Warren Buffett được thừa nhận rộng rãi là một nhà đầu tưvĩ đại nhất của mọi
thời đại, nhưng nếu bạn hỏi ông xem ai là nhà đầu tưvĩ đại nhất câu trảlời mà bạn có
thểnhận được từ cây đại thụtrong lĩnh vực đầu tưcổphiếu là: Benjamin Graham.
Graham là nhà đầu tưthông thái, người được xem là Bốgiàtrong lĩnh vực phân tích
chứng khoán và đầu tưgiá trị. Ý tưởng và phương pháp đầu tưcủa ông được trình bày
rõ ràng trong cuốn sách “Security analysis - Phân tích chứng khoán” (1934) và cuốn
“The intelligent - nhà đầu tưthông minh” (1949), là hai trong sốnhững ấn phẩm nổi
tiếng nhất của ông. Những ấn phẩm này thường được xem là cần thiết phải đọc của
bất cứnhà đầu tưnào mặc dù chúngkhông dễ đọc chút nào. Ở đây chúng tôi đã cô
đọng lại những nguyên tắc đầu tưchính của Graham và giúp bạn có một khởi đầu
trong việc hiểu được triết lý mang lại thắng lợi của ông.
9 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1719 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ba nguyên tắc đầu tư bất hủ của Benjamin Graham và phong cách đầu tư của Warren Buffett, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ba nguyên tắc đầu tư bất hủ của Benjamin Graham và
phong cách đầu tư của Warren Buffett
Warren Buffett được thừa nhận rộng rãi là một nhà đầu tư vĩ đại nhất của mọi
thời đại, nhưng nếu bạn hỏi ông xem ai là nhà đầu tư vĩ đại nhất câu trả lời mà bạn có
thể nhận được từ cây đại thụ trong lĩnh vực đầu tư cổ phiếu là: Benjamin Graham.
Graham là nhà đầu tư thông thái, người được xem là Bố già trong lĩnh vực phân tích
chứng khoán và đầu tư giá trị. Ý tưởng và phương pháp đầu tư của ông được trình bày
rõ ràng trong cuốn sách “Security analysis - Phân tích chứng khoán” (1934) và cuốn
“The intelligent - nhà đầu tư thông minh” (1949), là hai trong số những ấn phẩm nổi
tiếng nhất của ông. Những ấn phẩm này thường được xem là cần thiết phải đọc của
bất cứ nhà đầu tư nào mặc dù chúng không dễ đọc chút nào. Ở đây chúng tôi đã cô
đọng lại những nguyên tắc đầu tư chính của Graham và giúp bạn có một khởi đầu
trong việc hiểu được triết lý mang lại thắng lợi của ông.
Nguyên tắc 1: Luôn đầu tư với lợi nhuận an toàn
Lợi nhuận an toàn là nguyên tắc mua chứng khoán với giá giảm đáng kể tới
mức giá trị thực, nó được hiểu là không chỉ đem đến những cơ hội lãi lớn mà còn hạn
chế tối đa nguy cơ giảm giá trong đầu tư. Ví dụ đơn giản, Graham muốn mua tài sản
có giá trị 1 đô la nhưng trả giá 0.5 đô la. Ông ấy làm điều này rất tốt.
Đối với Graham những tài sản này có thể đáng giá bởi tiềm năng sinh lời ổn
định hoặc đơn giản vì chúng có giá trị thanh khoản. Ví dụ như thật không bình thường
nếu Graham đầu tư vào cổ phiếu nào mà tài sản có thể thanh khoản được trên bảng cân
đối kế toán (giá trị thực của các khoản nợ) có giá cao hơn mức chấp nhận của thị
trường (theo Graham gọi tên là thu nhập ròng). Điều này có nghĩa Graham đang mua
một thứ mà chẳng có lợi chút nào. Đây là chiến lược đầu tư điển hình trong số nhiều
chiến lược của Graham.
Khái niệm này rất quan trọng để các nhà đầu tư lưu ý vì đầu tư giá trị đem đến
lợi nhuận thực chất một khi thị trường không thể tránh khỏi việc tái định giá làm tăng
giá cổ phiếu tới mức hợp lý. Nó cũng giúp bảo vệ trong trường hợp thị trường đi
xuống nếu mọi thứ diễn ra không theo kế hoạch và tình hình kinh doanh bấp bênh.
