1. Asen - vua của các chất độc
Asen (As) là kim loại phân bố rộng rãi trong môi
trường đất, nước, không khí, động - thực vật và lương
thực thực phẩm. Nó thường kết hợp với các kim loại
khác như lưu huỳnh hoặc oxy. Quặng Asen thông
thường bao gồm arsenopyrite (asen xám, FeAsS),
asgar hoặc sandarach (asen màu đỏ, asf), asc (arsenic
màu vàng, As2S3) và arsenolit, một sản phẩm oxy hóa
của Asen sunphua. Các hợp chất Asen vô cơ độc hơn
các hợp chất hữu cơ, nhưng các hợp chất Asen hữu cơ
được chuyển thành các hợp chất vô cơ khi hấp thụ
trong các hệ thống sinh học [5][13][8][14]. Những đặc
tính độc hại của Asen được biết đến bởi Hippocrates.
Trong năm 370BC, ông đã mô tả bệnh đau dưới bụng
ở một thợ mỏ kim loại và các tính chất tương tự cũng
đã được mô tả khi nhiễm thủy ngân và Asen của
Theophrastus, Erebus vào thế kỷ thứ 4BC và bởi Pliny
Elder trong thế kỷ thứ nhất BC. Pedanius Dioscorides,
tác giả của cuốn dược liệu lịch sử De Materia Medica và bác sĩ người Hy Lạp trong triều đại của Hoàng
đế Rôma Nero, cho rằng arsenic là một chất độc và
nó đã được Nero sử dụng để đầu độc Tiberius Britannicus, 55 tuổi, nhằm nắm giữ vị trí của mình như
Hoàng đế La Mã [12][6]. Ngộ độc Asen rất
khó để phát hiện vì các triệu chứng ban đầu
giống như ngộ độc thực phẩm: tiêu chảy
nặng và nôn mửa, tê liệt rồi tử vong. Do có
khả năng đó nên từ rất lâu nó được xem là
một chất độc và từ thời cổ xưa các giới cầm
quyền đã ưa thích dùng để tiêu diệt đối thủ
và kẻ thù của họ.
5 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 348 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Asen trong môi trường và giải pháp kiểm soát, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n Nguyễn Dương Tuệ
Asen trong môi trường và giải pháp kiểm soát
1. Asen - vua của các chất độc
Asen (As) là kim loại phân bố rộng rãi trong môi
trường đất, nước, không khí, động - thực vật và lương
thực thực phẩm. Nó thường kết hợp với các kim loại
khác như lưu huỳnh hoặc oxy. Quặng Asen thông
thường bao gồm arsenopyrite (asen xám, FeAsS),
asgar hoặc sandarach (asen màu đỏ, asf), asc (arsenic
màu vàng, As2S3) và arsenolit, một sản phẩm oxy hóa
của Asen sunphua. Các hợp chất Asen vô cơ độc hơn
các hợp chất hữu cơ, nhưng các hợp chất Asen hữu cơ
được chuyển thành các hợp chất vô cơ khi hấp thụ
trong các hệ thống sinh học [5][13][8][14]. Những đặc
tính độc hại của Asen được biết đến bởi Hippocrates.
Trong năm 370BC, ông đã mô tả bệnh đau dưới bụng
ở một thợ mỏ kim loại và các tính chất tương tự cũng
đã được mô tả khi nhiễm thủy ngân và Asen của
Theophrastus, Erebus vào thế kỷ thứ 4BC và bởi Pliny
Elder trong thế kỷ thứ nhất BC. Pedanius Dioscorides,
tác giả của cuốn dược liệu lịch sử De Materia Med-
ica và bác sĩ người Hy Lạp trong triều đại của Hoàng
đế Rôma Nero, cho rằng arsenic là một chất độc và
nó đã được Nero sử dụng để đầu độc Tiberius Bri-
tannicus, 55 tuổi, nhằm nắm giữ vị trí của mình như
Hoàng đế La Mã [12][6]. Ngộ độc Asen rất
khó để phát hiện vì các triệu chứng ban đầu
giống như ngộ độc thực phẩm: tiêu chảy
nặng và nôn mửa, tê liệt rồi tử vong. Do có
khả năng đó nên từ rất lâu nó được xem là
một chất độc và từ thời cổ xưa các giới cầm
quyền đã ưa thích dùng để tiêu diệt đối thủ
và kẻ thù của họ.
