1. Như thế nào là khủng hoảng tiền tệ, NH & HTTC
2. Lý thuyết phân tích nguyên nhân khủng hoảng
3. Xếp loại khủng hoảng tiền tệ
4. Phân tích định lượng
5. Chuẩn mực quốc tế về quản trị rủi ro
6. Khủng hoảng tài chính tiền tệ ở một số quốc gia
7. Các bài học kinh nghiệm khác từ khủng hoảng tài
chính châu Á
47 trang |
Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 1354 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Bài 5: Khủng hoảng tiền tệ, ngân hàng và hệ thống tài chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI 5
KHỦNG HOẢNG TIỀN TỆ,
NGÂN HÀNG & HỆ THỐNG TÀI CHÍNH
NỘI DUNG TRÌNH BÀY
1. Như thế nào là khủng hoảng tiền tệ, NH & HTTC
2. Lý thuyết phân tích nguyên nhân khủng hoảng
3. Xếp loại khủng hoảng tiền tệ
4. Phân tích định lượng
5. Chuẩn mực quốc tế về quản trị rủi ro
6. Khủng hoảng tài chính tiền tệ ở một số quốc gia
7. Các bài học kinh nghiệm khác từ khủng hoảng tài
chính châu Á
1. NHƯ THẾ NÀO LÀ KHỦNG HOẢNG
TIỀN TỆ, NGÂN HÀNG VÀ HTTC?
Định nghĩa của Quỹ tiền tệ Quốc tế:
Khủng hoảng tiền tệ là trạng thái mà ở đó một cuộc tấn
công vào đồng tiền nội tệ dẫn đến sự thâm hụt phần lớn
dự trữ ngoại tệ và làm mất giá nhanh chóng đồng tiền
nội tệ hoặc buộc các cơ quan chức năng phải có các biện
pháp phòng vệ bằng cách sử dụng một lượng dự trữ
ngoại tệ lớn hoặc nâng cao mức lãi suất.
Khủng hoảng ngân hàng là trạng thái theo đó các ngân
hàng lâm vào tình trạng rút tiền ổ ạt và bị phá sản. Các
ngân hàng buộc phải dừng việc thanh toán các cam kết
của mình, hoặc để tránh tình trạng này, Nhà nước buộc
phải can thiệp bằng biện pháp hỗ trợ đặc biệt. Khủng
hoảng ngân hàng có thể bùng phát tại một ngân hàng và
lây truyền ra toàn bộ hệ thống.
NHƯ THẾ NÀO LÀ KHỦNG HOẢNG TIỀN
TỆ, NGÂN HÀNG & HTTC?
Các cuộc khủng hoảng hệ thống tài chính là gây ra những
rối loạn trầm trọng trên các thị trường tài chính và cản trở
sự vận hành hiệu quả của hệ thống này và gây nên những
hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế.
Khủng hoảng hệ thống tài chính có thể đi kèm khủng hoảng
tiền tệ. Tuy nhiên, khủng hoảng tiền tệ không phải lúc nào
cũng gây ra những rối loạn cho hệ thống thanh toán trong
nước và cũng không nhất thiết gây ra khủng hoảng hệ thống
tài chính.
Khủng hoảng nợ nước ngoài xảy ra khi một quốc gia
không có khả năng trả nợ nước ngoài, bao gồm cả các
khoản nợ của Chính phủ hay của khu vực tư nhân.
NHƯ THẾ NÀO LÀ KHỦNG HOẢNG TIỀN
TỆ, NGÂN HÀNG &HTTC?
Khủng hoảng ngân hàng xảy ra nếu ít nhất là một
tiêu chí xẩy ra:
- Tỷ lệ nợ xấu NPLs so với tổng vốn cho vay trong
hệ thống ngân hàng vượt quá 10%.
- Chi phí cho hoạt động cứu trợ ngân hàng tối thiểu
bằng 2% GDP
Giai đoạn cứu trợ kéo theo hoặc là quốc hữu hóa các
ngân hàng ở quy mô lớn, hoặc là hiện tượng rút tiền
gửi ồ ạt khỏi ngân hàng, hoặc các biện pháp khẩn
cấp khác như đóng băng tiền gửi, cho phép ngân
hàng nghỉ giao dịch, phát hành bảo lãnh chính phủ.
