Chiến dịch Tây Bắc (từ 14 tháng 10 đến 10 tháng 12 năm 1952) là chiến dịch
tiến công của Quân đội Nhân dân Việt Nam trên hướng Tây Bắc Việt Nam nhằm
tiêu diệt sinh lực đối phương, giải phóng một bộ phận đất đai, làm thất bại ý đồ của
thực dân Pháp lập “Xứ Thái tự tr
8 trang |
Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 1672 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng Chiến dịch Tây Bắc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHIẾN DỊCH TÂY BẮC
Chiến dịch Tây Bắc (từ 14 tháng 10 đến 10 tháng 12 năm 1952) là chiến dịch
tiến công của Quân đội Nhân dân Việt Nam trên hướng Tây Bắc Việt Nam nhằm
tiêu diệt sinh lực đối phương, giải phóng một bộ phận đất đai, làm thất bại ý đồ của
thực dân Pháp lập “Xứ Thái tự trị”.
Hoàn cảnh
Năm 1952, tình hình nước Pháp rất rối ren. Chỉ trong tháng 2 và tháng 3-
1952, nội các Pháp đổ liên tiếp 3 lần. Tình hình chiến trường Đông Dương vẫn là
vấn đề nan giải đối với Chính phủ lâm thời. Tờ tuần báo Hành động (L’Action) số
ra ngày 2-4-1952, ký giả người Pháp Henri Clau viết: “Dư luận lên án Chính phủ
Pháp đang theo đuổi cuộc chiến ở Đông Dương, nhân dân Pháp bất bình vì tình
trạng bắt lính kéo dài”.
Tại Đông Dương, Raoul Salan lên làm Tổng tư lệnh. Trên chiến trường Việt
Nam, thực dân Pháp chủ trương thực hiện chiến lược phòng ngự, ráo riết bình định
các vùng tạm chiếm. Tổng chỉ huy Salan điện về chính quốc xin viện trợ về lực
lượng và tài chính nhưng không được chấp nhận vì ngân sách đã cạn.
Sau khi mở các chiến dịch ở đồng bằng Bắc Bộ năm 1951 không thành công,
rút kinh nghiệm qua các chiến dịch tiến công của Quân đội Nhân dân Việt Nam kể
từ sau Chiến dịch Biên giới, phân tích tình hình trên chiến trường, đánh giá khách
quan hơn về tương quan lực lượng, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Bộ
Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam đã nhận định phương hướng chiến
lược có lợi lúc này là chiến trường rừng núi.
Vì vậy, ngày 17 tháng 7 năm 1952, Trung ương Đảng quyết định thành lập khu
Tây Bắc, gồm bốn tỉnh: Lai Châu, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, rộng 44.300 km2, dân
số 440.000 người. Tây Bắc là một vùng rừng núi trùng điệp, nhiều dãy núi cao hơn
1000 mét. Đây là một vị trí chiến lược quan trọng đối với cách mạng ở Đông Dương.
Tháng 9 năm 1952, Trung ương Đảng chủ trương: "Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu,
tìm nơi sơ hở của dịch mà đánh và hướng tiến công chiến dịch lên Tây Bắc.”
Phương châm hoạt động là "đánh dài ngày, đánh liên tục, tiến từng bước
chắc, đồng thời sẵn sàng nắm thời cơ thuận lợi để phát triển nhanh chóng. Về
chiến thuật là vây điểm, diệt viện; diệt viện, phá điểm”
Lực lượng tham gia chiến dịch
Quân đội Nhân dân Việt Nam
Gồm các Đại đoàn 308, 312 và 316 (thiếu), Tiểu đoàn 910 (Trung đoàn 148),
6 đại đội sơn pháo 75mm, 3 đại đội súng cối 120mm, 1 trung đoàn công binh và 11
đại đội bộ đội địa phương, do Bộ Tổng tư lệnh tổ chức, chỉ huy. Tổng quân số của
hai hướng lên tới 36.000 người.
Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh chiến dịch, Hoàng Văn Thái làm Tham mưu
trưởng, Nguyễn Chí Thanh làm Chủ nhiệm chính trị, Trần Đăng Ninh làm Chủ
nhiệm cung cấp hậu cần.
