua thống kê của Nhan Bảo, một
nhà Việt Nam học người Trung Quốc,
chúng ta thấy trường hợp các tiểu thuyết
59
như Gái trả thù cha, Man hoang kiếm hiệp,
Tiểu hồng bào hải thụy, Giang hồ nữ hiệp
của Nguyễn Chánh Sắc; Nhi nữ tạo anh
hùng của Gabriel Võ Lộ, thực chất cũng
được dịch từ những tiểu thuyết bình dân
của Trung Quốc.(8) Vì thế phải hết sức cẩn
trọng khi nghiên cứu các tác phẩm của giai
đoạn này, tránh việc gán ghép không chính
xác những tác phẩm dịch hoặc mô phỏng,
phóng tác từ tiểu thuyết Trung Quốc cho
các tác giả Việt Nam.
Không chỉ có tiểu thuyết cổ điển, tiểu
thuyết hiện đại của Trung Quốc cũng đã
kịp ảnh hưởng đến tiểu thuyết Nam Kì đầu
thế kỉ XX. Lê Hoằng Mưu đã thú nhận điều
này trên Lục Tỉnh Tân Văn số 1941 ngày
2.2.1925: “Tiểu thuyết Hoan hỉ kì oan này
chẳng trọn ở tôi bày đặt. Trừ các bộ tiểu
thuyết ở tôi làm ra, truyện này vẫn là tiểu
thuyết kim thời của Trung Huê cách mạng.
Xem qua thật là phong tình xằng xịu nhởm
nhúa lắm, trong xứ ta chưa có bộ tiểu
thuyết nào dám bì. Nhưng bởi trong có
nhiều khúc chiết éo le, lại cũng có vay trả
nhãn tiền và có thói tục đàn bà. Nên muốn
có tiểu thuyết khác ý tôi viết để độc giả
mua vui trong canh vắng tôi mượn tạm bộ
tiểu thuyết này chế giảm và sửa tình cảnh
lại chút ít hiến chư tôn nhàn duyệt.”
Hoan hỉ kì oan được đăng trên Lục
Tỉnh Tân Văn là một tên gọi khác của
Người bán ngọc, một tác phẩm đã được
nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Trung đánh
giá rất cao, bởi cho đây là một tiểu thuyết
có nhiều dáng dấp hiện đại trong việc xây
dựng một cốt truyện li kì, hấp dẫn, xen lẫn
những trang miêu tả tình yêu sắc dục với
những tình tiết án mạng và phá án. Nhà văn
đã có những thao tác miêu tả tâm lí nhân
vật, đi sâu vào nội tâm nhân vật, để từ đó
tính cách nhân vật hiện lên một cách rõ
rệt.(9)
Như đã nói ở trên, Người bán ngọc chỉ
là một tác phẩm phóng tác. Qua tư liệu
chúng tôi mới tìm được, tác phẩm mà Lê
Hoằng Mưu dựa vào để phóng tác có thể là
Hương Thái Căn cải trang gian dâm mệnh
phụ của Tây Hồ ngư ẩn chủ nhân đời
Thanh.
(10) Tác phẩm này từng được đoàn sứ
thần do Lê Quý Đôn làm Phó sứ, mua, đọc
và mang về nước trong trong chuyến đi sứ
Trung Quốc năm 1762. Tài năng của Lê
Hoằng Mưu là từ cốt truyện của một tác
phẩm vỏn vẹn 23 trang đã xây dựng được
thành một tiểu thuyết phức tạp với sự miêu
tả, phân tích tâm lí tinh tế, sâu sắc dày đến
gần 200 trang.
3. ẢNH HƯỞNG CỦA TIỂU THUYẾT
PHƯƠNG TÂY
3.1. Việc dịch thuật tiểu thuyết phương
Tây
Tiểu thuyết phương Tây, đặc biệt là
tiểu thuyết Pháp đã được dịch ra quốc ngữ
và xuất bản ở Nam Kì khá sớm, hơn cả tiểu
thuyết cổ điển Trung Quốc. Từ năm 1884
Trương Minh Kí đã dịch cuốn Truyện
Phansa diễn ra quốc ngữ, dịch cuốn Riche
et Pauvre (Phú bần truyện diễn ca) đăng ở
Gia Định báo, từ số 47, ngày 22-11-1884.
Năm 1887 ông dịch cuốn Les aventures de
Telemaque của Fenelon (Chuyện Tê Lê
Mặc gặp tình cờ). Bản dịch này bằng văn
vần, theo thể thơ lục bát. Năm 1886,
Truyện Robinson (tức Robinson Crusoe)
được dịch ra quốc ngữ và đăng ở Gia Định
báo (số 6, ngày 24-4 –1886). Cuối thế kỉ
XIX còn có Trần Nguyên Hanh dịch Les
conseils du Père Vincent (Gia huấn của lão
Vincent).
Đến đầu thế kỉ XX, sự xuất hiện của
những tờ báo có uy tín như Nông cổ mín
đàm, Lục tỉnh tân văn, Đông Pháp thời
báo, Nam Kì địa phận, đã góp phần rất
lớn trong việc đưa các bản dịch tiểu thuyết
60
phương Tây đến tay công chúng một cách
sâu rộng hơn.
Trên Lục Tỉnh Tân Văn có Le Comte
de Monte Cristo (Tiền căn báo hậu - 1907),
Les trois mousquetaires (Ba người ngự lâm
pháo thủ - 1914) của Alexandre Dumas, do
Trần Chánh Chiếu dịch.
Nông cổ mín đàm đăng các bản dịch
của Lê Hoằng Mưu. Lê Hoằng Mưu dịch
cả truyện Mỹ, Nga (qua tiếng Pháp) như
Chồng bắt vợ chạ, Vi Lê giết vợ đăng trên
Nông cổ mín đàm.
Từ năm 1916 báo Nam Kì địa phận cũng
bắt đầu đăng các truyện dịch