Bài giảng Bí mật của những vũ khí tự chế khiến quân Nguyên Mông thất đảm

Quân kỵ binh Nguyên Mông dù thiện chiến bậc nhất thế giới nhưng 3 lần bại chiến trước các binh sĩ nhà Trần Cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông của quân, dân thời Trần, đã đi vào sử sách. Không phải chỉ có ở Việt Nam, mà nhiều nhà viết sử trên thế giới cũng hết lời ca ngợi.

pdf12 trang | Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 1451 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng Bí mật của những vũ khí tự chế khiến quân Nguyên Mông thất đảm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bí mật của những vũ khí tự chế khiến quân Nguyên Mông thất đảm Quân kỵ binh Nguyên Mông dù thiện chiến bậc nhất thế giới nhưng 3 lần bại chiến trước các binh sĩ nhà Trần Cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông của quân, dân thời Trần, đã đi vào sử sách. Không phải chỉ có ở Việt Nam, mà nhiều nhà viết sử trên thế giới cũng hết lời ca ngợi. Bộ sử biên niên viết bằng chữ Ba Tư của nhà sử học nổi tiếng thế kỷ thứ XIII Ra Sít út Đin (1247-1318) đã từng viết về nước ta (chữ Ba Tư gọi là Kiafca, Giao Chỉ quốc): "Nước đó có những vùng khó đi lại và nhiều rừng cây, giáp với Karajan (Vân Nam), một phần giáp Hinđôstan và biển. ở nước đó có quốc vương riêng, không thần phục Hãn (Mông Cổ). Một lần TuGan (Thoát Hoan) đem quân vào nước đó chiếm lấy các thành thị ven biển và thống trị ở đấy trong một tuần lễ. Nhưng bỗng nhiên từ biển, từ rừng, từ núi, xuất hiện những đội quân đánh tan đạo quân của TuGan đang lo cướp bóc. TuGan trốn thoát và trở lại về đóng ở Lukinfu" (cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ thứ XIII - Hà Văn Tấn - Phạm Thị Tâm). Theo tư liệu lịch sử, quân đội Mông Cổ lúc đó là một đội quân rất thiện chiến "trăm quân kỵ quay vòng, có thể bọc được vạn người, nghìn quân kỵ tản ra, có thể dài đến trăm dặm... nên kỵ đội là ưu thế của họ. Hoặc xa, hoặc gần, hoặc nhiều, hoặc ít, hoặc tụ, hoặc tán, hoặc hiện, hoặc ẩn, đến như rơi trên trời xuống, đi như chớp giật". Nhưng đội quân hùng mạnh, thiện chiến đó ba lần tấn công Đại Việt đều bị thất bại. Trần Quốc Tuấn, vị tổng chỉ huy quân đội nhà Trần đã từng nói: “Quân cốt tinh, không cốt đông”. Trong Binh thư Yếu lược của ông đã chỉ rõ: “Giặc dùng trường trận, ta dùng đoản binh, lấy đoản binh để ngăn trường trận, lấy trường trận để chế đoản binh”. Với sự thiện chiến về thủy quân, tượng binh, bộ binh cùng với địa thế hiểm yếu của núi rừng, sông ngòi bao bọc, quân dân thời Trần đã đánh tan các đạo quân xâm lược Nguyên Mông do Thoát Hoan chỉ huy. Một câu hỏi được đặt ra: Vậy quân đội thời Trần được trang bị quần áo, vũ khí như thế nào để có thể đánh bại được quân xâm lược. Bí mật này đã hé mở khi tìm hiểu các tư liệu điền dã, thần phả, thần tích ở làng A Sào (An Thái, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình). Độc đáo áo giáp nông dân tự chế Theo sử sách, binh lính của Hưng Đạo Vương đã từng đóng quân tại vung Hương A Cảo – A Côi (nay gồm các xã An Đồng, An Khê, An Thái, An Vũ thuộc huyện Quỳnh Phụ) và dọc theo bờ sông Hóa ra tới gần cửa biển Đại Bàng (huyện Thái Thụy, Thái Bình). Binh lính có nhiều nông nô, nô tỳ và nông dân tham gia. Họ là những người dân nghèo nhưng rất dũng cảm, kiên cường, mưu trí, sẵn sàng hy sinh vì độc lập dân tộc. Vì nghèo nên họ không thể có áo giáp sắt hoặc áo da như những người lính chính quy được triều đình trang bị. “Cái khó ló cái khôn”, người nông dân bằng sự sáng tạo của mình đã tạo cho mình những bộ trang phục, giầy dép, vũ khí với những nguyên liệu sẵn có, rẻ tiền, dễ chế tác. Trang phục của họ có độ bền cao mà cung tên, giáo, mác sắc bén của quân Nguyên Mông cũng khó mà xuyên thủng. Cụ Trần Duy Thụy (79 tuổi, người làng A Sào) cùng các cụ già làng cho biết, trước đây trong nhà thờ của gia đình vẫn có tấm áo giáp (tương truyền là của cụ tổ nhiều đời để lại, được cất trong một cái hòm gỗ mít và được đặt trang trọng trên bàn thờ tổ). Mỗi khi có giỗ tổ, cụ Thụy cùng anh em trong dòng họ vẫn được ông, cha kể cho nghe về cách làm quần áo giáp và chiến công đánh giặc Nguyên Mông của đội dân binh A Sào ngày xưa. Theo