Công tác đảm bảo hậu cần, gạo ở hướng chính trong đợt 1 là 1.195 tấn cho bộ
đội và 142 tấn cho dân công. Hướng phụ là 104 tấn cho bộ đội và 43 tấn cho dân
công. Dân công đi theo bộ đội là 4.300 người; dân công vận chuyển khác là 27.750
người. Đợt 2 và 3 là 3.400 tấn (không kể số gạo dân công ăn trên dọc đường). Hai
tỉnh Phú Thọ, Yên Bái huy động 450 chiếc thuyền, phà đưa 30.000 bộ đội, dân
công cùng với binh khí kỹ thuật qua sông.
Tổng kết toàn Chiến dịch Tây Bắc, đã huy động 11.750 tấn gạo (tiêu thụ hết
9.890 tấn gạo, 164 tấn muối, 328 tấn thịt, 82 tấn thực phẩm khác), huy động
200.000 dân công (bằng bảy triệu ngày công). Lượng vật chất bảo đảm cho chiến
dịch khoảng 9.000 tấn lương thực thực phẩm, 120 tấn vũ khí, đạn dược và dụng cụ
thuốc men cần thiết để cứu chữa cho khoảng 5.000 thương binh.
Lực lượng quân Pháp
Gồm 8 tiểu đoàn, trong đó có năm tiểu đoàn người Thái và ba tiểu đoàn cơ
động người Phi, ngoài ra còn có 43 đại đội bộ binh Thái làm nhiệm vụ chiếm đóng,
bố trí thành 144 cứ điểm thuộc bốn phân khu: Lai Châu, Sông Đà, Nghĩa Lộ, Sơn
La và 3 tiểu khu độc lập Thuận Châu, Phù Yên, Tuần Giáo;
Trong quá trình chiến dịch, được tăng viện thêm 9 tiểu đoàn bộ binh và dù
Âu-Phi, 3 tiểu đoàn ngụy Thái, 1 tiểu đoàn biệt kích hỗn hợp, 1 tiểu đoàn pháo
binh gồm 11 khẩu đại bác.
Công sự ở Nghĩa Lộ - Gia Hội, Cửa Nhì, Phong Thổ đã được cải tiến, có hầm
ngầm, lô cốt xi-măng cốt thép. Còn các vị trí khác đều xây dựng theo kiểu cũ. Phần
lớn, các vị trí đều đóng trên điểm cao, tiếp tế bằng máy bay, hàng ngày lính phải
xuống chân núi lấy nước, vì vậy dễ bị bao vây khống chế. Việc tiếp tế và tiếp viện
cho toàn khu và phân khu chủ yếu dựa vào không quân với khả năng tối đa 48 tấn
một ngày và một tiểu đoàn dù. Việc tiếp tế giữa phân khu và cứ điểm chủ yếu bằng
sức người và ngựa thồ.
Diễn biến
Chiến dịch diễn ra 3 đợt:
Đợt 1 (từ 14 đến 23 tháng 10)
Sau thất bại của chiến dịch Lý Thường Kiệt hồi tháng 10-1951, QĐNDVN
vẫn không bỏ ý định chiếm Nghĩa Lộ bởi đây là nút chặn quan trọng trên đường
tiếp tế vùng tây bắc. Thị trấn Nghĩa Lộ nằm giữa một thung lũng rộng lớn có đông
đúc dân cư và có hai đại đội trấn giữ, chia ra đồn thượng trên ngọn đồi cao nhòm
xuống thị trấn và đồn hạ, một đồn thấp nằm ngay trong thị trấn.
Ngày 4-10-1952, sau khi nhận thấy những dấu hiệu hoạt động gia tăng của
QĐNDVN trong vùng, bộ Chỉ huy Pháp gửi toán quân Ta-bo đến Nghĩa Lộ để
tăng cường.
Tối ngày 7 tháng 10 năm 1952, các đơn vị QĐNDVN vượt sông Hồng tiến
vào Tây Bắc. Ngày 14, chiến dịch được mở màn hoàn toàn bất ngờ đối với Pháp.
Lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) tiến công phân khu Nghĩa
Lộ, tiểu khu Phù Yên, tiêu diệt và bức rút hàng loạt cứ điểm (Ca Vịnh, Sài Lương,
Pú Chạng, Nghĩa Lộ phố), phá tan toàn bộ phòng tuyến vành ngoài của Pháp từ
hữu ngạn Sông Thao đến tả ngạn Sông Đà, từ Vạn Yên đến Quỳnh Nhai.
Ngày 14 và 15 những đồn bót nhỏ về phía đông, ven sông Hồng phải rút về
Nghĩa lộ vì áp lực gia tăng của QĐNDVN. Ngày 15-10, đồn Gia Hội ở cách 20 cây
số về phía bắc Nghĩa Lộ báo tin là bị cô lập. Trong ngày, Ti-ri-ông (Tirillon), chỉ
huy phân khu Nghĩa Lộ đưa đại đội Ta-bo về phía Khâu Vác thăm dò lực lượng.
Một đơn vị của Đại đoàn 312 đã tiêu diệt gọn đại đội này ở Nậm Mười.
Trước diễn biến quá nhanh, Salan không kịp trở tay. Ngày 15-10, Salan thảo
gấp chỉ thị mật từ Sài Gòn và giao cho Đại tá Bút-xa-ri chuyển cho De Linarès
đang chỉ huy quân Pháp tại Hà Nội, trong đó chỉ rõ: “Nghĩa Lộ và Sơn La đang bị
uy hiếp nặng nề nhưng các yếu tố nắm được chưa cho phép chúng ta có chủ
trương Phải đợi cho Việt Minh lộ rõ ý định của họ”
Ngày 16 tháng 10, quân Pháp ở các vị trí Thượng Bằng La, Ba Khe và một
loạt vị trí nhỏ xung quanh những cứ điểm bị diệt tự động bỏ đồn rút chạy. De
Linarès, Tư lệnh quân Pháp ở Bắc Bộ, vội thả một tiểu đoàn dù do đại tá Marcel
Bigeard chỉ huy xuống đồn Tu Lệ, cách Gia hộì 10 cây số về phia tây tức là cách
Nghĩa lộ 30 cây số. Tu Lệ là một đồn nhỏ có một tiểu đội lính Thái trấn giữ nằm
trên ngã ba đường, một đàng xuống Nghĩa Lộ (đông nam), một đàng về Sơn La
(tây nam), một đàng lên Thân Uyên, Quỳnh Nhai (Tây bắc).
Ngày 17, hai trung đoàn của Đại đoàn 308, lợi dụng sương mù, từ 9 giờ sáng, đã
có mặt trên những quả đồi đối diện với Pú Chạng (Nghĩa Lộ đồi), có khoảng 300 quân
Pháp đồn trú. Trung đoàn 88 chờ trời tối tiến vào vị trí Nghĩa Lộ Phố, ở cuối thị trấn
do 400 lính chiếm giữ. Trung đoàn 36 đã bao vây đồn Cửa Nhì. 14 giờ 30 phút, súng
cối 120mm của QĐNDVN bắn vào trận địa pháo 105mm ở Nghĩa Lộ Phố, tạo điều
kiện cho các mũi xung kích của tiểu đoàn 102 tiếp cận cứ điểm Pú Chạng.
Máy bay Pháp đến bắn phá, yểm trợ. Ba tốp máy bay F8F Bearcat và một tốp
B-26 Invader xuất hiện trên bầu trời, ném bom napalm và bom phá vào đội hình
xuất phát xung phong, làm 34 cán bộ, chiến sĩ bị thương, trong đó có Trung đoàn
phó Nguyễn Hùng Sinh. Phòng không Việt Nam bắn rơi hai máy bay. Xung kích
QĐNDVN mở cửa đột phá, đại đội chủ công 267 lọt vào đồn, thọc sâu chia cắt
quân Pháp. Sau ba giờ chiến đấu, QĐNDVN làm chủ cứ điểm Pú Chạng, bắt 177
lính, trong đó có viên quan tư Ti-ri-ông chỉ huy phân khu. Trong lúc thu dọn chiến
trường, máy bay Pháp lại ném bom xuống trận địa, Tiểu đoàn trưởng Vũ Phương
hy sinh ngay dưới chân đồi.
