Việt Nam gia nhập WTO ñã tạo ra nhiều cơhội cho nền kinh tếViệt Nam phát 
triển. Tuy nhiên,những thách thức ñối với các ngành kinh tếcủa Việt Nam khi tham gia 
hội nhập là rất lớn. Giải quyết những thách thức lớn ñó, mỗi ngành trong ñó có lĩnh 
vực bảo hiểm phải tìm ra cho mình những lợi thếcạnh tranh tích cực. Bài viết dưới ñây 
xin ñưa ra những phân tích từthì trường bảo hiểm Việt Nam với những thách thức và 
cơhội, từ ñó ñưa ra những giải pháp vềvấn ñềnguồn nhân lực cho lĩnh vực bảo hiểm 
Việt Nam
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 11 trang
11 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2207 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài báo Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành bảo hiểm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1 
Nâng cao năng lực cạnh tranh ñể hội nhập của bảo hiểm 
Việt Nam - Giải pháp từ nguồn nhân lực 
Hoàng Trọng Minh 
Tạp chí Hoạt ñộng Khoa học 
Bộ Khoa học và Công nghệ 
Việt Nam gia nhập WTO ñã tạo ra nhiều cơ hội cho nền kinh tế Việt Nam phát 
triển. Tuy nhiên,những thách thức ñối với các ngành kinh tế của Việt Nam khi tham gia 
hội nhập là rất lớn. Giải quyết những thách thức lớn ñó, mỗi ngành trong ñó có lĩnh 
vực bảo hiểm phải tìm ra cho mình những lợi thế cạnh tranh tích cực. Bài viết dưới ñây 
xin ñưa ra những phân tích từ thì trường bảo hiểm Việt Nam với những thách thức và 
cơ hội, từ ñó ñưa ra những giải pháp về vấn ñề nguồn nhân lực cho lĩnh vực bảo hiểm 
Việt Nam 
Thị trường bảo hiểm Việt Nam sau khi gia nhập WTO 
Năm 2007 
ðây là năm ñầu tiên Việt Nam thực hiện các cam kết khi trở thành thành viên thứ 
150 của tổ chức Thương mại quốc tế WTO. Tăng trưởng GDP ñạt 8,5%, ñầu tư trực 
tiếp nước ngoài tương ñương 20,3 tỉ USD, ñầu tư toàn xã hội ñạt 40% GDP, vốn ODA 
ñạt 5,4 tỉ USD xuất khẩu ñạt 48 tỉ USD. Nhiều ngành có bước phát triển mạnh, mang 
tính ñột phá như: Vận tải biển và ñóng tàu, hàng không dân dụng, dệt may, giày da... 
Các ngành Tín dụng ngân hàng, chứng khoán, quỹ ñầu tư, bảo hiểm... có bước phát 
triển ổn ñịnh. Nhiều văn bản pháp quy ñược ban hành vừa nâng cao tính quản lý Nhà 
nước, vừa tạo tính chủ ñộng, sáng tạo cho doanh nghiệp bảo hiểm, vừa bảo vệ quyền lợi 
người tham gia bảo hiểm và ñã góp phần tích cực phát triển thị trường bảo hiểm Việt 
Nam, như: Nghị ñịnh (Nð) 45, 46 ra ngày 27.3.2007, Thông tư 155, 156 hướng dẫn thi 
hành Nð 45, Nð 46 ngày 20.12.2007, Thông tư liên tịch Bộ Công an, Bộ Tài chính số 
41 và Qð 28 ngày 14.4.2007 về bảo hiểm cháy nổ bắt buộc, Qð 96 ngày 19.11.2007 và 
 2 
Qð 102 ngày 14.12.2007 về triển khai bảo hiểm liên kết chung và bảo hiểm liên kết 
ñơn vị… ðây là những tiền ñề cơ bản tạo ñiều kiện thuận lợi cho ngành bảo hiểm Việt 
Nam phát triển. Tuy nhiên, thiên tai, tai nạn xảy ra trong năm 2007 tương ñối nhiều ñã 
gây ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt ñộng kinh doanh bảo hiểm. 