2. LÝ THUYẾT NÀO PHÂN TÍCH NGUYÊN
NHÂN KHỦNG HOẢNG?
Nguyên nhân khủng hoảng tiền tệ:
- Xuất phát từ nền tảng kinh tế yếu kém, các chính
sách kinh tế vĩ mô và chính sách tỷ giá không đồng
nhất, sự thâm hụt ngân sách quá lớn của chính
phủ....
- Do các hoạt động đầu cơ tiền tệ
- Do cơ cấu các khoản nợ trong nước không hợp lý:
sự rút vốn ồ ạt của các khoản vay ngân hàng làm
cho quốc gia thiếu hụt trầm trọng ngoại tệ và khả
năng thanh toán, gây sức ép lên tỷ giá.
2. LÝ THUYẾT NÀO PHÂN TÍCH NGUYÊN
NHÂN KHỦNG HOẢNG?
- Sự yếu kém trong quản trị doanh nghiệp dễ bị sụp
đổ bởi các cú sốc nhỏ.
- Tác động bởi các cú sốc toàn cầu, chẳng hạn như
sự gia tăng mạnh lãi suất, giá dầu có thể tác động
đến tất cả các đối tượng trong nước, và vì vậy có thể
gây nên khủng hoảng ở phạm vi rộng.
Nguyên nhân sâu xa của khủng hoảng tiền tệ là từ
những yếu tố nền tảng của nền kinh tế
Các lý thuyết phân tích nguyên nhân khủng hoảng
Nguyên nhân khủng hoảng ngân hàng
- Mất đối xứng thông tin giữa ngưới gửi tiền và ngân
hàng dẫn đến rút tiền ồ ạt tại các NH.
- Tính không thanh khoản của tài sản gây nên khả
năng ngân hàng bị tổn thương bởi việc rút tiền ồ ạt.
- Những cú sốc do lãi suất, tỷ giá hối đoái, giá cổ
phiếu hoặc tăng trưởng chậm, suy thoái kinh tế có
thể tạo ra khủng khoảng ở từng ngân hàng.
Các lý thuyết phân tích nguyên nhân khủng hoảng
Các yếu tố vi mô có thể trở thành những yếu tố quan
trọng gây nên sự suy sụp của hệ thống ngân hàng, cụ
thể là chất lượng của toàn bộ khuôn khổ thể chế của
đất nước.
Cơ chế thị trường yếu kém do những yếu tố về hành
vi, công bố thông tin hạn chế, quản trị công ty yếu
kém, bảo hiểm tiền gửi quá mức hoặc hệ thống giám
sát yếu kém có thể quyết định tới mức độ lệch lạc
của thông tin, chất lượng quản lý ngân hàng và tạo
ra những yếu tố dễ bị tổn thương và cuối cùng là gây
nên khủng hoảng hệ thống ngân hàng.
3. XẾP LOẠI KHỦNG HOẢNG TIỀN TỆ
Hiện nay đã thống nhất xếp loại khủng hoảng tiền tệ vào
trong các loại sau:
Các cuộc khủng hoảng thuộc thế hệ thứ nhất có nguồn
gốc từ tình trạng thiếu đồng bộ về chính sách kinh tế (thâm
hụt ngân sách, tài trợ bằng lạm phát tiến đến mất giá kỳ
vọng đồng nội tệ trong một cơ chế tỉ giá cố định)
Trong bối cảnh này, chính sách hối đoái không thể tiếp tục
phát huy tác dụng và rủi ro sẽ mang tính chất lây truyền tự
động. Chỉ cần xem xét các « chính sách kinh tế » đã là đủ để
dự báo được rủi ro xảy ra khủng hoảng loại này.
Tài trợ
bằng phát
hành
thêm tiền
Thâm hụt
ngân sách
Sức ép lên tỷ
giá cố định
NHTW bán
dự trữ ngoại tệ
Tấn công
đầu cơ
Dự trữ
suy
giảm
Khủng
hoảng
tiền tệ
Khủng hoảng tiền tệ –Mô hình thế hệ 1
XẾP LOẠI KHỦNG HOẢNG TIỀN TỆ
Đối với các cuộc khủng hoảng thế hệ thứ hai cần
nhấn mạnh vai trò dự báo của các tác nhân kinh tế.