Khoản lợi nhuận an toàn từ việc mua lại công ty được định giá thấp hơn giá trị của nó
rất nhiều là điểm trung tâm trong những thương vụ thành công của Graham. Khi lựa
chọn kỹ lưỡng, Graham nhận thấy hiếm khi xuất hiện sự sụt giá thêm nữa ở những cổ
phiếu có giá trị thấp này. Khi nhiều sinh viên của Graham thành công với những chiến
lược của riêng mình thì họ vẫn đều cùng chia sẻ quan điểm chính là “lợi nhuận an
toàn’.
Nguyên tắc 2: Đương đầu với sự bất ổn và kiếm lợi từ đó
Đầu tư chứng khoán có nghĩa là đối phó với sự bất ổn. Thay vì tháo chạy lúc thị
trường căng thẳng thì nhà đầu tư thông minh lại chào đón xu hướng suy giảm như cơ
hội đầu tư tuyệt vời. Graham minh họa điều này bằng hình ảnh tương tự ”Ngài Thị
trường”, đối tác kinh doanh tưởng tượng của mọi nhà đầu tư. Hàng ngày ‘Ngài thị
trường” chào giá các nhà đầu tư hoặc để mua hoặc để bán cổ phần kinh doanh. Lúc thì
thị trường bị quá khích bởi viễn cảnh kinh doanh và đưa ra mức giá quá cao, khi thì
thất vọng bởi tương lai và đưa ra mức giá quá thấp.
Bởi thị trường chứng khoán có những cảm xúc tương tự nên bài học ở đây là
bạn không nên để những quan điểm của “Thị trường” sai khiến những cảm xúc của
riêng bạn, hoặc tệ hơn là định hướng cho quyết định đầu tư của bạn. Thay vì thế, bạn
nên định hình phong cách tiên lượng về giá trị của riêng mình trên cơ sở kiểm chứng
sự kiện một cách chắc chắn và hợp lý. Hơn nữa bạn chỉ nên mua khi giá được chào có
ý nghĩa và bán khi được giá. Ở một khía cạnh khác, thị trường đôi khi chao đảo bất
thường, nhưng thay vì sợ hãi trước sự bất ổn bạn hãy sử dụng nó như một cơ hội để
mua được giá hời và bán ra khi cổ phần của bạn được giá cao hơn giá trị thực.
Đây là hai chiến thuật Graham đưa ra nhằm hạn chế tác động tiêu cực từ tính
bất ổn của thị trường:
1. Bình ổn giá trị đô la
Bình ổn giá trị đô la được thực hiện bằng cách định kỳ mua cổ phiếu tương
đương với một giá trị đô la nhất định. Nó giúp duy trì ổn định giá, có nghĩa nhà đầu tư
không phải quan tâm đến việc mua nó hoàn toàn ở vị trí dẫn đầu thị trường hay không.
Bình ổn giá trị đô la là một phương thức dành cho nhà đầu tư thụ động và nó làm giảm
bớt gánh nặng trách nhiệm trong việc chọn mua cổ phiếu với giá bao nhiêu và khi nào
cho đúng.
2. Đầu tư cả cổ phiếu và trái phiếu
Graham gợi ý nhà đầu tư nên phân bổ danh mục đầu tư cân đối giữa cổ phiếu và
trái phiếu như một cách để bảo toàn vốn khi thị trường suy thoái thì vẫn duy trì được
thu nhập từ trái phiếu. Nên nhớ triết lý của Graham là trên hết phải bảo toàn vốn sau
đó mới làm cho nó tăng trưởng. Ông đưa ra mức 25% – 75% đầu tư vào trái phiếu tùy
tình hình biến đổi thị trường. Chiến thuật này có điểm lợi là giữ cho nhà đầu tư tránh
được cảm giác khó chịu dẫn đến sự cám dỗ tham gia vào các thương vụ bất lợi.