Trong năm 2007, các doanh nghiệp hoạt ñộng trong lĩnh vực bảo hiểm ñã tăng lên, 
tổng số doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ có mặt tại thị trường Việt Nam là 23 doanh 
nghiệp, 9 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, 1 doanh nghiệp tái bảo hiểm, 8 doanh 
nghiệp môi giới bảo hiểm. Các doanh nghiệp bảo hiểm tiếp tục nâng cao năng lực hoạt 
ñộng, chấp nhận cạnh tranh lành mạnh trong xu thế mở cửa hội nhập ngày càng sôi 
ñộng. ðặc biệt, ñã chú ý tới ñào tạo cán bộ bảo hiểm, ñào tạo và sử dụng ñội ngũ ñại lý 
bảo hiểm ngày càng có chất lượng. Hầu hết các doanh nghiệp bảo hiểm ñều ñầu tư lớn 
vào phát triển công nghệ thông tin phục vụ cho công tác quản lý và khai thác bảo hiểm. 
Nhiều doanh nghiệp bảo hiểm ñã tăng vốn với quy mô lớn cao hơn cả vốn pháp ñịnh, 
tăng khả năng tài chính, tăng năng lực giữ lại và giảm bớt phần tái bảo hiểm. Hầu hết 
các doanh nghiệp bảo hiểm ñều thành lập bộ phận chuyên trách ñầu tư, các doanh 
nghiệp có quy mô lớn ñã thành lập ngân hàng, công ty chứng khoán, công ty ñầu tư tài 
chính, công ty quản lý quỹ. Một số doanh nghiệp bảo hiểm ñã chọn ñược ñối tác chiến 
lược là những tập ñoàn bảo hiểm, tài chính hàng ñầu quốc tế như Bảo Việt với HSBC, 
Bảo Minh với AXA, VINARE với Swiss Re vừa thu ñược nguồn thặng dư vốn lớn, vừa 
tiếp thu ñược kinh nghiệm công nghệ quản lý bảo hiểm, ñầu tư và phát triển sản phẩm 
bảo hiểm mới. 
Cụ thể: Năm 2007, bảo hiểm phi nhân thọ có bước tăng trưởng ñột phá cao nhất 
trong 5 năm qua, doanh thu ñạt 8.360 tỉ ñồng tăng 31% so với 2006. Tổng quỹ dự 
phòng nghiệp vụ ñạt 4.500 tỉ ñồng, vốn chủ sở hữu gần 8.000 tỉ ñồng, ñầu tư vào nền 
kinh tế quốc dân gần 9.000 tỉ ñồng, nộp ngân sách Nhà nước trên 1.000 tỉ ñồng (bao 
gồm cả thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập ñại lý và thuế thu nhập doanh nghiệp). Các 
doanh nghiệp có vốn chủ sở hữu lớn là Bảo Minh 2.226 tỉ ñồng (kể cả thặng dư vốn), 
PVI 1.750 tỉ ñồng (kể cả thặng dư vốn), Bảo hiểm Bảo Việt 1.005 tỉ ñồng. Các doanh 
nghiệp bảo hiểm có dự phòng nghiệp vụ lớn là Bảo hiểm Bảo Việt 1.895 tỉ ñồng, Bảo 
 3 
Minh 785 tỷ ñồng, PVI 460 tỉ ñồng, PTI 303 tỉ ñồng. Các doanh nghiệp bảo hiểm có 
vốn ñầu tư vào nền kinh tế lớn là Bảo hiểm Bảo Việt 2.900 tỉ ñồng, Bảo Minh 2.211 tỉ 
ñồng, PVI 2.210 tỉ ñồng. 