Có thể có các cân bằng đa dạng và chỉ duy nhất một
cuộc tấn công vào đồng tiền nội tệ đã đủ để chuyển
từ cân bằng này sang một trạng thái cân bằng khác.
Trong trường hợp này, cũng giống như trong trường
hợp nêu trên, sẽ không có khủng hoảng hệ thống
nhưng có thể sẽ xảy ra khủng hoảng. Không thể dự
báo các cuộc khủng hoảng nếu chỉ thông qua những
yếu tố kinh tế vĩ mô truyền thống đơn thuần.
Đối với các cuộc khủng hoảng thế hệ thứ hai
Nhưng khủng hoảng sẽ xảy ra nếu như « có một khu
vực yếu kém mà các chính sách chưa đủ mạnh để
tránh không cho khủng hoảng xảy ra nhưng các
chính sách cũng có đủ bất cập khiến khủng hoảng là
điều khó tránh khỏi.
Nếu như loại khủng hoảng thứ nhất có thể tránh
được nếu như các biện pháp kinh tế vĩ mô được áp
dụng, thì đối với loại khủng hoảng thứ hai, cần xem
xét các chính sách theo nghĩa rộng. Tuy nhiên, cũng
không chắc chắn có thể xác định được chính sách
thời điểm xảy ra khủng hoảng.
Các nhà đầu
cơ
Tấn công
đồng nội tệ
Kỳ vọng thị trường
CP có thể rời bỏ tỷ giá cố định
để thực hiện chính sách khác
(như giảm thất nghiệp)
Tấn công xảy ra tạo
kỳ vọng đồng nội tệ
có thể phá giá và
làm tăng lãi suất
Chính phủ
Thấy lãi suất tăng
lên,gây ảnh hưởng xấu
đến tăng trưởng và tình
trạng thất nghiệp nên
thả nổi tỷ giá
Khủng hoảng tiền tệ –Mô hình thế hệ 2
XẾP LOẠI KHỦNG HOẢNG TIỀN TỆ
Các rủi ro được coi là thuộc thế hệ thứ ba là các
cuộc rủi ro được gắn với một hoàn cảnh đặc biệt
giống như cuộc khủng hoảng ở Đông Á năm 1997-
98.
Đặc điểm nổi bật của cuộc khủng hoảng này là sự
chồng lắp giữa khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng
ngân hàng. Như ý kiến của Miotti & Plihon (2001)
sự trùng lắp này ngày càng hay xảy ra, đặc biệt là
đối với các nền kinh tế mới nổi.
Mô hình thế hệ 3 : bùng phát khủng hoảng do cạn
kiệt nội sinh của chu trình tài chính
Giai Đoạn 1 :Hệ số (Nợ/Vốn tự có theo giá thị
trường) giảm do giá tăng
Giai Đoạn 2 : Hệ số (Nợ/Thu nhập) bắt đầu tăng,
tương tự như vậy với hệ số (chi phí tài chính/Thu
nhập)
Giai Đoạn 3: Hệ số (Nợ/Vốn tự có) tăng và các hệ
số (Nợ/Thu nhập) và (Chi phí tài chính/Thu nhập)
cũng tăng theo. Khủng hoảng ở đây là khủng hoảng
bảng tổng kết tài sản.
Khủng hoảng tiền tệ –Mô hình thế hệ 3
Tăng
trưởng
tín dụng
> tăng
trưởng
GDP
Đầu tư thái
quá/Dư
thừa năng
lực SX
Khả
năng
sinh lời
của vốn
giảm
trong
khu vực
SX
GDP tăng
trưởng
chậm lại
Các nhà đầu tư quốc tế mất lòng tin
trước tình trạng hệ số nợ/thu nhập
tăng cao
Hệ số nợ ngắn
hạn/dự trữ ngoại
hối tăng- Rút vốn
Mất cân
đối về kỳ
hạn trong NH
Dự trữ
và tỷ giá
sụt giảm
Giá tài
sản
giảm
Luồng
vốn
quốc tế ồ
ạt đổ vào
Giá tài
sản tài
chính
tăng
NH bị khủng
hoảng thanh khoản
ngoại tệ
NH khủng hoảng khả năng thanh toán
làm giảm lượng tín dụng cấp cho DN
GDP giảm + mất khả năng chi trả các
cam kết với bên ngoài
4. PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG
Giới thiệu về phương pháp: Công cụ RiskMonitor bao gồm
6 hệ số cân bằng cho phép miêu tả đặc điểm rủi ro của một
quốc gia. Đặc biệt, công cụ này có một hệ số cân bằng
ngân hàng. Người ta sử dụng hai hệ số khác, đó là hệ số
cân bằng hối đoái và hệ số cân bằng tình thế, hai hệ số có
tác động qua lại với hệ số cân bằng ngân hàng.