Do chiếm lĩnh chậm, đến 3 giờ chiều ngày 17-10-1952, trung đoàn 88 mới
tiến công Nghĩa Lộ Phố. tất cả hoả lực đại bác của đại đoàn 308 QĐNDVN đổ vào
đồn Nghĩa Lộ, tiếp theo là bộ binh xung phong với súng không giật và mìn, băng-
ga-lo phá hàng rào, phá tường đồn, sau cùng là các mũi xung kích tràn vào những
lỗ hổng đã phá được, rồi những trận giáp lá cà bằng dao găm, lưỡi lê cho đến lúc
đại đội Pháp và Thái trấn giữ, đồn thượng bị tiêu diệt hết. Đến nửa đêm, đồn hạ
cũng bị tấn công theo chiến thuật đó. 9 giờ sáng ngày 18-10, QĐNDVN hoàn toàn
chiếm được hai đồn bảo vệ Nghĩa Lộ, loại khỏi vòng chiến đấu 280 lính (diệt 45,
bắt 235), thu 2 khẩu đại bác 105 ly và hàng nghìn viên đạn pháo.
Khi đó, Tổng chỉ huy Sa-lăng đang ở Sài Gòn vẫn từng giờ, từng phút chờ đợi
De Linarès điện báo về, đêm 17-10 là “một đêm đầy lo âu, vì những tin tức hằng
giờ bay vào Sài Gòn luôn mâu thuẫn nhau”. Ngày 18-10, lo ngại của tướng Salan
đã thành sự thật, De Linarès bay từ Tây Bắc về Hà Nội báo cáo: “Thế là hết”. Nội
dung ngắn gọn nhưng viên Tổng chỉ huy đã hiểu mọi điều. Thêm vào đó, Bernard
Fall viết: “Từ trên máy bay, các phi công nhìn thấy rất rõ từng đoàn tù binh kéo
đi, tay giơ quá đầu, lê bước giữa hai hàng lính Việt Minh”.
Trên hướng thứ yếu, đêm 14 tháng 10, trung đoàn 98 tiến công tiêu diệt cứ
điểm Nha Phù, và đêm 17 tháng 10, tiêu diệt sở chỉ huy tiểu khu Phù Yên ở Bản
Mo. Quân Pháp ở Vạn Yên rút chạy sang hữu ngạn sông Đà.
Ở hướng phối hợp, phía nam Lai Châu, ngày 14 tháng 10, tiểu đoàn 910 trung
đoàn 148 đánh đại đội 5 của tiểu đoàn Thái, chiếm Quỳnh Nhai. Ngày 23, tiểu
đoàn 542 trung đoàn 165 diệt một đại đội của tiểu đoàn Ta-bo 17 ở Pắc Ná, số còn
lại chạy sang bên kia sông Đà.
Tới ngày 23, Đại đoàn 312 có mặt trên sông Đà, chỉ sau 11 ngày đêm chiến
đấu đã chiếm hữu ngạn sông Thao, tả ngạn sông Đà từ Vạn Yên đến Quỳnh Nhai,
làm chủ đường 13 nối liền từ Yên Bái đến Nghĩa Lộ. Trước áp lực của Đại đoàn
312 ở hướng tây bắc, quân Pháp ở Gia Hội bỏ đồn rút về Tú Lệ, cùng với tiểu đoàn
dù 6 chạy về phía sông Đà. Bộ chỉ huy chiến dịch điều trung đoàn 165 tiến công
Tú Lệ và truy kích đến đèo Cao Phạ, diệt và bắt gần 400 lính.
Sau 10 ngày chiến đấu, QĐNDVN đã diệt 500 lính, bắt trên 1.000, giải phóng
một vùng đất quan trọng từ hữu ngạn sông Hồng đến tả ngạn sông Đà, từ Vạn Yên
đến Quỳnh Nhai, rộng 10.000 km2. Ngày 23 tháng 10, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết
định kết thúc đợt 1 và di chuyển sở chỉ huy từ Khe Lóng về Gia Phù, gần Tạ Khoa,
trên vùng đất vừa giải phóng.