Asen được gọi là chất độc của vua và vua
của các chất độc [14]. Nero sử dụng nó để giết
anh trai của mình, Britannicus, vì vậy ông có
thể trở thành Hoàng đế của Rome [8][6].
Trong thời Phục hưng, ở Châu Âu cũng đã
xuất hiện việc gây ngộ độc để tiêu diệt người
hàng xóm. Vào giữa thế kỷ 17, một phụ nữ Ý
có tên là Giulia Toffana, người đã chế các loại
mỹ phẩm có chứa Asen, Aqua Toffana và đưa
các mỹ phẩm bị nhiễm độc đến với nạn
nhân. Toffana và con gái là Girolama, đã bị
xử tử tại Rome vào năm 1659 vì đồng lõa
trong cái chết của mấy trăm người đàn ông
[6]. Trong năm 2008, các kết quả phân tích ở
Trung Quốc cũng đã khẳng định Hoàng đế
Quang Tự (光緒帝; 1871-1908) bị đầu độc
với một liều lượng lớn Asen, nghi phạm là Từ
Hi Thái Hậu và Viên Thế Khải [15].
Độ độc của Asen gấp 4 lần thủy ngân và
người ta có thể chết ngay nếu uống một lượng
bằng nửa hạt bắp. Ngộ độc Asen là bệnh kinh
niên do sử dụng nước uống, thực phẩm có
chứa Asen ở nồng độ cao trong một thời gian
dài. Các triệu chứng ngộ độc Asen bắt đầu
với nhức đầu, nhầm lẫn, tiêu chảy nặng
và buồn ngủ. Khi ngộ độc phát triển, dẫn đến
co giật và thay đổi sắc tố móng tay, được gọi
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 8/2017 [24]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 8/2017 [25]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
phân bố rộng khắp trong các môi trường
không khí, nước, đất và môi trường sinh vật.
Con người phơi nhiễm Asen vô cơ qua nước
uống, thức ăn bị ô nhiễm, hít thở khói bụi,
xăng xe, hóa chất, hút thuốc lá Phơi nhiễm
mãn tính gây nhiều tổn thương và ung thư
da rất đặc trưng. Với không khí, lớp Asen tồn
tại trong địa khí quyển ở thể rắn nhưng các
quá trình phong hóa núi lửa phun trào hoặc
các hoạt động khai thác, luyện kim, đốt
nhiên liệu hóa thạch đã dẫn Asen ra môi
trường không khí. Trong không khí tồn tại
cả 2 dạng Asen hữu cơ và vô cơ, từ đó cuốn
theo mưa đi vào các nguồn nước. Theo
hướng dẫn của WHO (tháng 6/2016) thì giới
hạn cho phép của Asen trong nước uống là
10μg/lít. Bộ Y tế Việt Nam cho rằng, tiêu
chuẩn 0,01 mg/l mới là an toàn. PGS
Nguyễn Huy Nga, Cục trưởng Cục Quản lý
môi trường y tế, Bộ Y tế (2014) cho biết;
nghiên cứu đăng trên tạp chí Environment
Health Perspect, được tiến hành tại 42 làng
của Đài Loan vào năm 2000 cho thấy, với
tiêu chuẩn cho phép đối với Asen trong nước
ăn uống là 0,05mg/l thì sẽ gia tăng đáng kể
là leukonychia striata (từ tiếng Hy Lạp leuko (“trắng”)
và nychia (“móng tay”) gọi là đinh trắng hoặc đốm
sữa[13][5], là một thuật ngữ y khoa chỉ sự đổi màu
trắng xuất hiện trên móng tay [8][12]. Các hiệu
ứng còn bao gồm sự thay đổi màu da, sự hình thành
của các vết cứng trên da, ung thư da, ung thư phổi,
ung thư thận và bàng quang cũng như có thể dẫn
tới hoại tử.
