Ba bà chúa nghề dệt đất Thăng Long
Thăng Long xưa không chỉ nổi tiếng về Kinh kỳ kẻ chợ mà còn là vùng quê gốc tổ những làng nghề, được mệnh danh đất trăm nghề quả không sai.
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ba bà chúa nghề dệt đất Thăng Long, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ba bà chúa nghề dệt đất 
Thăng Long 
(LV) - Thăng Long xưa không chỉ nổi tiếng về Kinh kỳ kẻ chợ 
mà còn là vùng quê gốc tổ những làng nghề, được mệnh 
danh đất trăm nghề quả không sai. 
Tượng thờ Bà Chúa dệt lĩnh Phạm Thị Ngọc Đô ở đình Trích 
Sài. Ảnh: Hồng Anh 
Theo các truyền thuyết và thần tích còn lưu truyền cho đến 
ngày nay, Hà Nội xưa đã xuất hiện ba bà chúa nghề dệt. Đó 
là bà chúa nghề tằm, bà chúa dề lĩnh và bà chúa dệt vải. Các 
bà là niềm tự hào của những người tầm tang canh cửi đất 
Thăng Long xưa và Hà Nội nay. 
Chuyện xưa kể rằng, thời vua Lê Thánh Tông có viên quan 
tên là Trần Vĩ khi nghỉ hưu mở trường dạy học ở Nghi Tàm 
sinh hạ được người con gái tài sắc là Quỳnh Hoa. Quỳnh Hoa 
càng lớn càng xinh, hay chữ nghĩa giỏi tầm tang canh cửi và 
được gả cho Liễu Nghị con trai một người bạn của cha nàng. 
Liễn Nghị đỗ tiến sĩ làm tri phủ, được sắc chỉ sai chặn đường 
tiến quân của giặc Chiêm Thành. Thấy chàng lâm trận, 
Quỳnh Hoa liền búi tóc giả trai chỉ huy giai nhân và dân dã 
trong vùng đánh tập hậu quân giặc. Giặc giã phải lui vua 
phong Liễu Nghị chức Đô đài ngự sử sau chuyển sang làm 
Phủ Doãn Phụng Thiên (tức Thăng Long). 
Quỳnh Hoa nhờ tài năng, công đức được phong Quận phu 
nhân cho lưu ở cung cấm dạy cung nữ các nghề chăn tằm dệt 
vải. Khi chồng mất, Quỳnh Hoa xin vua cho về Nghi Tàm 
nơi cha dạy học cũ để giúp dân trong vùng mở mang nghề 
tầm tang canh cửi. Bà mất, trở thành thần được dân tôn là 
thành hoàng thôn Nghi Tàm, được dân sáu chục làng dâu tằm 
quanh vùng thờ cúng. Xưa kia hàng năm vào kỳ giỗ bà ở 
Nghi Tàm đại diện triều đình vẫn về dâng lễ. Nhà vua có sắc 
phong bà “thượng đẳng phúc thần, dữ quốc đồng hưu, Quỳnh 
Hoa phu nhân”. Dân làng Nghi Tàm và nhân dân các vùng 
dân bãi ven hồ Tây, ven sông Hồng, sông Đáy tôn bà là bà 
chúa nghề tằm. 
Cùng với thần tích về Quỳnh Hoa bà chúa nghề tằm, thời vua 
Lê Thánh Tông còn có truyền thuyết bà chúa dệt lĩnh Phạm 
Thị Ngọc Đô, vị tổ sư của nghề dệt lĩnh Bưởi nổi tiếng một 
thời bao gồm các vùng Bái Ân, Nghĩa Đô, Trích Sài. 
