Ở Việt Nam trước quá trình đổi mới và quá trình đô thị hoá ngày càng gia tăng,
sức ép của công việc, sức ép của những biến đổi xã hội tác động lên đời sống tình
cảm của các cá nhân trong nhiều nhóm xã hội khác nhau có thể dẫn đến nhữn g
biến đổi cảm xúc, sai lệch hành vi, biến đổi nhân cách, ảnh hưởng tới sức khoẻ
tâm thần của con người. Việc trị liệu tâm lý ngày càng có vai trò quan trọng. Vậy
trị liệu tâm lý là gì? Có những hình thức nào có thể được áp dụng trong trị liệu tâm
lý? Chúng ta có thể hiểu trị liệu tâm lý là sự điều trị các rối loạn cảm xúc, hành vi,
nhân cách và tâm thần thông qua giao tiếp dùng ngôn ngữ hay phi ngôn ngữ với
người bệnh.
6 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1695 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng Các liệu pháp tâm lý, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Các liệu pháp tâm lý
Ở Việt Nam trước quá trình đổi mới và quá trình đô thị hoá ngày càng gia tăng,
sức ép của công việc, sức ép của những biến đổi xã hội tác động lên đời sống tình
cảm của các cá nhân trong nhiều nhóm xã hội khác nhau có thể dẫn đến những
biến đổi cảm xúc, sai lệch hành vi, biến đổi nhân cách, ảnh hưởng tới sức khoẻ
tâm thần của con người. Việc trị liệu tâm lý ngày càng có vai trò quan trọng. Vậy
trị liệu tâm lý là gì? Có những hình thức nào có thể được áp dụng trong trị liệu tâm
lý? Chúng ta có thể hiểu trị liệu tâm lý là sự điều trị các rối loạn cảm xúc, hành vi,
nhân cách và tâm thần thông qua giao tiếp dùng ngôn ngữ hay phi ngôn ngữ với
người bệnh. Trong thực hành trị liệu tâm lý có thể bao gồm cả việc chữa trị các rối
loạn và giúp gười bệnh cách thức giải quyết các vấn đề trong cuộc sống. Khi bàn
đến trị liệu tâm lý có một vấn đề chúng ta cần quan tâm là trị liệu tâm lý thường bị
nhầm với tư vấn. Điều này gây khó khăn trong việc lựa chọn phương pháp can
thiệp. Tư vấn khác với trị liệu tâm lý ở chỗ tư vấn là mối quan hệ và hoạt động
mang tính chuyên môn mà trong đó nhà tư vấn giúp đối tượng hiểu và giải quyết
việc điều chỉnh vấn đề, đưa ra lời khuyên, sự đánh giá, hay chỉ dẫn đối tượng cách
đánh giá và kiểm soát bản thân. Trong công tác tư vấn nhà tư vấn thường đưa ra
các phương án để đối tượng lựa chọn phương án hợp lý cho việc quyết định, đánh
giá một vấn đề gì đó. Trị liệu tâm lý có hiệu quả trong điều trị bệnh trầm cảm, lo
âu, rối loạn ám ảnh cưỡng bức, rối loạn nhân cách và một số rối loạn tâm thần
khác. Trị liệu tâm lý thường được sử dụng kết hợp với điều trị thuốc đối với bệnh
tâm thần phân liệt và các rối loạn lưỡng cực. Trong nhiều trường hợp, sự phối hợp
trị liệu tâm lý với điều trị thuốc tỏ ra có hiệu quả. Thuốc chống trầm cảm có thể
nâng trạng thái cảm xúc, giúp người bệnh tham gia tích cực hơn vào quá trình trị
liệu và đưa đến kết quả tốt hơn. Có nhiều trường phái tâm lý, mỗi trường phái có
cách xây dựng cơ sở lý thuyết khác nhau và đưa ra phương pháp trị liệu tâm lý
cũng rất khác nhau.
Một số liệu pháp tâm lý chính: Liệu pháp phân tâm (phân tích tâm lý): cho
rằng người ta mắc bệnh là do những xung đột giữa những nhu cầu, những mong
muốn mang tính bản năng với khả năng thoả mãn những nhu cầu, mong muốn đó.