Rất khó phát hiện được người bị nhiễm độc Asen
vì triệu chứng của bệnh chỉ xuất hiện sau khi nhiễm
từ 10-15 năm, bởi vậy các nhà hóa học còn gọi Asen
là “sát thủ vô hình”. Asen nguyên tố và các hợp chất
của Asen cũng được cơ quan nghiên cứu ung thư quốc
tế (IARC - International Agency for Research on Can-
cer) và Liên minh Châu Âu (EU) công nhận là các
chất gây ung thư nhóm 1, có nghĩa nó là chất gây ung
thư ở người. Hai loại thạch tín vô cơ chính là arsenite
và arsenate đều độc hại và là chất gây ung thư. Asen
hữu cơ là hợp chất hữu cơ có chứa nguyên tử Asen,
như acid 4-hydroxy-3-nitrobenzenearsonic [20]. Asen
có thể xâm nhập cơ thể qua: hô hấp, da và chủ yếu là
qua đường tiêu hóa. Asen tác động xấu đến hệ tuần
hoàn, hệ thần kinh. Nếu bị nhiễm độc từ từ, mỗi ngày
một ít, tùy theo mức độ bị nhiễm và thể tạng mỗi
người, có thể xuất hiện nhiều bệnh như: rụng tóc, buồn
nôn, sút cân, ung thư, giảm trí nhớ...
Asen làm thay đổi cân bằng hệ thống enzim của cơ
thể, nên tác hại của nó đối với phụ nữ và trẻ em là lớn
nhất. Từ lâu, người ta đã biết đến tác hại của việc tiếp
xúc với Asen như: gây hoại tử các vết loét ở tay, chân,
làm rối loạn sắc tố da, sừng hóa gan bàn tay, gan bàn
chân, thậm chí liên quan đến bệnh tiểu đường, tim
mạch, ung thư bàng quang, ung thư gan [5][13]. Ar-
senic có liên quan đến sự thay đổi biểu sinh, sự thay
đổi xảy ra trong biểu hiện gen mà không có sự thay
đổi trong chuỗi ADN. Chúng bao gồm methyl hóa
ADN, thay đổi histone và can thiệp ARN. Mức độc
tính của arsenic gây ra quá nhiều methyl hóa ADN của
các gen ức chế khối u p16 và p53, do đó tăng nguy cơ
gây ung thư. Arsenic hoạt động thông qua việc thay
đổi chức năng của khoảng 200 enzyme nên độc tính
của nó bắt nguồn từ cách gây rối loạn về mặt hoá học
các chuỗi phản ứng phức tạp trong trao đổi chất ở cơ
thể, cuối cùng ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự cung
cấp năng lượng ở dạng hóa năng Adenosin triphosphat
(ATP)[5].
2. Tác động của Asen trong môi trường
Asen là thành phần tự nhiên của vỏ trái đất và được
Nhiễm độc Asen
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 8/2017 [26]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
dạng nào, tính chất của môi trường xung
quanh và khả năng sống của bản thân sinh
vật nhưng ảnh hưởng mà chúng mang lại
cho môi trường là không hề nhỏ. Bất cứ một
loài sinh vật nào bị nhiễm phải Asen thì số
lượng loài sẽ bị suy giảm rất mạnh, vì Asen
gây vô sinh, chậm phát triển và thậm chí là
tử vong. Ở những quặng kim loại đã được
phong hóa mà lại có nước chảy qua, chúng
chuyển thành dễ tan trong nước. Chính bởi
điều này mà chúng ta cần làm sạch Asen có
trong nguồn nước, từ nước sử dụng trong hộ
gia đình cho đến nước sản xuất. Đối với
người, khi ăn, uống phải một lượng lớn asen
từ 0,3-30mg sẽ xảy ra nhiễm độc cấp, các
triệu chứng thường bộc lộ trong vòng từ 30-
60 phút và dẫn tới tử vong sau vài giờ hoặc
vài ngày.