Bảo hiểm nhân thọ ñã có những sản phẩm hấp dẫn ñể thu hút khách hàng tham gia 
bảo hiểm. Doanh thu Bảo hiểm nhân thọ ñạt 9.397 tỉ ñồng, tăng 12% so với năm 2006, 
ñây là doanh thu cao nhất trong 3 năm qua. ðiều này chứng tỏ Bảo hiểm nhân thọ sau 
một thời gian ổn ñịnh ñã bước vào một giai ñoạn mới của thời kỳ phát triển. Với những 
yếu tố trên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, tăng thu nhập bình quân ñầu 
người sẽ ñem lại sự tăng trưởng của thị trường Bảo hiểm Nhân thọ Việt năm 2008 ước 
khoảng 20% - 25%. 
Tuy nhiên, do cạnh tranh gay gắt, các doanh nghiệp hạ phí bảo hiểm, tăng phần trợ 
cấp cho các ñại lý, làm giảm hiệu quả kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp bảo hiểm có kết 
quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm không khả quan, thậm chí không có lãi do tăng tỉ lệ 
bồi thường, doanh thu thấp do giảm phí và tăng chi phí, lãi thu ñược ñể chia cho cổ 
ñông chủ yếu từ lãi ñầu tư. Tình hình này nếu kéo dài sẽ hạ uy tín của doanh nghiệp bảo 
hiểm và sức ép của cổ ñông về cổ tức buộc các doanh nghiệp bảo hiểm phải có sự thay 
ñổi chiến lược kinh doanh và quản lý. 
6 tháng ñầu năm 2008 
Kinh tế - xã hội nước ta tiếp tục tăng trưởng ở mức cao và có nhiều chính sách 
kìm chế lạm phát, tạo thế tăng trưởng bền vững. Tuy nhiên, duy chỉ có thị trường tài 
chính, ngân hàng, chứng khoán, ngoại tệ, giá cả ñã có nhiều biến ñộng ảnh hưởng 
không tốt ñến nền kinh tế. Cụ thể, GDP tăng trưởng 6,5%. Giá trị sản lượng nông 
nghiệp ñạt 93.100 tỉ ñồng (tăng 4,3%). Giá trị sản lượng công nghiệp ñạt 326.000 tỉ 
ñồng (tăng 16,5%). Xuất khẩu ñạt 29,7 tỉ USD (tăng 31,8%). Nhập khẩu ñạt 44,5 tỉ 
USD (tăng 60,3%) với mức nhập siêu 14,7 tỉ USD làm cho khan hiếm ngoại tệ ñẩy tỉ 
giá lên cao, tác ñộng ñến tăng giá lạm phát. Chỉ số lạm phát là 18,44%, tuy nhiên, tháng 
6 ñã khống chế ñược giá tiêu dùng là 2,14%. Thị trường tài chính giá cả ñã có nhiều 
dấu hiệu tích cực, thị trường chứng khoán ñã dần dần khôi phục, các Ngân hàng ñã bắt 
ñầu giảm lãi suất huy ñộng và lãi suất cho vay, nhiều mặt hàng ñã bước ñầu giảm giá. 
 4 
ðầu tư nước ngoài ñạt hơn 31 tỉ USD. Những yếu tố trên ñã tác ñộng lớn ñến hoạt ñộng 
kinh doanh bảo hiểm. 
Cụ thể, bảo hiểm phi nhân thọ ñạt doanh thu 5.562 tỉ ñồng (tăng 43%) so với 
cùng kỳ năm 2007. Chiếm tỉ trọng lớn là các nghiệp vụ bảo hiểm Xe cơ giới 1.699 tỉ 
ñồng, bao hiểm thân tàu 602 tỉ ñồng, bảo hiểm sức khỏe và tai nạn con người 583 tỉ 
ñồng… Toàn thị trường ñã giải quyết bồi thường 1.940 tỉ ñồng tỉ lệ bồi thường 35%. 