Người bệnh không ý thức được những nguyên nhân này, nên nhiệm vụ của nhà trị
liệu là bằng nghiệp vụ chuyên môn của mình phải phát hiện ra những dồn nén, tức
là những nguyên nhân gây bệnh. Khi nguyên nhân được soi sáng trên bình diện ý
thức (được giải toả), thì xung đột sẽ hết, người bệnh sẽ khỏi bệnh. Liệu pháp
hành vi: không chú trọng đến nguyên nhân, chỉ tập trung vào điều chỉnh những
hành vi lệch lạc. Người bệnh chỉnh hành vi theo mẫu đúng, có sự hướng dẫn đánh
giá của nhà trị liệu và chế độ thưởng phạt rõ ràng. Người bệnh nhận thức được
hành vi cần phải điều chỉnh như thế nào. Liệu pháp nhận thức: cho rằng những ý
nghĩ sai lệch và không được tổ chức (những suy nghĩ này có ảnh hưởng đến cảm
xúc và hành vi của người bệnh) là điểm chung cho tất cả các xáo trộn tâm lý. Việc
đánh giá hiện thực và làm giảm những suy nghĩ này tạo sự tiến bộ về cảm xúc và
hành vi. Nhà trị liệu bằng nhiều cách khác nhau tìm kiếm việc tạo ra những thay
đổi nhận thức - thay đổi hệ thống tư duy và niềm tin của người bệnh - trong trật tự
-để cuối cùng đem đến sự thay đổi trong cảm xúc và hành vi. Ngoài ra còn có các
liệu pháp tâm lý khác dựa theo sự phối hợp các cách tiếp cận tâm lý (như trị liệu
nhận thức hành vi), hay không dựa theo một các tiếp cận điển hình nào. Các nhà
trị liệu có thể học nhiều trường phái tâm lý khác nhau và họ lựa chọn những hoạt
động trị liệu phù hợp của mỗi trường phái tuỳ theo bối cảnh trị liệu, đặc điểm tâm
lý cá nhân người bệnh. Các hình thức trị liệu: Có nhiều cách phân chia các hình
thức trị liệu dựa trên những tiêu chuẩn khác nhau: - Theo sự ảnh hưởng của Liêụ
Pháp Tâm Lý lên người bệnh có các liệu pháp trực tiếp và gián tiếp. - Theo số
lượng người bệnh tham gia có liệu pháp cá nhân, liệu pháp nhóm (liệu pháp gia
đình cũng được coi là liệu pháp nhóm) - Theo tính chất điều trị có trị liệu bệnh
sinh (giải quyết nguyên nhân), trị liệu triệu chứng (nhằm xoá bỏ một số triệu
chứng) - Theo mục đích điều trị (Điều chỉnh hành vi, củng cố hành vi) - Theo
dạng hoạt động: Trò chuyện, trò chơi, hành vi, nghệ thuật: vẽ, âm nhạc, tâm kịch
Một số hình thức trị liệu tâm lý đang đ ợc áp dụng tại Bệnh viện tâm thần
ban ngày Mai H ơng: - Trò chuyện, giải thích hợp lý: Nhà chuyên môn trò
chuyện với người bệnh, tìm hiểu những khó khăn của họ, tìm hiểu nguyên nhân
gây bệnh, giúp người bệnh bộc lộ bản thân, và khi cần thiết dùng lời lẽ hợp lý,
logic giải thích cho người bệnh về cơ chế bệnh của họ, hay giúp học điều chỉnh
các mối quan hệ và điều chỉnh thái độ cho phù hợp với chuẩn mực. - Liệu pháp
tâm lý cá nhân: cán bộ chuyên môn trực tiếp với một người bệnh. - Liệu pháp tâm
lý nhóm: người bệnh được phân nhóm theo những tiêu chuẩn nhất
định và nói chuyện theo những chủ đề có sẵn hay có thể theo chủ đề tự do. Trong
nhóm, người bệnh có thể bộc lộ ý kiến của mình, tìm kiếm sự giúp đỡ và đồng
cảm của nhóm. Sinh hoạt nhóm giúp bệnh nhân có khả năng bộc lộ cảm xúc, suy
nghĩ của mình, họ cảm thấy yên tâm vì họ không phải là người duy nhất có các
vấn đề, trở nên tự tin hơn, có khả năng tốt hơn trong việc ứng phó với những khó
khăn trong cuộc sống. - Lao động liệu pháp: người bệnh được tự mình làm ra các
sản phẩm như may vá, làm nến... Trong công việc họ phải tập trung chú ý, phải
suy nghĩ. Việc tự làm ra sản phẩm đem lại niềm vui và sự tự tin cho người bệnh,
họ cảm thấy mình có giá trị hơn. - Âm nhạc trị liệu: âm nhạc có tác động rất lớn
tới cảm xúc con người. Việc nghe nhạc hay tự mình được tham gia vào các hoạt
động âm nhạc giúp người bệnh thể hiện cảm xúc, cải thiện trạng thái cảm xúc. Âm
nhạc trị liệu là một phương pháp chữa trị bền vững và hiệu quả đối với người có
nhu cầu về tâm lý xã hội, tình cảm, nhận thức và giao tiếp. Các kết quả nghiên cứu
và thực tiễn y khoa đã chứng minh hiệu quả của âm nhạc, thậm trí với cả những
bệnh nhân không đáp ứng với những cách chữa trị khác. - Tâm kịch: giúp cho sự
phát triển nhân cách và hoàn thiện sự cân bằng giữa nhận thức, cảm xúc và hành
vi. - Thở dưỡng sinh - Thư giãn: Thở dưỡng sinh: nhịp thở, trương lực cơ và cảm
xúc có mối qua hệ qua lại với nhau (Khi chúng ta hoảng sợ, nhịp thở dồn dập ...).