3. Các giải pháp kiểm soát Asen
Ở Việt Nam và một số quốc gia khác, tình
trạng nhiễm độc Asen được quan tâm nhiều
hơn đối với nguồn nước uống chứ không
phải trong thực phẩm. Tuy nhiên, cùng với
việc sử dụng nước ngầm, hóa chất nông
nghiệp bừa bãi, các loại thực phẩm nhiễm
Asen và kim loại nặng ngày một nhiều hơn.
Dù Asen là một nguyên tố vi lượng trong cơ
thể người và nó cần thiết với hàm lượng rất
nhỏ nhưng nguồn cung cấp Asen lại quá
phong phú từ nước uống đến đồ ăn, đồ mỹ
phẩm như thế lại gây hại cho cơ thể người,
nếu liều lượng lớn có thể gây ngộ độc, ung
thư. Về lâu dài, các chương trình mục tiêu
quốc gia về nước sạch, về vệ sinh môi
trường nông thôn, nông thôn mới tiếp tục
phát triển các trạm cấp nước sạch tập trung
thay thế dần nước giếng khoan hộ gia đình
tại các khu vực ô nhiễm Asen. Trong trường
hợp không có nguồn nước cấp từ hệ thống
cấp nước thì hộ gia đình có thể sử dụng một
số mô hình xử lý Asen hiệu quả như: sử
dụng bể lọc cát kết hợp với giàn phun mưa,
sử dụng mô hình bể lọc cát có bổ sung đinh
sắt lọc, sử dụng các loại bộ lọc Asen chuyên
dụng, sử dụng các nguồn nước thay thế khác
như nước mưa, nước máng
3.1. Giải pháp hóa học
Một số giải pháp kỹ thuật giảm thiểu
nguy cơ gây ung thư cho cộng đồng. Tổ chức y tế thế
giới (WHO) đưa ra khuyến cáo mức 0,01 mg/l là tuyệt
đối an toàn. Thông thường, sự độc hại của nhiều hợp
chất Asen hữu cơ thực sự bắt nguồn từ việc cơ thể có
thể phân giải nó ra Assen vô cơ. Đó là những gì mà
Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ
(FDA) khuyên nên tránh xa tất cả các hợp chất arsenic
nói chung vì các chất Asen hữu cơ có thể gây độc cho
cơ thể sau khi nó chuyển thành dạng Asen vô cơ. Do
đó, nói chung tất cả các hợp chất Asen là đều có xu
hướng gây độc với mức độ khác nhau [14].
Asen vô cơ độc hơn dạng hữu cơ, dạng gây độc ảnh
hưởng mạnh tới con người là Asen hóa trị III. Thạch
tín là tên gọi thông thường dùng chỉ nguyên tố Asen,
nhưng cũng đồng thời dùng để chỉ hợp chất oxit của
Asen hoá trị III (As2O3), có màu trắng, dạng bột, tan
được trong nước, rất độc. Asen cũng là thành phần của
lớp trầm tích vỏ trái đất nên nó thường có mặt trong
các tầng nước ngầm và nước bề mặt, tuy chỉ ở hàm
lượng thấp (khoảng vài μg/l). Tuy nhiên, ở một số khu
vực trên thế giới, nước ngầm có hàm lượng Asen rất
cao do lớp trầm tích có cấu trúc, thành phần hóa học
thuận lợi cho việc hòa tan Asen từ đất. Hiện tượng này
được phát hiện tại các khu vực đồng bằng châu thổ
thấp trũng, xảy ra lụt lội hàng năm, dòng chảy thủy
văn chậm, các lớp bồi tích trẻ thiếu oxy thuận lợi cho
việc giải phóng Asen từ đất ra nước. Nước sinh hoạt
nhiễm Asen thường được biết đến với tên gọi “thạch
tín”. Khi chúng ta sử dụng nguồn nước mà có chứa
kim loại này trong 1 thời gian dài thì có khả năng sẽ
bị phơi nhiễm mãn tính, gây một số tác hại lâu dài như
là viêm loét da ở tay chân, ung thư da, ung thư bàng
quang, ung thư gan. Tùy thuộc vào việc Asen nằm ở
Các hợp chất Asen vô cơ (Inorganic Arsenic compounds)
và Asen vô cơ (Organic Arsenic compounds)
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 8/2017 [27]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
kiểm tra, sử dụng các công nghệ xử lý sinh
học nhằm giải quyết các vấn đề môi trường
được thực hiện bởi Elekwachi và cộng sự.