cụ Thụy, vải áo giáp có màu nâu, ở bên trong áo có rất nhiều lớp giấy bản, mỗi lớp giấy bản đều được bọc bởi một lớp vải màn, hoặc vải tơ tằm (loại vải đũi tơ tằm xấu). Sau đó quét sơn ta và một loại nhựa cây (cây cậy) lên vải màn hoặc đũi tơ để các lớp vải và giấy dính chặt vào nhau. Tiếp đó, người ta dùng vải nâu (đũi tơ tằm nhuộm nâu bằng nước bột cây cậy), khâu các lớp giấy bản đã được bọc vải vào áo. Đặc điểm ưu việt của loại áo này là rất dầy, nhẹ, độ xốp cao nhưng rất bền, có thể giúp cho người chiến binh khi bị trúng tên hoặc trúng gươm, giáo của kẻ địch thì vết thương cũng không bị vào sâu trong cơ thể. Ở giữa ngực áo giáp vì không có miếng đồng (tròn) để làm vật hộ tâm như áo giáp của nước ngoài nên người xưa đã dùng mây đan dầy nhiều lớp, rồi ghim lại với nhau (thành hình tròn) và dính vào trước ngực để làm vật hộ tâm. Cụ Thụy được ông nội và cha cho biết: ” Chiếc áo thờ này là của cụ tổ lâu đời để lại, cùng với phương pháp chế tác được giấu trong hòm thờ. Vì thế đã từ bao đời nay trong ban thờ của gia đình cụ vẫn có áo giáp của tổ tiên để trên ban thờ. Đơn giản là nếu áo để qua ba bốn đời là mục, thì những người ở thế hệ tiếp theo phải căn cứ vào bí quyết chế tác áo giáp của người xưa để lại, mà phục chế đúng như quần áo cũ”. Đáng tiếc là năm 1953, giặc Pháp đóng đồn ở đền A Sào, chúng càn quét vào làng, đốt từ đường của gia đình cụ, nên áo giáp và bí quyết làm áo cũng bị cháy. Cụ Thụy chỉ còn nhớ được đôi chút về cách chế tác quần áo giáp và giầy vải. Bí mật trong đôi giày vải đạp chông gai Theo các cụ trong làng, đôi giầy dùng cho những người lính ngày xưa cũng được thiết kế rất gọn nhẹ, có tác dụng tránh cho bàn chân giảm bớt thương tích nếu bị giáo, kiếm chém hoặc bị sa vào chông, gai. Cụ Thụy cho biết: Phần bên trong và bên ngoài của đôi giầy là lớp vải đũi dầy (đũi tơ tằm), đã được nhuộm nâu kỹ hoặc nhuộm bột cây cậy (giã nhỏ cây cậy hòa vào nước đun sôi, để nhuộm vải). Phần cốt giữa của giầy là giấy bản nhiều lớp, được quét bằng chất lấy ra từ cây cậy, sau đó dùng sơn ta phết lên cho kín mục đích cho nước khó thấm vào trong, cuối cùng được chằm (khâu) bằng sợi chỉ gai. Đế giầy được làm rất dầy (khoảng 2 – 3cm). Chiều cao từ đế lên đến miệng giầy khoảng 30cm. Ngoài quần, áo, giầy dép, người xưa còn tự chế tạo nón chóp (mũ đội) bằng sợi mây. Những khe hở của các sợi mây được lèn chặt bởi lớp bột giấy bản, đã được quệt bột cậy (người xưa giã nhỏ cây cậy ra, sau đó cho ít nước vào bột cậy đun sôi, rồi cho bột giấy bản vào đảo đều). Người xưa dùng bột hỗn hợp đó quét lên các khe hở của mũ mây, sau đó dùng sơn ta quét lên mũ. Với trí thông minh và tinh thần yêu nước nồng nàn, những người dân Hương A Côi, A Cảo xưa đã tự chế tạo cho mình những bộ áo giáp bền chắc, những đôi giầy nhẹ, dầy, bền bằng những nguyên liệu đơn sơ. Vậy mà họ đã theo Hưng Đạo Đại Vương vượt sông Hóa đi đánh trận Bạch Đằng lịch sử và các chiến trận khác, góp phần đuổi bọn xâm lược Nguyên Mông ra khỏi bờ cõi Đại Việt. Tổ 3 người khiến kỵ binh giặc thất kinh Người già ở A Sào cho biết, giặc Nguyên lúc đó rất mạnh về kỵ binh, cung nỏ cứng, gươm, dao sắc bén, giáo rất dài. Để chống lại đội quân kỵ (quân cưỡi ngựa) thiện chiến giáo dài, gươm sắc của giặc, những người lính của Hưng Đạo Vương khi xưa thường được biên chế theo các đô (mỗi đội quân có 30 đô. Mỗi đô có từ 30 – 50 người). Khi ra trận, ở mỗi đô thường được ghép thành tổ ba người. Trong tổ ba người đó thì có một người cầm khiên mây (khiên được đan bằng mây, có trát bột giấy hòa lẫn với bột cây cậy, sau đó được vít vào các lỗ hở của khiên) có nhiệm vụ đỡ giáo, gươm, tên của giặc. Người lính thứ hai trong tổ ba người sẽ dùng câu liêm móc, giật chân ngựa hoặc quân giặc cưỡi trên lưng ngựa, làm cho ngựa ngã hoặc nếu không thì ngựa cũng lồng lên (vì bị lưỡi câu liêm sắc, giật mạnh làm chân ngựa bị thương), hất tên giặc đang cưỡi trên mình ngựa xuống đất. Người lính thứ ba có trách nhiệm dùng giáo hoặc đao, xông vào đâm, chém tên giặc đã ngã ngựa. Với cách đánh đơn giản nhưng được luyện tập thành thục, những người lính đời Trần đã làm khiếp đảm quân giặc và hạn chế rất nhiều ưu thế của kỵ binh kẻ thù.