Bảo hiểm nhân thọ ñạt 5.027 tỉ ñồng (tăng 13,58% so với năm 2006). Tổng số 
hợp ñồng có hiệu lực ñến 30.6.2008 là 8.249.930 hợp ñồng (tăng 18,76% so với cùng 
kỳ năm 2007). Hiện tại, thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam ñã bắt ñầu chịu tác 
ñộng bởi những ảnh hưởng do khó khăn của nền kinh tế Việt Nam từ cuối năm 2007. 
Các doanh nghiệp bảo hiểm Nhân thọ ñã tập trung nhiều vào tính hiệu quả khai thác của 
các hợp ñồng bảo hiểm bằng cách phát triển nhiều sản phẩm bảo hiểm mới, nâng cao số 
tiền bảo hiểm từ ñó tăng ñược doanh thu phí bảo hiểm. Các sản phẩm bảo hiểm liên kết 
chung và liên kết ñơn vị cũng ñóng góp ñáng kể cho phát triển doanh thu bảo hiểm 
nhân thọ. Số tiền bảo hiểm bình quân trên một hợp ñồng khai thác mới trong năm 2008 
là 41,81 triệu ñồng/hợp ñồng (tăng 40% so với chỉ tiêu này cùng kỳ năm 2007). ðiều 
này ñược chứng mình là mặc dù số lượng hợp ñồng khai thác mới không tăng nhưng 
phí bảo hiểm các hợp ñồng khai thác mới vẫn tăng trưởng ấn tượng và dự ñoán, thị 
trường bảo hiểm Nhân thọ Việt Nam ñến cuối năm 2008 cần vươn lên giữ vững tốc ñộ 
tăng trưởng trên 14% - 16%. 
 Doanh thu của thị trường bảo hiểm 
ðơn vi: Tỷ ñồng 
Lĩnh vực 2006 2007 6 tháng ñầu năm 2008 
Phi Nhân thọ 
Nhân thọ 
6.381 
8.481 
8.359 (tăng 31%) 
9.458 (tăng 12%) 
5.562 (tăng 43%) 
5.027 (tăng 13,5%) 
Những kết quả trên ñây cho thấy thị trường bảo hiểm Việt Nam ñã có những 
bước tăng trưởng rõ rệt sau khi gia nhập WTO. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế càng sâu 
 5 
rộng bao nhiêu thì ảnh hưởng của nền tài chính, kinh tế toàn cầu tới Việt Nam càng lớn 
bấy nhiêu. ðiều này ñem lại cho kinh tế Việt Nam nói chung và bảo hiểm Việt Nam nói 
riêng cả cơ hội và những thách thức. 
Bài toàn hội nhập của ngành bảo hiểm Việt Nam 
Việt Nam gia nhập WTO ñã ñem lại nhiều yếu tố thuận lợi cho việc phát triển 
kinh tế - xã hội nói chung và ngành bảo hiểm nói riêng. Tuy nhiên, bước vào sân chơi 
quốc tế, ñòi hỏi các ngành hàng của Việt Nam trong ñó có bảo hiểm phải có sự chuyển 
mình ñể hoà nhập trong khuôn khổ pháp lý của sân chơi chung này. 
Sự chuẩn bị của Bảo hiểm Việt Nam trước khi gia nhập WTO 
Các sản phẩm bảo hiểm dễ bắt chước và ñược phát triển tuân theo chuẩn mực 
quốc tế. Vì vậy, khi thành lập và ñi vào hoạt ñộng các doanh nghiệp bảo hiểm thường là 
kế thừa các sản phẩm bảo hiểm ñã có sẵn trên thị trường bảo hiểm quốc tế và trong 
nước. Ngày 18.12.1993, Chính phủ ra Nghị ðịnh 100/1993/Nð-CP quy ñịnh về việc 
thành lập và tổ chức hoạt ñộng của các doanh nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam. Trên cơ 
sở ñó, ngoài Bảo Việt thành lập năm 1964, lần lượt các doanh nghiệp bảo hiểm khác 
ñược cấp phép hoạt ñộng như: Bảo Minh (1994), PJICO (1995), Bảo Long (1995), PVI 
(1996), Bảo Việt Nhân Thọ (1996 triển khai thí ñiểm). ðây là tiền ñề quan trọng tạo 
nên sự lớn mạnh của hoạt ñộng bảo hiểm Việt Nam. 