Hệ số cân bằng hối đoái gồm một chỉ số về tính cạnh
tranh hối đoái được đem so sánh với những nước đang
cạnh tranh trực tiếp với Việt Nam chẳng hạn trên những thị
trường xuất khẩu chính của Việt Nam, và một chỉ số chất
lượng dự trữ ngoại hối, được tính dựa trên phân tích vai trò
của các luồng vốn vào, ngắn hạn trong tích luỹ dự trữ và
dựa trên phân tích tính năng động tiền tệ trong nước.
PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG
Hệ số cân bằng tình thế đối chiếu chỉ số sức ép tiền tệ
dùng để đánh giá chênh lệch giữa mức tăng cung về tiền tệ
và mức tăng GDP danh nghĩa (cung quá nhiều hoặc không
đủ tiền) với chỉ số sức ép thực tế, chỉ số quan tâm chủ yếu
đến nhập khẩu với tư cách là một yếu tố báo hiệu sự gia
tăng lượng cầu trong nước.
Cuối cùng, hệ số cân bằng ngân hàng bao gồm hai chỉ số,
một là chỉ số hiệu ứng đòn bảy trong nước với mục đích là
gắn tín dụng trong nước với GDP và hai là chỉ số tái tài trợ
vốn từ các đối tác quốc tế, để so sánh tín dụng liên ngân
hàng quốc tế và tín dụng trong nước.
Ngưỡng rủi ro được xác định dựa trên mỗi chỉ số trong hai
chỉ số cấu thành nên mỗi hệ số trong ba hệ số cân bằng trên.
CÔNG CỤ GIÁM SÁT RỦI RO-Xác định 6
chỉ số rủi ro ngân hàng
(1)Thanh khoản liên ngân hàng (cho vay liên ngân
hàng/ nợ liên ngân hàng)
(2) Đầu tư vốn (vốn tự có/ tổng tài sản có)
(3) Tỷ suất lợi nhuận (ROA)
(4) Chất lượng tài sản có (tài sản có không đem lại
thu nhập/ tổng tài sản có)
(5) Nỗ lực dự phòng (dự phòng để xử lí nợ xấu/dư
nợ thuần các khoản cho vay)
(6) Lượng tiền chuyển đổỉ (dư nợ ròng các khoản
cho vay/tiền gửi và đầu tư ngắn hạn)
Xây dựng ba hệ số cân bằng cơ bản thông
qua kết hợp các chỉ số :
Rủi ro (chất lượng tài sản và nỗ lực dự phòng)
Thanh khoản (thanh khoản liên ngân hàng và lượng tiền
chuyển đổi)
Hiệu quả (đầu tư vốn và tỷ suất lợi nhuận)
Phân biệt mức độ hiệu quả dựa trên các ngưỡng chỉ số
Mục đích ở đây là “xếp riêng” các ngân hàng khác nhau tuỳ
theo giá trị của mỗi chỉ số được sử dụng. Các ngưỡng
không được xác định dựa trên phân tích thống kê phức tạp
(như trong RiskMonitor), mà dựa trên những giá trị trung
vị/trung bình tính được của mỗi chỉ số.
Tính điểm rủi ro ngân hàng (SRB)
Trong mỗi hệ số cân bằng tính được, một « nhân tố
rủi ro » được thiết lập, cho phép “định lượng” tính
hiệu quả của ngân hàng trong hệ số Cân bằng này,
tuỳ theo giá trị của mỗi chỉ số so với ngưỡng.