Nguyên tắc 3: Tự biết mình thuộc loại nhà đầu tư nào
Graham khuyên các nhà đầu tư phải biết rõ cá tính đầu tư riêng của mình. Để
minh họa cho điều này, ông phân biệt rõ những nhóm nhà đầu tư khác nhau tham gia
trên thị trường. Nhóm chủ động và nhóm bị động. Graham đề cập đến khái niệm chủ
động cho những nhà đầu tư tấn công và bị động cho nhưng nhà đầu tư phòng thủ. Bạn
chỉ có duy nhất một trong hai lựa chọn: hoặc là hãy cam kết nghiêm túc bằng thời gian
và sức lực của mình để trở thành nhà đầu tư có hạng, biết cân bằng giữa lượng và chất
của khảo sát thực tế với lãi suất mong đợi. Nếu đây không phải là thế mạnh của bạn
hãy bằng lòng chấp nhận mức lời bị động và thấp hơn nhưng với thời gian và công sức
rất ít. Graham thay đổi quan niệm có tính hàn lâm từ trước tới nay là “rủi ro = lợi
nhuận”. Đối với ông thì “công sức = lợi nhuận” mới đúng. Bạn càng bỏ ra nhiều công
sức trong việc đầu tư bạn càng kiếm được nhiều lợi nhuận.
Nếu bạn không có đủ thời gian và sự nghiên cứu nghiêm túc một cách chất
lượng danh mục đầu tư của bạn thì hãy hãy đầu tư vào một danh mục được lựa chọn
tốt. Graham cho rằng nhà đầu tư thụ động có thể đạt được lợi nhuận trung bình bằng
cách đơn giản mua 30 cổ phiếu công nghiệp Dow Jones với lượng trung bình như
nhau. Cả Graham và Buffett đều cho rằng có thể đạt được lợi nhuận trung bình, ví dụ
giống như lợi nhuận của S&P 500 – thì đó là một thành quả thực sự hơn là dường như
có thể. Theo Graham, sự ảo tưởng của nhiều người mua cổ phần là ở chỗ nếu quá dễ
để có được khoản lợi nhuận trung bình mà chẳng mất hoặc bỏ ra một chút công sức
(thông qua danh mục đầu tư) thì bỏ ra thêm một chút công sức chắc sẽ mang lại lợi
nhuận lớn hơn một chút. Thực tế thì hầu hết những người cố gắng làm việc này đến
cùng đã làm cho lợi nhuận kém hơn nhiều mức trung bình.
Theo quan điểm hiện đại nhà đầu tư phòng thủ thì đầu tư vào danh mục có cả
cổ phiếu và trái phiếu. Về bản chất họ sở hữu toàn bộ thị trường, hưởng lợi từ khu vực
đang hoạt động tốt nhất mà không cần cố gắng dự đoán từ trước. Làm như vậy, một
nhà đầu tư hầu như được bảo đảm có lợi nhuận của thị trường và tránh được điều tồi tệ
hơn mức trung bình bằng cách để kết quả tổng thể thị trường tự kiểm soát lợi nhuận
dài hạn. Theo Graham, việc bắt nhịp thị trường nói thì dễ hơn làm, và nhiều nhà đầu tư
thấy mình không bắt nhịp được thị trường.
Người đầu cơ và Nhà đầu tư
Không phải tất thảy người chơi chứng khoán đều là nhà đầu tư. Graham tin
rằng đánh giá phê phán ai còn xác định đâu là nhà đầu cơ hay nhà đầu tư. Sự khác
nhau đơn giản là: một nhà đầu tư coi cổ phiếu như một phần công việc kinh doanh và
người nắm giữ cổ phiếu là người chủ công việc kinh doanh đó, trong khi quan điểm
của nhà đầu cơ xem đó như là trò chơi với những tờ giấy đắt tiền, không quan tâm đến
giá trị thực. Đối với nhà đầu cơ, giá trị chỉ được xác định bởi giá do người nào trả giá
cho tài sản đó. Graham chỉ ra rằng đầu cơ hay đầu tư cũng đều thông minh – miễn sao
bạn chắc chắn hiểu chính mình sẽ làm tốt ở loại nào.