Họ nhận thấy rằng có thể sử dụng các công
nghệ xử lý sinh học tại chỗ, chi phí thấp là
cần thiết nhằm loại bỏ các kim loại nặng
thông qua “thực vật điều chỉnh lại” (phy-
toremediation), và ”giải độc” chất gây ô
nhiễm, và nó đã nhận được sự quan tâm
rộng rãi do hiệu quả cao [6]. Các tiêu chí
được sử dụng để tăng hàm lượng kim loại
tích lũy sinh học dao động khoảng
100mg/kg sinh khối khô bằng các kỹ thuật:
Phytoextraction, dùng cây cỏ để tích tụ các
kim loại trong chồi cây, Phytofiltration để
lọc, thu hồi của kim loại từ nước, Phytosta-
bilization để làm ổn định các kim loại trong
đất do rễ, Phytovolatilization dễ làm cho
bay hơi và sau đó giải phóng chúng vào khí
quyển qua bề mặt lá, Phytodegradation để
làm suy giảm độc lực kim loại bằng enzyme
trong mô, tế bào thực vật, Rhizospheric để
tăng sự hấp thụ các kim loại ở vùng rễ cây
hay bằng các vi sinh vật vùng rễ (như Peni-
cillium, Aspergillus và Rhizopus) và sự tích
lũy “thái quá” (Hyperaccumulator) các kim
loại nặng của thực vật được xem là chất hấp
thụ sinh học (biosorbents) quan trọng, thuận
tiện hơn so với các phương pháp truyền
thống.
Mặt khác, Sun và cộng sự cũng đã đánh
giá tính đa dạng di truyền của vi khuẩn “ăn”
được nhiều kim loại nặng, chẳng hạn
Elshotzia apliendens và Commelina com-
munis “ăn” từ 63% đến 125% hàm lượng
Cu trong cây bị nhiễm bệnh so với các cây
không nhiễm để cho thấy tiềm năng rất lớn
trong việc sử dụng vi sinh vật xử lý kim loại
nặng [2]. Những cây có khả năng “ăn” Asen
có thể làm sạch các cánh đồng lúa trên thế giới
được đặc biệt chú ý. Thực vật hấp thụ chất
dinh dưỡng từ bụi bẩn xung quanh rễ của
chúng nhưng nếu bụi bẩn đó đầy chất độc,
nhiều cây cũng sẽ hút nó. Cây lúa đặc biệt
“thích thú” Asen. Nhưng khi kim loại nặng
vào cơm, nó cũng đi vào chuỗi thức ăn, làm
tăng nguy cơ bệnh tiểu đường, ung thư và
một loạt các vấn đề sức khỏe khác. Om
Asen trong nước ăn/uống và sinh hoạt dựa trên khả
năng tạo thành hợp chất ít tan của Asen V như
FeAsO4, Mn(AsO4)2, AlAsO4 đã và đang được áp
dụng tại Việt Nam và trên thế giới như hấp phụ Asen
bằng sắt hydroxit, xử lý Asen trong nước bằng oxit sắt
phủ trên các vật liệu cấu trúc hạt, hoặc bẳng rỉ sắt kim
loại, hoặc bằng nhôm hoạt động, hoặc xử lý Asen bằng
FePO4, hoặc bằng các vật liệu đi từ Mangan, sử dụng
dương xỉ để loại bỏ Asen trong nước, hoặc xử lý
bằng màng lọc, hoặc bằng hệ thống lọc cát, hệ thống
lọc với vật liệu mangan MF-97, loại trừ Asen bằng
than hoạt tính làm từ gáo dừa... Giải pháp công nghệ
đơn giản thường làm khi xử lý nước là dẫn nước bề
mặt, nước từ dưới đất qua dàn phun và lọc qua bể lọc
gồm sỏi, cát thông thường, vì khi qua dàn phun,
nguồn nước nhiều sắt sẽ loại trừ được Arsen, theo sơ
đồ phản ứng sau:
Fe (II) + oxy không khí → Fe (III)
Fe (III) + As (III) → Fe (II) + As(V)
Fe (II) + oxy không khí → Fe (III)
Fe(III) + As (V) → FeAsO4 ↓
FeAsO4 kết tủa cùng Fe (OH)3 và được lọc bỏ qua
lớp cát sỏi.