Năm 2000, Luật kinh doanh bảo hiểm ra ñời và có hiệu lực từ ngày 1.4.2001 ñã 
có tác ñộng tích cực tới việc kinh doanh bảo hiểm. Tính ñến hết năm 2006, trước thời 
ñiểm cam kết WTO có hiệu lực, thị trường bảo hiểm Việt Nam ñã có 29 doanh nghiệp 
hoạt ñộng bảo hiểm bảo hiểm. Cung với ñó là Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam ñã ñược 
thành lập ngày 25.12.1999 với 10 doanh nghiệp bảo hiểm có mặt trên thị trường là hội 
viên, ñiều này thúc ñẩy thế cạnh tranh lành mạnh của hoạt ñộng bảo hiểm Việt Nam. ðã 
hình thành nhiều doanh nghiệp bảo hiểm có tiềm lực mạnh cả về vốn và trình ñộ quản 
lý. ñiều này góp phần tích cực nâng cao uy tín doanh nghiệp bảo hiểm, giảm ñáng kể tỉ 
trọng tái bảo hiểm ra nước ngoài, tăng nhanh quỹ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm, thu 
ñược nhiều lãi ñầu tư ñể chia cổ tức cho cổ ñông và tăng bảo tức cho người tham gia. 
ðặc biệt, số lượng sản phẩm bảo hiểm phong phú ña dạng, kênh phân phối sản phẩm 
 6 
bảo hiểmngày càng mở rộng với hơn 700 sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ và hơn 100 
sản phẩm bảo hiểm nhân thọ. Các doanh nghiệp bảo hiểm ñã chú trọng ưu tiên cho ñào 
tạo phát triển nguồn nhân lực và ñầu tư cho công nghệ thông tin phục vụ cho nhu cầu 
quản lý giám sát bảo hiểm. ðồng thời các doanh nghiệp bảo hiểm ñã làm quen và chấp 
nhận cạnh tranh sòng phẳng trong cơ chế của Nhà nước. 
 Những cơ hội của ngành bảo hiểm 
Một là, nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng cao, hàng hóa và các doanh nghiệp của 
Việt Nam sẽ có một thị trường rộng lớn hơn, ñồng thời, hàng hóa của các nước thành 
viên WTO sẽ tràn vào thị trường Việt Nam. ðầu tư trực tiếp nước ngoài và ñầu tư trong 
nước phát triển nhanh chóng, tạo tiền ñề cho các ngành nghề phát triển như: Giao thông 
vận tải ñường bộ, hàng không, xuất nhập khẩu làm tiền ñề cho BH phát triển. Nền kinh 
tế tăng trưởng cao ñòi hỏi nhu cầu vốn và nhu cầu bảo hiểm phải ñáp ứng, từ ñó làm 
tiền ñề cho bảo hiểm Nhân thọ, tín dụng ngân hàng, chứng khoán phát triển. Vốn tích 
lũy từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm có nhiều cơ hội ñầu tư sinh lãi cao, khuyến khích 
bảo hiểm phát triển. 
Hai là, chủ chương cổ phần hóa ñã có những bước tiến lớn và chuẩn bị hoàn 
thành. Sự trợ cấp của Nhà nước ở một số lĩnh vực sẽ giảm dần. Sự trợ cấp của nhà nước 
càng giảm thì sự lo lắng thiên tai, tai nạn xảy ra bất ngờ dẫn ñến người ta phải nghĩ tới 
bảo hiểm. Chế ñộ sở hữu tư nhân buộc người ñiều hành doanh nghiệp muốn bảo toàn 
vốn và tài sản trước mọi rủi ro cần phải có bảo hiểm, ñiều này làm tăng nhu cầu bảo 
hiểm ñể ngành bảo hiểm phát triển. 