Kiểm soát nhịp thở sẽ giúp điều chỉnh trương lực cơ và cảm xúc. Thư giãn là một
cách nhằm đạt được sự thư giãn dựa trên sự tập trung chú ý thụ động và nhận thức
của cơ thể vào những cảm nhận đặc biệt. Nó tỏ ra có hiệu quả với những rối loạn
liên quan đến stress bao gồm lo âu, căng thẳng, mất ngủ .... Các bệnh nội khoa
mãn tính từ bệnh đau nửa đầu, viêm ruột kết, hội chứng đường ruột dễ bị kích
thích, tiểu đường, cao huyết áp cho đến các bệnh về tuyến giáp và một số bệnh
khác cũng được cải thiện khi luyện tập thư giãn. - Thiền định: Một môn khoa học
tâm lý cổ truyền có hiệu quả trong trị liệu tâm lý và được các bác sỹ và nhà tâm lý
bước đầu áp dụng tại bệnh viện. Chữ thiền định rất đa dạng trong nhiều định
nghĩa. Trong tiếng Anh, từ này được sử dụng một cách thoải mái để chỉ đến việc
suy nghĩ về một cái gì đó. Các tự điển định nghĩa là trầm tư mặc tưởng, luyện tập
tâm thức trong sự trầm mặc, chuyển chú ý đến một chủ đề của sự trầm mặc; để suy
nghĩ, suy tư và nghiền ngẫm. Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana
để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại khái
là thiền định. Thiền nói về những thực tập đặc biệt cho tinh thần, những phương
thức chính xác để chú tâm và thanh tịnh tinh thần. Khi chúng ta sử dụng từ thiền
định ở đây, chúng ta sử dụng từ nầy trong ý nghĩa chuyên mục này. Hầu hết trong
các ngôn ngữ Ấn Độ, có những từ rất đặc biệt dành cho nhiều loại thực tập thiền
khác nhau, bởi vì Ấn Độ có một truyền thống phong phú về thiền. Những từ như
dhyana, japa, traataka, saadhandaa, vipassanaa, (vidarshanaa), bhaavanaa, v..v...,
nói về những loại thực tập khác nhau. Nói chung, thiền là một thực tập về sự chú
tâm của tinh thần về những đối tượng khác nhau. Bởi vì sự chú tâm của tinh thần
là điều kiện trước hết
cho bất cứ một nhiệm vụ nào, đó là một nhân tố rất quan trọng trong việc khám
phá hiện tượng thân tâm. Sự chú tâm có thể thực hành với vô số đối tượng: mắt
thấy, tai nghe, sự tưởng tượng, lời nói, v..v Thiền Vipassana là phương thuốc
chữa bệnh phổ biến cho nỗi đau khổ chung.Nhưng điều này không có nghĩa là
khoa tâm thần học không có chỗ đứng trong việc giúp đỡ nhân loại đang đau khổ.
Đối với những người bệnh tâm thần, không có khả năng để theo học thiền
Vipassana, một công việc hết sức tế nhị. Các bác sĩ chuyên môn về tâm thần học
có thể giúp đỡ, làm giảm nỗi đau khổ của những người bệnh tâm thần. Ngoại trừ
một nhóm nhỏ với các bệnh tâm thần quá nặng, thiền Vipassana rất hữu dụng cho
tất cả mọi người.