Cho đến nay chưa có biện pháp hữu hiệu hạn chế
hoặc không sử dụng nguồn nước và thực phẩm ô
nhiễm Asen. Với các phương pháp hóa học, Asen có
thể được loại bỏ ra khỏi nước uống thông qua lọc nước
nhưng đối với gạo thì khó khăn hơn. Những năm 60,
70 của thế kỷ XX, Ấn Độ tiến hành cuộc “cách mạng
xanh” canh tác lúa trên các cánh đồng ngập úng nhiễm
Asen, nhưng kết quả khử độc không thành mà còn làm
diện tích nhiễm Asen tăng lên[6][11].
3.2. Trong công nghệ sinh học
Phương pháp khử độc bằng vi sinh vật hay thực
vật (phytoremediation) được xem là khá ưu thế và có
thể áp dụng rộng rãi [9]. Vai trò của thực vật và vi sinh
vật trong chuyển hóa sinh học kim loại nặng thành các
dạng không độc hại được ghi chép đầy đủ. Để thu hồi
kim loại nặng trong nước và đất bị ô nhiễm thì có thể
sử dụng vi sinh vật đã thích nghi, tồn tại và phát triển
trong môi trường sống bị ô nhiễm kim loại nặng.
Những sinh vật này phát triển thông qua các cơ chế
“cai nghiện” khác nhau như sự hút thấm bề mặt sinh
học (biosorption), tích tụ sinh học (bioconcentration)
hoặc tích lũy sinh học (bioaccumulation), hay biến đổi
sinh học (biotransformation) và khoáng hóa sinh học
(Biomineralization), và đặc biệt là có thể được khai
thác để xử lý sinh học tại chỗ [3][7]. Việc khảo sát,
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 8/2017 [28]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
gene trên có thể hấp thu chất Asen lên lá gấp
16 lần loại cây trồng trong tự nhiên.[1]
Trên thế giới có hàng tỷ người sử dụng
lương thực. Mong muốn của các nhà khoa
học là tỷ lệ hấp thu Asen ở cây có thể gấp
35-45 lần, thậm chí ghép gene trên vào các
loại cây bụi, cây cỏ để tăng hấp thu, điều này
hoàn toàn có thể [6]./.
Tài liệu tham khảo
1. Al-Shehbaz, I.A.,O’Kane, L. Steve, Taxon-
omy and Phylogeny of Arabidopsis (Brassi-
caceae), The Arabidopsis Book: 1-22 (2002).
2. Antoine-François de Fourcroy(1804), A gen-
eral system of chemical knowledge, and its appli-
cation to the phenomena of nature and art, pp. 84.
3. Din, M. B.; Gould, R. D.(1998), “High field
conduction mechanism of the evaporated cadmium
arsenide thin films”, ICSE’98. 1998 IEEE.
4. Gentry PR,et al (January 2004), “Physiolog-
ically based pharmacokinetic modeling of arsenic
in the mouse”, Journal of Toxicology and Environ-
mental Health, Part a. 67.
5. Hughes MF, Beck BD, Chen Y, Lewis AS,
Thomas DJ (2011), Arsenic exposure and toxicol-
ogy: a historical perspective.
6. Naujokas, Marisa F.;et al. (3 January 2013),
“The Broad Scope of Health Effects from Chronic
Arsenic Exposure: Update on a Worldwide Public
Health Problem”
7. Somani, Satu M. (2001), Chemical warfare
agents: toxicity at low levels.
8. Shakhashiri BZ. Chemical of the
Week(2000), Arsenic, Madison Chemistry Depart-
ment, University of Wisconsin. 2000.
9. Stephanie M. McPherson (Aug 31, 2015),
Arsenic - Eating plants could clean up the world’s
rice.