Các « nhân tố rủi ro » có từ cấp độ 1 (rủi ro nhẹ
nhất) đến cấp độ 4 (rủi ro nghiêm trọng nhất). Vì
vậy, mức độ rủi ro tăng khi các chỉ số về chất
lượng tài sản và chỉ số về lượng tiền chuyển đổi
tăng và khi các chỉ số khác giảm.
Tính điểm rủi ro ngân hàng (SRB)
Để đạt được một sự cân bằng nào đó, nếu hai chỉ số
cao hơn ngưỡng, chúng ta có một nhân tố rủi ro
thấp (cấp độ 1).
Nếu một chỉ số cao hơn ngưỡng kết hợp và chỉ số
khác không cao bằng, chúng ta có thừa số rủi ro
trung bình.(2).
Nếu hai chỉ số cho biết tính hiệu quả thấp hơn
ngưỡng, chúng ta có nhân tố rủi ro cao (4).
Vì vậy, điểm SRB được tính như là kết quả của
ba nhân tố rủi ro, với mức thang điểm tăng từ 1
(rủi ro khả quan nhất) đến 64 (rủi ro tệ nhất).
Các rủi ro
ngân hàng thương mại phải chịu
Rủi ro kỳ hạn/rủi ro thanh khoản
Kỳ hạn của tài sản có thường lớn hơn kỳ hạn của tài sản nợ
⇒ ngân hàng thương mại thực hiện việc chuyển đổi kỳ hạn.
Do vậy, ngân hàng có thể mất khả năng thanh toán khi
người gửi tiền rút tiền ồ ạt.
Rủi ro tín dụng
Ngân hàng phải gánh chịu khả năng các đối tượng vay vốn
có thể không có khả năng hoàn trả lãi và vốn gốc. Các
khoản vay này trở thành nợ khó đòi (hay nợ xấu). Tỷ lệ nợ
xấu càng tăng, thì ngân hàng sẽ càng mất vốn để xóa các
khoản nợ này. Khi giá trị tài sàn ròng của ngân hàng trở
thành số âm thì ngân hàng được coi là phá sản “về mặt kỹ
thuật”.
Các rủi ro
ngân hàng thương mại phải chịu
Rủi ro lãi suất
Lãi suất tiền gửi thường là lãi suất thả nổi. Lãi suất
tiền vay thường là lãi suất cố định. Khi lãi suất tăng
lên mạnh, ngân hàng sẽ bị thua thiệt do phải trả lãi
nhiều hơn cho tiền gửi trong khi lãi nhận được từ
các khoản cho vay hiện hữu vẫn không đổi.
5. CHUẨN MỰC QUỐC TẾ VỀ QUẢN TRỊ RỦI
RO CHO CÁC NH-HIỆP ƯỚC BASEL I &II
Hiệp ước Basel I của 10 quốc gia các nước phát
triển ký vào năm 1988. Mục tiêu của HU là làm hài
hòa các tiêu chuẩn về vốn của các NH quốc tế, tăng
cường ổn định và xóa bỏ cạnh tranh không công
bằng giữa các NHQT. Tiêu chuẩn vốn theo HU
Basel I là Vốn tự có trên tài sản có được điều chỉnh
rủi ro (CAR≥8%). Sau này có hơn 100 quốc gia
tham gia Hiệp Ước Basel I;
Do Hiệp ước Basel I chưa giúp các nước ngăn ngừa
khủng hoảng tài chính tiền tệ, nên Hiệp Ước Basel II
ra đời tháng 1/2001
CHUẨN MỰC QUỐC TẾ VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO
CHO CÁC NH-HIỆP ƯỚC BASEL I &II
Hiệp Ước Basel II đưa ra hàng loạt các chuẩn mực
giám sát nhằm hoàn thiện các kỹ thuật quản trị rủi ro
theo 3 cấp độ:
Cấp độ 1 (Pillar 1): Qui định yêu cầu tỷ lệ vốn tối
thiểu đối với rủi ro tín dụng và rủi ro hoạt động;
Cấp độ 2 (Pillar 2): Đưa ra các hướng dẫn liên
quan đến quá trình giám sát;
Cấp độ 3 (Pillar 3): Yêu cầu các NH cung cấp các
thông tin cơ bản liên quan đến vốn, rủi ro để đảm
bảo khuyến khích các nguyên tắc của thị trường
(Tham khảo: www.bis.org)
CÁC CHỈ TIÊU CỦA NH VIỆT NAM ĐẾN 2010
(nguồn: QĐ 112/2006/QT/TTg)
Các chỉ tiêu hoạt động Mức phấn đầu
Tăng trưởng bình quân tín dụng (%/năm) 18-20
Tỷ lệ an toàn vốn (%) Không dưới 8, Hiện
nay không dưới 9
Tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ Dưới 5
Chuẩn mực giám sát ngân hàng Chuẩn mực Basel I
Dự trữ quốc tế tối thiểu 12 tuần nhập khẩu
6. KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Ở MỘT SỐ QUỐC GIA
Mehico đầu thập niên 1990
Dòng vốn nước ngoài tăng đột ngột đã làm cho giá
trị thực của đồng peso bị lên giá tới 40% trong vòng
5 năm từ 1988 đến 1993.