Phong cách đầu tư của Warren Buffett
Những luận điểm cơ bản của Graham là bất hủ, là hết sức cần thiết cho sự thành
công lâu dài. Ông mua cổ phiếu với quan niệm mua dưới mức giá trị của doanh nghiệp
và biến nó trở thành khoa học trong khi hầu hết tất cả các nhà đầu tư có quan điểm
chơi chứng khoán đều dựa trên sự suy đoán. Graham là bậc thầy vĩ đại đầu tiên về đầu
tư, chứng tỏ những gì trong dòng máu tri thức của dòng họ tự thức phát triển. Nếu bạn
muốn cải thiện kỹ năng đầu tư của mình, chẳng hại gì khi học những điều tuyệt vời
nhất; Graham tiếp tục chứng minh giá trị học thuyết thông qua những môn đồ của ông,
ví như Warren Buffett, người đã tao ra một tập quán cho nhịp điệu thị trường.
Trong ấn phẩm cuối cùng về Warren Buffett “Phong cách đầu tư của Warren
Buffett” (2004), Robert Hagstrom đã minh họa phương pháp đầu tư của nhà đầu tư giá
trị lỗi lạc nhất thế giới. Nếu bạn muốn lựa chọn một phong cách đầu tư giá trị cổ điển,
hẳn bạn cũng biết Warren Buffett là hình mẫu có vai trò lớn. Ngay từ ngày đầu lập
nghiệp, Buffett đã nói “trong tôi có đến 85% là Benjamin Graham”. Graham là cha đẻ
của đầu tư giá trị. Ông đã đưa ra khái niệm về giá trị nội tại – là giá trị cơ bản hợp lý
của cổ phiếu dựa trên khả năng sinh lời của nó trong tương lai.
Có một số thứ chẳng có giá trị gì theo diễn giải về đầu tư giá trị của Warren
Buffett. Thứ nhất, giống như rất nhiều công thức cho sự thành công, chúng thoạt nhìn
khá đơn giản nhưng không có nghĩa là dễ dàng. Bufett sử dụng hàng tá “nguyên lý đầu
tư” hay sự tính toán then chốt. Một trong số đó yêu cầu ban quản lý phải trung thực
với các cổ đông. Điều yêu cầu này đơn giản và dễ hiểu nhưng chẳng dễ trả lời chút
nào. Có những ví dụ thú vị về mâu thuẫn này: khái niệm thì phức tạp nhưng cũng đơn
giản. Ở khía cạnh này, giá trị kinh tế gia tăng (EVA) là một ví dụ thích hợp. Sự tính
toán đầy đủ của EVA không dễ gì lĩnh hội và sự giải thích về chiều hướng của EVA
thì phức tạp. Nhưng một khi bạn xem EVA chỉ là một danh mục dài các biến số và khi
được trang bị bằng công thức thì nó trở nên dễ dàng để tính toán EVA cho bất kỳ công
ty nào. Vì thế cho nên những nguyên lý của Buffett nghe có vẻ lời nói sáo bởi chúng
dễ hiểu nhưng lại có thể rất khó triển khai và ngược lại.
Thứ hai, cuốn “Cách thức của Warren Buffett” có thể được xem như phong
cách truyền thống căn bản trong đầu tư mà rất dễ thích nghi. Thậm chí tác giả của
cuốn sách bán chạy nhất cũng chính là môn đồ của phái thực hành, hay người theo triết
lý Buffett đôi lúc điều chỉnh cách tiếp cận riêng trong suốt quá trình đầu tư kể cả cổ
phiếu công nghệ cao, lĩnh vực dễ thấy Buffett tiếp tục tránh xa. Một trong những khía
cạnh hấp dẫn của trường phái Buffett là tính linh hoạt bên cạnh những thành công phi
thường của nó. Nếu là một tôn giáo thì nó không mang tính giáo điều mà thay vào đó
là sự tự phản ánh và thích ứng qua thời gian. Đây là tín hiệu tốt. Nhà kinh doanh trong
ngày có thể yêu cầu những nguyên tắc cứng rắn và bám vào công thức (có nghĩa là
một phương tiện kiểm soát tình cảm), nhưng tôi nghĩ chúng ta có thể chắc chắn nói
rằng những nhà đầu tư thành công không gì hơn là cần phải có ý thức thích nghi với
những trạng thái tinh thần tương ứng với thời gian khác nhau.
Theo Hagstrom, Buffett có mười hai nguyên lý đầu tư. Chúng được phân thành
các nhóm gồm kinh doanh, quản lý, thước đo tài chính và giá trị.