Ba là, hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện và mang tính tương thích với 
nhau nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính ñáng của người tiêu dùng và của doanh 
nghiệp ngày một tốt hơn, ñiều này làm phát sinh theo nhu cầu bảo hiểm như bảo hiểm: 
Trách nhiệm nghề nghiệp bác sĩ, luật sư, tư vấn thiết kế…; tài sản; rủi ro tài chính; 
trách nhiệm sản phẩm của các tổ chức sản xuất, kinh doanh; trách nhiệm dân sự của các 
chủ doanh nghiệp… ðặc biệt là Luật kinh doanh bảo hiểm sẽ ñược sửa ñổi, bổ sung, 
tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, phát huy tính chủ ñộng, sáng tạo của doanh 
nghiệp bảo hiểm khi hoạt ñộng và hội nhập quốc tế, bảo vệ quyền và lợi ích chính ñáng 
 7 
của người tham gia bảo hiểm và là môi trường thuận lợi ñể thị trường bảo hiểm phát 
triển. 
Bốn là, thu nhập bình quân trên ñầu người của nước ta ngày càng tăng, ñặc biệt là 
tầng lớp dân cư có thu nhập cao ngày càng ñông ñảo và họ ñều có nhu cầu bảo hiểm 
Nhân thọ cho mình và người thân. 
Năm là, nhận thức về nhu cầu, tác dụng của bảo hiểm ngày càng ñược nâng cao 
thông qua công tác tuyên truyền của ngành bảo hiểm, ñặc biệt là tập quán mua bảo 
hiểm của giới chủ ñầu tư nước ngoài sẽ ảnh hưởng lớn ñến nhận thức của những khách 
hàng tiềm năng có nhu cầu dẫn tới quyết ñịnh tham gia bảo hiểm ngày một ñông ñảo 
hơn. 
 Những thách thức ñối với ngành bảo hiểm 
Một là, các tổ chức, các nhân trong và ngoài nước nếu ñủ ñiều kiện thao luật ñịnh 
ñều có quyền xin phép thành lập doanh nghiệp bảo hiểm, trong ñó có các doanh nghiệp 
bảo hiểm nước ngoài theo ñúng cam kết WTO. Chính vì vậy, số lượng các doanh 
nghiệp bảo hiểm ñược cấp phép hoạt ñộng ngày một gia tăng. ðiều này làm cho sự 
cạnh tranh vốn ñã gay gắt này càng gay gắt hơn. Sự chảy máu chất xám nguồn nhân lực 
chủ chốt sang doanh nghiệp bảo hiểm mới cũng là ñiều ñáng lo ngại. 
Hai là, doanh nghiệp bảo hiểm hoạt ñộng ở nước ngoài ñược cung cấp một số sản 
phẩm BH qua biên giới. ðây là cuộc cạnh tranh không cân sức ñối với các doanh 
nghiệp bảo hiểm ñang hoạt ñộng tại Việt Nam (doanh nghiệp Việt Nam, liên doanh, 
100% vốn nước ngoài). Trước hết, họ không thể biết ñược thông tin cũng như sản phẩm 
của ñối thủ ñối thủ cạnh tranh với họ (doanh nghiệp bảo hiểm ñang hoạt ñộng ở nước 
ngoài). ðồng thời, doanh nghiệp bảo hiểm ñang hoạt ñộng tại Việt Nam phải ñóng thuế 
cho ngân sách nhà nước (như thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế môn bài, 
thuế sử dụng ñất…) ñể hoạt ñộng kinh doanh có doanh thu từ Việt Nam, trong khi ñó, 
ñối thủ không bị ñóng góp các khoản thuế trên. ðây là một khó khăn lớn, tạo ra lợi thế 
so sánh cho các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt ñộng ở nước ngoài. 