10. Space Daily (2006), Plants That Can Eat Ar-
senic.
11. Smith R (2012), Arsenic: a murderous his-
tory, Dartmouth Medical School, Dartmouth.
12. Shakhashiri BZ (2000), Chemical of the
Week – Arsenic, Madison Chemistry Department,
University of Wisconsin.
13. The Plant List (2010), “Crambe”.
14. Vahidnia A, van der Voet GB, de Wolff FA
(2007), Arsenic neurotoxicity - a review, Human Exper-
iment Toxicol.
15. Xinhua (November 3, 2008), Forensic sci-
entists: China’s reformist second-to-last emperor
was murdered.
Parkash đang có kế hoạch loại bỏ Asen từ đất ruộng
lúa ở Ấn Độ nhờ cây Crambe, cây hoang dại thuộc
chi thực vật có hoa trong họ Cải (Brassicaceae) và có
số loài khá phong phú (20 loài) [13][5].
Theo khuyến cáo của WHO, mức arsenic trong
nước tối đa là 10 ppb. Nước từ một số khu vực của
Bangladesh có hàm lượng Asen gấp 10 đến 50 lần và
lắng xuống lớp đất mặt, rồi được lấy ra từ những cây
lúa có nhu cầu dinh dưỡng và theo ước tính, arsenic
trong nước và cây trồng có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ
của 400 triệu người Bangladesh và các khu vực lân
cận. Bằng công nghệ ADN tái tổ hợp (rDNA
technology), người ta chuyển một trình tự ADN mang
gen Asen của Crambe cho cây trồng. TS Parkash cho
rằng, họ đang làm cho cây trồng trở thành “nhà máy”
làm sạch đất và cây trồng có thể chịu được mức độ cao
của arsenic nhưng chỉ tích lũy trong lá, không tích lũy
trong quả, hay hạt. Do chỉ tích lũy trong sinh khối lá,
nông dân chỉ cần lấp các phần trên mặt đất để đảm bảo
rằng Asen đã bị mang đi. Cây Crambe này phát triển
nhanh. Chỉ trong 45 ngày, nó phát triển đủ lá để chứa
nhiều chất arsenic còn sót lại từ hệ thống tưới mùa
trước [13]. Tại trường Đại học Skôvde, Thụy Điển đã
xác định được hai loại gene quan trọng trong việc khử
các vùng đất nhiễm Asen. Khi trồng cây sẽ tích tụ chất
độc vào đó và họ đã tính toán rằng, chức năng của loại
gene trên giúp cho đất giảm tới 12% Asen[10].
Lương thực nhiễm Asen cũng là một vấn đề lớn.
Asen thường có trong gạo khi lúa được trồng trên đất
nhiễm độc. Động vật ăn cây trồng nhiễm Asen cũng
bị hấp thụ độc tố vào cơ thể, người ăn thịt động vật
cũng bị nhiễm chất này. Trước đó, các nhà khoa học
tại Đại học Georgia (Mỹ) cũng đã thành công trong
việc tạo ra cây “ăn Asen” bằng liệu pháp kỹ thuật
gene. Người đứng đầu nhóm nghiên cứu này là nhà
gene học Richard Meagher, ông đã phát hiện ra cách
trồng loại cây hấp thụ Asen vào rễ để đưa lên lá, thích
hợp với việc canh tác trên các vùng đất ô nhiễm. Nhờ
đó, có thể hy vọng làm tái sinh hàng triệu hécta đất bị
bỏ hoang do nhiễm Asen trên thế giới được khôi phục
lại thành đất trồng bằng con đường công nghệ sinh học
[10]. Năm 2002, Richard Meagher và các cộng sự
cũng đã thành công trong việc ghép gene từ vi khuẩn
Escherichia coli (E. coli) vào giống cây hoang dại
Arabidopsis thuộc chi thực vật có hoa trong họ Cải
(Brassicaceae) [5][13]. Khi đưa gene đơn ACR2 vào
trong hệ gene của cây Arabidopsis thì thấy cây có thể
hấp thụ Asen lên lá và phân tích cho thấy, cây có chứa