Kinh doanh
Buffett tự giới hạn bản thân một cách cứng rắn không tham gia vào “cuộc đua
tranh giành” của thương vụ mà ông có thể phân tích và hiểu rõ. Như Hagstrom viết:
thành công trong đầu tư không phải vấn đề ở chỗ bạn biết được bao nhiêu mà là bạn
thực tế đến đâu trong việc xác định được cái mà bạn không biết. Buffett xem sự hiểu
biết sâu sắc về vận hành kinh doanh này là điều kiện tiên quyết đối với dự báo khả thi
của hoạt động kinh doanh trong tương lai; có nghĩa là nếu bạn không hiểu về kinh
doanh thì làm sao bạn có thể tiên đoán được hoạt động? Mỗi nguyên lý kinh doanh của
Buffett đều hỗ trợ cho mục tiêu xây dựng nên đề án lớn: Đầu tiên hãy nhớ rằng bạn
đang phân tích việc kinh doanh không phải là thị trường hay nền kinh tế hay sự ủy mị
của nhà đầu tư. Thứ hai là kiên định trong việc tìm kiếm lịch sử hoạt động bởi nó sẽ
giúp cải thiện năng lực của bạn. Và thứ ba là phải biết chắc thương vụ có triển vọng về
lâu dài hay không.
Quản lý
Ba nguyên tắc quản lý của Buffett có liên quan đến việc đánh giá chất lượng
quản lý. Có lẽ đây là tác nghiệp phân tích khó nhất của nhà đầu tư. Buffett đòi hỏi
“quản lý có hợp lý không?” Cụ thể quản lý sẽ là khôn ngoan khi nó thỏa mãn yêu cầu
tái đầu tư lợi nhuận hoặc chia lợi tức của cổ đông. Đây là câu hỏi sâu sắc. Hầu hết các
khảo sát cho dù theo nhóm hay bình quân đều cho thấy có tính lịch sử rằng quản lý có
xu hướng trở nên tham lam và giữ lại lợi nhuận càng nhiều càng tốt vì theo lẽ tự nhiên
họ có xu hướng xây dựng đế chế và tìm kiếm một vị thế hơn là sử dụng dòng vốn theo
cách tối đa hóa giá trị của cổ đông. Một nguyên tắc khác đòi hỏi quản lý phải trung
thực. Họ có chấp nhận sai lầm không?
Và nguyên tắc quản lý cuối cùng đòi hỏi rằng: quản lý có chịu đựng được
những mệnh lệnh hành chính không? Nguyên lý này là quan trọng trong phạm vị rộng,
nó bao gồm cả việc tìm kiếm ban quản lý say mê hành động và chống lại việc mù
quáng sao chép chiến thuật và chiến lược của đối thủ cạnh tranh. Nếu đọc cuốn sách,
nguyên tắc đặc thù này có giá trị một cách khác thường. Nó đòi hỏi sự suy ngẫm và là
một trong những điều quan trọng nhất (ví dụ: việc đầu tiên tham gia thị trường, một
công ty phải xác định đâu là ranh giới giữa việc sao chép một cách mù quáng chiến
thuật của đối thủ cạnh tranh với việc đưa ra một chiến thuật vượt trội?)
Thước đo tài chính
Nguyên tắc tài chính không mấy phức tạp. Buffett nhìn vào lợi nhuận ròng trên
vốn chủ sở hữu (ROE). Hầu hết các sinh viên tài chính đều hiểu rằng ROE có thể bị
nhiễu bởi tỷ số nợ (là tỷ số giữa tổng nợ với vốn chủ sở hữu), cho nên về lý thuyết chỉ
số này còn thấp hơn chỉ số tỷ số lợi nhuận trên vốn đầu tư (ROC) theo một số phương
diện. ROC theo tôi có nghĩa là giống như lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) hay lợi
nhuận trên vốn vay (ROCE) mà ở đó tử số là lợi nhuận được tạo ra từ tất cả các nguồn
vốn được cung cấp và mẫu số bao gồm cả vốn chủ sở hữu và vốn vay. Dĩ nhiên,
Buffett hiểu rằng thay vì loại bỏ riêng các doanh nghiệp mang nợ thì tốt hơn là xem
xét đến một mức nợ thấp hợp lý. Ông cũng tìm kiếm mức lợi nhuận cao ở mức hợp lý
tự nhiên.