Ba là, kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm ñã bộc lộ nhiều yếu kém. ðáng kể là 
chưa chú trọng ñến chất lượng tuyển chọn ñào tạo và sử dụng ñại lý. Hoạt ñộng bảo 
 8 
hiểm chưa mang tính chuyên nghiệp. Các công ty môi giới cạnh tranh lẫn nhau, làm 
việc thiếu chuyên nghiệp, tự ý bổ sung ñiều kiện, ñiều khoản bảo hiểm, hạ phí bảo hiểm 
gây bất lợi cho doanh nghiệp bảo hiểm và thị trường bảo hiểm. 
Bốn là, ñầu tư công nghệ thiếu ñồng bộ, kém hiệu quả. Hệ thống công nghệ 
thông tin của các doanh nghiệp bảo hiểm chưa cập nhật ñược từng hợp ñồng bảo hiểm 
phát sinh, chưa phân loại ñược khách hàng, chưa phân tích, ñánh giá ñược nguyên nhân, 
mức ñộ rủi ro tổn thất, còn nhiều lỗ hổng ñể trục lợi bảo hiểm. 
Năm là, cạnh tranh gay gắt chủ yếu bằng con ñường hạ phí bảo hiểm, không chú 
trọng nhiều ñến dịch vụ chăm sóc khách hàng và xây dựng ñội ngũ cán bộ chuyên môn 
có trình ñộ. Phí bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay ñược hình thành 
chủ yếu qua con ñường cạnh tranh hạ phí phi kĩ thuật mà không quan tâm ñến ñối tượng 
bảo hiểm như thế nào, mức ñộ rủi ro ra sao. Chính vì vậy, việc quan tâm chăm sóc 
khách hàng cung cấp dịch vụ gia tăng bổ sung cho khách hàng cũng bị hạn chế. 
Sáu là, trong hoạt ñộng giải quyết bồi thường còn nhiều vướng mắc, tính công 
khai, minh bạch về hồ sơ, thủ tục giải quyết bồi thường chưa ñược thực hiện. Việc ñơn 
giản hóa hồ sơ, thủ tục bồi thường giảm phiền phức cho khách hàng chưa ñược cải thiện 
rõ rệt. Còn nhiều vướng mắc trong việc thu thập hồ sơ chứng từ ñể giải quyết bồi 
thường cho nạn nhân khi những hồ sơ chứng từ này buộc phải lấy từ cơ quan có thẩm 
quyền như công an, bệnh viện. ðặc biệt, việc tự quyết, tự chịu trách nhiệm của doanh 
nghiệp bảo hiểm trong việc giám ñịnh bồi thường tổn thất chưa ñược phát huy và hay bị 
hình sự hóa. ðồng thời, các doanh nghiệp hoạt ñộng trong lĩnh vực tư vấn giám ñịnh và 
giải quyết bồi thường chưa hoạt ñộng có hiệu quả. Chưa có biện pháp xử phạt thích 
ñáng doanh nghiệp bảo hiểm trong việc chậm trễ bồi thường cũng như xử phạt thích 
ñáng các hành vi trục lợi bảo hiểm. 
Bẩy là, nguồn nhân lực hoạt ñộng trong lĩnh vực bảo hiểm còn mỏng và trình ñộ 
còn chưa cao. Hiện tượng chẩy máu chất xám và nguồn nhân lực bảo hiểm ñang diễn ra 
phổ biến do hệ luỵ của lạm phát. ðiều này là một trở ngại lớn cho Bảo hiểm Việt Nam 
bước vào hội nhập quốc tế. 