Thâm hụt cán cân thương mại gia tăng từ mức
2,6% GDP vào giữa năm 1989 lên 5% vào năm
1993.
Tăng trưởng kinh tế giảm liên tục từ 5,1% năm
1990 xuống 3,6% năm 1992 và 2,0% năm 1993.
Khủng hoảng
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ Ở
MỘT SỐ QUỐC GIA
Khủng hoảng tiền tệ Mehico 1994
Nhiều khoản nợ nước ngoài đáo hạn vào năm 1995.
Dòng vốn nước ngoài chảy vào suy giảm.
Dự trữ ngoại tệ giảm dần để bù đắp thâm hụt cán
cân thương mại.
Ngân hàng trung ương quyết định ngưng tác động
của việc mất dự trữ bằng cách tăng tín dụng nội địa
Dự trữ giảm liên tục và đến tháng 3/1994, tấn công
đầu cơ xảy ra.
Đồng peso sụp đổ vào cuối năm 1994.
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ Ở
MỘT SỐ QUỐC GIA
Khủng hoảng tài chính Mêhicô 1994 : một số tổng kết
Cuộc khủng hoảng Mehico năm 1994 có hoàn toàn theo mô
hình khủng hoảng thế hệ thứ nhất?
Tại sao dự trữ ngoại tệ suy giảm? không phải do thâm hụt
ngân sách, mà do chính phủ lựa chọn dùng dự trữ để bù
đắp thâm hụt cán cân thương mại khi dòng vốn nước
ngoài chảy vào giảm sút.
Nguyên nhân tại sao NHTW cho phép dự trữ ngoại tệ suy
giảm rồi tăng tín dụng nội địa có thể là do mối quan ngại về
tính mong manh của hệ thống ngân hàng, vấn đề thất nghiệp
và tăng trưởng nếu quyết định thặt chặt tiền tệ và tăng lãi
suất để bảo vệ đồng tệ.
Dòng vốn nước ngoài cũng có một vị trí quan trọng trong
toàn bộ quá trình khủng hoảng xảy ra.
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ Ở
MỘT SỐ QUỐC GIA
Hệ thống tiền tệ châu Âu, 1979-1993
Tháng 3/1979, Cộng đồng châu Âu (EC) thiết lập Hệ thống Tiền tệ
châu Âu (EMS) theo đuổi E-R-M (European Exchange Rate
Mechanism)
√ Tỷ giá hối đoái của đồng tiền các nước thành viên được cố định với
biên độ dao động ±2,25% xung quanh mức trung tâm.
√ Tỷ giá với các đồng tiền bên ngoài hệ thống được thả nổi.
Đồng Deuch Mark (DM) của Đức trở thành đồng tiền ‘neo’ của hệ
thống (các nước duy trì tỷ giá cố định giữa đồng tiền của mình với
DM) do lạm phát của Đức thấp và niềm tin của các nhà đầu tư vào
Bundesbank, ngân hàng trung ương Đức.
Hệ thống được duy trì với một số điều chỉnh trong giai đoạn 1979-
1987 và không có điều chỉnh nào suốt từ 1987 đến 8/1992.
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ Ở
MỘT SỐ QUỐC GIA
Khủng hoảng tiền tệ châu Âu 1992-93
Sau sự kiện thống nhất nước Đức vào năm 1990,
thâm hụt ngân sách của nước này tăng lên nhanh
chóng.