Hai nguyên tắc tài chính cuối cùng đều có chung cơ sở lý thuyết từ khái niệm
Giá trị kinh tế gia tăng. Đầu tiên Buffett xem xét đến cái mà ông gọi là “thu nhập của
chủ sở hữu”. Về thực chất đây là thu nhập sẵn có của các cổ đông, về tính kỹ thuật thì
nó không liên quan tới thu nhập từ cổ phần. Theo Buffett, nó được định nghĩa là lãi
ròng (Net income) cộng thêm phần giá trị khấu hao và phần nợ trả dần (nghĩa là phần
giá trị không bao gồm khoản phí liên quan đến tiền) (D&A) trừ đi chi phí vốn đầu tư
dài hạn (CAPX) trừ đi chi phí vốn phát sinh cho nhu cầu hoạt động (charge in W/C).
Tóm lại: lãi ròng + D&A – CAPX – (charge in W/C). Người theo chủ nghĩa thuần túy
sẽ phản đối những điều chỉnh chi tiết nhưng biểu thức này gần với khái niệm EVA
trước khi bạn trừ đi phần chi trả cổ tức cho cổ đông. Về cơ bản, với khái niệm “thu
nhập chủ sở hữu”, Buffett chỉ ra năng lực công ty trong việc điều hành đồng vốn của
cổ đông cũng chính là giới chủ. Nguyên tắc cuối cùng được gọi là “Học thuyết một
đồng đô la” (one-dollar premise). Giá trị thị trường trên một đô la được chuyển
nhượng vào mỗi đô la thu nhập được giữ lại là gì? Thước đo này rất giống với khái
niệm Giá trị thị trường gia tăng (MVA), tỷ số giá trị thị trường trên vốn đầu tư.
Giá trị
Nhóm nguyên tắc cuối cùng là Giá trị, theo đó Buffett thiết lập cách làm dựa
trên sự dự đoán giá trị thực của một công ty. Một đồng nghiệp kết luận quá trình liên
quan mật thiết thiết này như “toán học liên kết”. Buffett dự đoán thu nhập chủ sở hữu
trong tương lai sau đó chiết khấu trở lại tới giá trị hiện tại. Nên nhớ rằng nếu bạn áp
dụng nguyên tắc khác, sự dự đoán thu nhập tương lai – theo định nghĩa – được thực
hiện dễ hơn thông thường. Ví dụ như những khoản thu nhập không đổi định kỳ thì dễ
dự đoán hơn.
Buffett cũng đưa ra khái niệm “rào chắn - Moat”, cái được nổi lên như một hệ
quả trở thành tập quán thành công trên Morningstar của những công ty được yêu thích
nhờ có “rào chắn kinh tế” (economic moat). Rào chắn là “cái đem lại cho công ty một
lợi thế rõ rệt hơn đối thủ khác và bảo vệ nó trước những sự tấn công bất ngờ từ sự
cạnh tranh”. Một chút ít tính lý thuyết dị giáo có lẽ chỉ xảy ra với nhà hiền triết từ
Omaha, ông khấu trừ từ thu nhập được dự tính tới mức không có tỷ lệ rủi ro. Ông thực
hiện bằng cách kiên định với nguyên tắc “lợi nhuận an toàn – margin of safety” trong
khi áp dụng thận trọng những nguyên tắc khác với hàm ý giảm tới mức tối thiểu rủi ro
chứ không có nghĩa thực sự loại bỏ được rủi ro. (Hãy tham khảo công ty nào mà
Warren Buffett đang mua và bán? Hãy tham gia vào Coattail Investor, một sản phẩm
đăng ký theo chân một số nhà đầu tư tốt nhất thế giới)
Nguyên lý của Buffett tạo thành nền tảng trong đầu tư giá trị, nó có cơ chế mở
cho sự thích nghi và diễn giải lại về sau. Nó là một câu hỏi mở tới mức những nguyên
tắc này đòi hỏi sự bổ sung bằng tri thức trong tương lai, nơi những quá trình lịch sử
diễn ra tương ứng khó tìm thấy hơn, yếu tố vô hình đóng một vai trò quan trọng hơn
trong giá trị quyền kinh doanh và sự không rõ ràng về ranh giới giữa các ngành công
nghiệp làm cho sự phân tích kinh doanh càng khó khăn hơn.