Hội nhập trong lĩnh vực bảo hiểm - giải pháp từ nguồn nhân lực 
 9 
Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam 
Nguồn nhân lực ñược xem là yếu tố quan trọng cho sự phát triển của mọi ngành 
kinh tế của ñất nước trong ñó có lĩnh vực bảo hiểm. Hiện tại, số lượng người hoạt ñộng 
trong lĩnh vực tài chính ngân hàng và bảo hiểm của Việt Nam trong thời gian qua ñã 
tăng lên nhanh chóng, một phần do nhà nước chuyển mình theo cơ chế thị trường, một 
phần do nhiều tác ñộng tích cực từ quá trình phát triển kinh tế và hội nhập. Gia nhập 
WTO, nguồn nhân lực bảo hiểm Việt Nam ñứng trước nguy cơ cạnh tranh của nguồn 
nhân lực nước ngoài và ñòi hỏi của yêu cầu phát triển ngành. 
Trong lĩnh vực bảo hiểm, cùng với sự lớn mạnh của các doanh nghiệp bảo hiểm 
và hoạt ñộng bảo hiểm (từ 1993), số người hoạt ñộng trong lĩnh vực này cũng tăng lên 
ñáng kể. Không chỉ từ các ngành khác chuyển sang mà nguồn nhân lực cho bảo hiểm 
hiện tại ñã có sự ñào tạo bài bải. Ngoài những cơ sở ñào tạo có sẵn, hiện ñã có nhiều cơ 
sở ñào tạo về lĩnh vực bảo hiểm ra ñời, hàng năm bổ sung một lượng lớn nhân lực cho 
lĩnh vực này (1.000 người sinh viên tài chính - ngân hàng tốt nghiệp hàng năm ở các 
tỉnh phía nam). Có thể kể ñến ðại học Kinh tế Quốc dân Hà Nôi, ðại học Kinh tế Quốc 
dân TP Hồ Chí Minh, Học viện Tài Chính hay Trung tâm ðào tạo bảo hiểm Việt 
Nam… 
Tuy nhiên, theo các chuyên gia thì nguồn nhân lực ñang là ñiểm yếu cần khác 
phục của bảo hiểm Việt Nam. ðiều ñó có thể nhận thấy là số lượng người hoạt ñộng 
trong lĩnh vực bảo hiểm tuy ñã tăng lên nhưng vẫn còn thiếu, ña phần những người 
ñang hoạt ñộng trong lĩnh vực bảo hiểm là chuyển từ các ngành kinh tế khác sang hoặc 
chưa ñược ñào tạo bài bản về nghiệp vụ bảo hiểm. Mặc dù hàng năm số lượng nhân lực 
ñược ñào tạo ra là nhiều và dư thưa nhưng nhân lực có trình ñộ và nghiệp vụ về bảo 
hiểm lại thiếu. 
Chất lượng nguồn nhân lực còn yếu kém, nhiều người sau khi ñi làm hoặc gia 
nhập các công ty lại phải ñược ñào tạo lại, thiếu cán bộ có khả năng ñánh giá rủi ro. Các 
cơ sở ñào tạo chưa chú trọng thực hành và khả năng thực tế phân tích, năng về lý 
thuyết. 
 10 
Mức ñộ tập trung của nhân lực bảo hiểm cũng không ñồng ñều theo khu vực ñịa 
lý và theo cả mức ñộ quản lý trong các công ty. ðặc biệt, nguồn nhân lực cho ngành 
bảo hiểm không chỉ thiếu trình ñộ chuyên môn và quản lý mà còn yếu cả về khả năng 
cạnh tranh và hội nhập, cụ thể là trình ñộ ngoại ngữ và tin học còn yếu, ña số chưa có 
khả năng giao tiếp ngoại ngữ thành thạo. Tác phong làm việc và tính chuyên nghiệp còn 
chưa cao, chưa ñáp ứng ñược nhu cầu của nền kinh tế và của ngành khi tham gia hội 
nhập. Trong ngành bảo hiểm hiện cũng ñang có hiện tượng chấy má