Chuyện kể rằng thời Lê Thánh Tông, vua thân chinh đi đánh 
Chiêm Thành thắng trận. Vua Chiêm Thành đã hiến cho một 
số người đẹp, trong đó có một cô sau này mang tên Việt là 
Phạm Thị Ngọc Đô. Thánh Tông rất yêu mến nàng nhưng để 
gái Chiêm ra vào cung cấm Việt e không tiện nên ban cho 
Ngọc Đô về đất trích Sài. Nơi đây cảnh đẹp, dân lành lại có 
khoảng đất rộng trên bảy chục mẫu làm hoa lợi nên gọi là 
Thiên Niên Trang. Ngọc Đô nhập tịch Trích Sài gây dựng 
Thiên Niên Trang và cùng với hai mươi bốn thị tì, vũ nữ 
Chiêm mở mang nghề dệt lĩnh. Bà còn đem cả nghề dệt lĩnh 
Chiêm Thành truyền dạy cho dân khắp vùng. Bà sinh nở một 
lần nhưng chẳng may qua đời cả mẹ lẫn con. Dân làng Trích 
Sài nhớ ơn lập miếu thờ Bà chúa dệt lĩnh. Trong miếu có đôi 
câu đố ngày nay chỉ còn lại một vế là: Chức nữ cơ truyền mĩ 
nghệ (cô gái truyền cho nghề quý). Mùng tám tháng giêng 
hàng năm là ngày tế lễ. Bài chầu văn khi tế còn lưu truyền có 
đoạn: “Nhờ đức thiên tôn dạy nết cửu canh. Chân giày tay dệt 
đã nhanh. Văn chương có chữ rành rành bởi ai Quay tơ lụa 
chỉ nhiều đường, dọc theo dậm mắt dệt ngang có mành”. 
 Lụa được phơi phản chiếu ánh nắng mặt trời đủ màu sắc. 
Ảnh: Xuân Chính 
Nếu bà chúa dệt lĩnh ở thời Lê Thánh Tông thì đời vua Lý 
Huệ Tông có bà chúa dệt vải tên là nàng La. Nàng La vốn là 
con đẻ của mối tình giữa chàng trai thị dệt Ái Châu với cô gái 
đất Kinh Kỳ họ Mai. Năm 18 tuổi nàng La đã nổi tiếng xinh 
đẹp, tài khéo dệt vải lại hay chữ nghĩa. Nàng kết duyên với 
Đoàn Thưởng xuất thân từ một thợ học nghề dệt. Hai vợ 
chồng dù chí thú nghề canh cửi nơi thôn dã nhưng vẫn nuôi 
chí nghiệp quan. Nàng La động viên và gánh vác mọi việc để 
Đoàn Thưởng lo đèn sách. 
Thế rồi chàng trúng cử khi vua mở khoa thi và sau đó được 
thăng chức Hộ bộ tả thị lang trông coi các nghề thủ công. Khi 
vua ra chiếu thi tài các nghề, vợ chồng nàng La, Đoàn 
Thưởng trở về chốn xưa mộ tuyển và truyền dạy đưa thợ vào 
Kinh thi dệt đạt giải cao. Nhờ đó Đoàn Thưởng xin phép 
được dựng cho vợ một khu nhà ở ven hồ Tây lấy đó làm nơi 
dạy dân dệt vải. Nàng La nhờ hay chữ, thỉnh thoảng còn được 
vua Lý truyền cho vào nơi cung cấm dạy công chúa và các 
tiểu thư nhà quan thạo nghề canh cửi. Đứng trước nguy cơ Lý 
Chiêu Hoàng sắp bị nhà Trần cướp ngôi, chồng nàng La là 
Đoàn Thưởng khi đó đang làm Đốc lĩnh Hoan Châu - Ái 
Châu kéo quân về ứng phó. Chiến thuyền về đến bến Thanh 
Lũng - Thanh Lâm thì gặp bão, Đoàn Thưởng bị sóng cuốn 
trôi mất. 
Nghe tin dữ, nàng La uống rượu độc tự vẫn mà chết theo 
chồng. Vua Lý cảm kích công đức tài năng và tiết hạnh, sai 
quan đến làm lễ trọng thể, dựng miếu thờ ở ven Hồ Tây và 
truy tặng nàng 4 chữ: “Thụ La công chúa”. Thần tích được 
ghi lại suy tôn nàng là “bà chúa dệt vải” đất Thăng Long. 
Chẳng phải ngẫu nhiên mà ba người con gái có xuất xứ từ ba 
miền đất Bắc, Trung, Nam của tổ quốc lại hội tụ về Thăng 
Long xưa làm nên thần tích nghề tầm tang canh cửi, một nét 
đẹp rất đáng trân trọng tự hào của Thủ đô ta. 
            
        
        
    
                    