Pháp tăng viện cho Tây Bắc 8 tiểu đoàn mới là hai tiểu đoàn dù (6e BPC, 1e
BEP), hai tiểu đoàn lê dương (3/1 REI và 3/5 REI), hai tiểu đoàn Phi (31 RTM và
27 BMTS), hai tiểu đoàn Quốc gia Việt Nam (55e BVN và 58 BCL). Cộng với 8
tiểu đoàn còn lại, đưa quân số Pháp ở Tây Bắc lên 16 tiểu đoàn và 32 đại đội.
Cuộc hành binh Lorraine
Pháp dồn quân về xây dựng tập đoàn cứ điểm Nà Sản ở Lai Châu, đồng thời
mở cuộc hành quân Lorraine (Opération Lorraine) đánh lên Phú Thọ (28 tháng 10)
nhằm kéo chủ lực QĐNDVN về đối phó. Ngày 5 tháng 11, Pháp huy động 13 tiểu
đoàn bộ binh của các binh đoàn cơ động số 1, 2, 3, 4, 5 và ba tiểu đoàn dù, hai hải
đoàn xung kích, bốn tiểu đoàn pháo binh, hai tiểu đoàn cơ giới, bảy đại đội công
binh. QĐNDVN đã bố trí ở Phú Thọ trung đoàn 176, một tiểu đoàn của trung đoàn
246 cùng với bộ đội địa phương có nhiệm vụ ngăn chặn. Bộ chỉ huy quyết định
điều thêm trung đoàn 36 về Phú Thọ đánh địch. Mục tiêu và kế hoạch đợt 2 chiến
dịch vẫn không thay đổi.
Trong những ngày tiếp sau, các trung đoàn 36, 74 cùng lực lượng vũ trang địa
phương đánh mạnh. Du kích huyện Tam Nông phục kích diệt 40 lính. Du kích một
xã ở Lâm Thao một ngày diệt 20 lính. Du kích thị xã Phú Thọ giật bom tiêu diệt
một trung đội. Dân quân Thanh Ba diệt 10 lính, dân quân Phù Ninh bám đường số
2 đánh mìn, diệt một xe... Trong vòng 10 ngày, từ 5 đến 15-11-1952, chỉ riêng bên
tả ngạn sông Hồng đã có 34 vị trí từ một trung đội đến một đại đội Pháp bị tiêu
diệt, 16 vị trí rút chạy và 29 vị trí bị bao vây. Sáng 14-11-1952, QĐNDVN đánh
vào Phát Diệm, bắn chìm 3 tàu và tiêu diệt 3 đại đội đồn trú.
Ngày 17 tháng 11 năm 1952, một đoàn xe của GM4 về tới Chân Mộng trên
đường số 2 lọt vào trận địa phục kích, bị trung đoàn 36 tiêu diệt trên 400 lính, bắt
sống 84, phá huỷ 44 xe cơ giới (có 17 xe thiết giáp), thu 1 xe tăng (xem Trận Chân
Mộng-Trạm Thản ngày 17 tháng 11 năm 1952).
Trong gần một tháng, QĐNDVN ở Phú Thọ đã loại khỏi vòng chiến đấu
1.884 lính, trong đó bắt 173, có 100 lính Âu - Phi, phá huỷ 60 xe cơ giới, thu nhiều
vũ khí. Quân Pháp tổn thất lớn và phải rút khỏi Việt Trì, kết thúc cuộc hành quân
Lorraine khi chưa đạt được mục đích.
Đợt 2 (từ 7 đến 22 tháng 11)
Các đơn vị QĐNDVN vượt Sông Đà, tiến công hệ thống phòng ngự của Pháp
trên cao nguyên Mộc Châu (xem Trận Mộc Châu, ngày 19 tháng 11 năm 1952), kết
hợp vu hồi chiến dịch từ Quỳnh Nhai, chiếm Thuận Châu, Tuần Giáo, Điện Biên
Phủ, buộc quân Pháp ở thị xã Sơn La rút chạy về Nà Sản.