Phản ứng lại chính sách ngân sách mở rộng,
Bundesbank,vốn siêu độc lập, đã thắt chặt chính
sách tiền tệ và đẩy lãi suất lên cao.
Các nước thành viên của EMS khác buộc phải tăng
lãi suất để duy trì tỷ giá hối đoái, từ đó tạo ra tác
động giảm phát vào đúng thời điểm mà nhiều nước
EMS đang ở trong tình trạng suy thoái kinh tế.
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ Ở
MỘT SỐ QUỐC GIA
Khủng hoảng tiền tệ châu Âu 1992-93
Các nước thành viên EMS đứng trước 2 lựa chọn:
√ Tăng lãi suất để duy trì tỷ giá cố định:
Lợi ích: duy trì uy tín của chính sách và niềm tin của
nhà đầu tư vào
Thiệt hại: suy thoái
√ Từ bỏ tỷ giá cố định
Lợi ích: thoát khỏi suy thoái kinh tế
Thiệt hại: từ bỏ hệ thống EMS và mất uy tín về chính sách
Do xung đột về lợi ích và thiệt hại của việc duy trì EMS, các nhà đầu
cơ nhận thấy cơ hội có thể tấn công đồng tiền của các nước thành
viên.
Tấn công đầu cơ xảy ra vào tháng 9 năm 1992. Anh, Ý, Tây Ban
Nha quyết định rời bỏ EMS. Đến cuối năm 1993,biên độ dao động
được tăng lên ±15%.
7. CÁC BÀI HỌC KHÁC TỪ CUỘC
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHÂU Á
Trong bối cảnh hiện nay, để hạn chế rủi ro (nếu không
muốn nói là phòng tránh rủi ro), cần đặc biệt chú ý theo dõi
lĩnh vực tài chính (nhất là lĩnh vực ngân hàng).
Đối với trường hợp khủng hoảng châu Á, chính các tác
động của tình trạng nợ do thiếu kiểm soát hoặc kiểm soát
thiếu hiệu quả đối với lĩnh vực ngân hàng/tài chính đã dẫn
đến việc chồng chất nợ (các tác nhân kinh tế Thái Lan
vay nợ các ngân hàng Thái, các ngân hàng vay nợ từ các
thị trường tài chính thế giới) và dẫn tới giả thiết rằng
chính sách cố định tỉ giá hối đoái không còn phát huy tác
dụng.
Các bài học khác từ cuộc khủng hoảng tài
chính châu Á
Hoặc nhiều khả năng chính sự cứng nhắc của
chính sách cố định tỉ giá theo đồng đô la đã
khuyến khích tình trạng vay nợ bằng ngoại tệ mà
không có bảo hiểm/phòng vệ cho chênh lệch tỷ
giá. Vì vậy, cần thiết phải phối hợp giữa công tác
kiểm soát và áp dụng chính sách hối đoái.
Một điều nữa có thể rút ra từ cuộc khủng hoảng là việc «
phân đoạn » các biện pháp áp dụng nhằm phòng ngừa
khủng hoảng. Tự do hóa tài chính (mở tài khoản vốn, bỏ
kiểm soát đối với các luồng vốn) chỉ nên áp dụng khi đã
củng cố được hệ thống tài chính trong nước.
Các bài học khác từ cuộc khủng hoảng tài
chính châu Á
Tất cả các chính sách phòng ngừa khủng hoảng ngân
hàng và tiền tệ đều nhằm mục tiêu hạn chế các rủi ro
bằng việc thắt chặt quản lý hoạt động của các
ngân hàng.
Tuy nhiên, việc áp dụng các cơ chế kiểm soát là
chưa đủ. Cần phải quan tâm đến hoàn cảnh áp
dụng chính sách này cũng như cách thức thực thi
chính sách. Đây chính là sự phân biệt giữa cải cách
« hardware » và « software » trong lĩnh vực tài
chính
Các bài học khác từ cuộc khủng hoảng tài
chính châu Á
Lấy ví dụ của Hàn quốc : sau khi áp dụng các biện
pháp khẩn cấp nhằm chấm dứt tình trạng chảy máu
tài chính, quốc gia này đã tập trung sức lực vào
nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống tài
chính bằng cách áp dụng các biện pháp thận
t