Ngày 17 tháng 11, QĐNDVN vượt sông Đà, tiêu diệt vị trí Bản Hoa. Đêm
tiếp theo tiêu diệt vị trí Ba Lay. Với hai trận đánh, Đại đoàn 312 tiêu diệt gọn tiểu
đoàn 3 Marốc và một đại đội quân Quốc gia Việt Nam. Ngày 18 tháng 12 tiêu diệt
vị trí Hát Tiêu, Mường Lụm. Quân Pháp bỏ Tạ Khoa chạy về Cò Nòi. Đại đoàn
308 truy kích, quyết sạch phòng tuyến quân Pháp trên bờ sông Đà. Ngày 19, đánh
vào Mộc Châu, chiếm các lô cốt trận địa pháo. Quân Pháp ở Chiềng Pan, sông
Con, Tạ Khoa vội vã rút chạy. Đường số 6 được khai thông, cánh cửa vào Tây Bắc
với QĐNDVN được mở rộng.
Ngày 18 tháng 11, quân Pháp rút khỏi Sơn La, trung đoàn 165 tiếp quản Sơn
La, truy quét bắt gần 500 lính và trên 100 nhân viên của Quốc gia Việt Nam.
Trên hướng phối hợp, Ban chỉ huy mặt trận Y13 điều tiểu đoàn 910 và 542
bất ngờ tập kích Điện Biên Phủ. Quân Pháp chạy tan vào rừng, ta tổ chức lùng sục
kết hợp với địch vận, bắt 726 lính, hầu hết thuộc tiểu đoàn Lào (58 BCL), thu 600
súng các loại.
Tại Tu Lệ, đại tá Bigeard được tin Nghĩa Lộ mất, nhận lệnh của Raoul Salan
phải cùng với quân số tất cả các đồn xung quanh tức khắc rút lui về phía Nà Sản, là
một đồn ở trên đường tỉnh lộ số 41 từ Hoà Bình lên Lai Châu và cách Sơn La
10 km về phía đông nam. Nà Sản có một sân bay lớn, máy bay Dakota có thể đáp
xuống được. Ngày 21-10-52, sau một đêm cầm cự chống cuộc tấn công của
QĐNDVN, Bigeard cùng các lính các đồn chung quanh tụ tập tại Tu Lệ, triệt thoái
khỏi đồn. Một giờ trưa bắt đầu cuộc hàng trình trực chỉ hướng tây.
3 giờ sáng ngày 22-10-52, đoàn quân Bigeard tới đồn Mường Chèn là một
đồn nhỏ ở giữa một lòng chảo cách Tu Lệ 25 km, có một trung đội phụ lực người
Thái dưới quyền thượng sĩ Peyrol trấn giữ. QĐNDVN suốt ngày đuổi theo đánh
bọc hậu làm thiệt hại nhiều, nay vẫn bám sát và ẩn nấp trên những ngọn núi xung
quanh. Lính của Bigeard đã kiệt sức, hết cả lương thực và đạn dược, phải dừng
chân ở Muờng Chèn để nghỉ, lấy lại sức và chờ máy bay thả dù tiếp tế xuống. Nửa
đêm hôm đó, nhờ đóng quân ở ngoài đồn và nhờ lúc QĐNDVN đánh đồn Mường
Chèn, Bigeard vội chuyển quân đi thoát.
Ngày 22-10, hồi 9 giờ sáng, quân Bigeard tới được đồn Bản Y Tông, cách
Muờng Chèn 25 km. Tại đây Bigeard gập đươc đoàn quân từ Nà Sản cùng tiểu đoàn
56 Quốc gia Việt Nam đến tiếp đón nên Bigeard an toàn rút về đến đồn Tà Bú rồi từ
đó được xe cam-nhông đưa về Sơn La, Nà Sản, rồi đáp máy bay về Hà Nội.
Đợt 3 (từ 30 tháng 11 đến 10 tháng 12)
Trận Nà Sản
Sau khi thất bại ở Nghĩa Lộ, Salan quyết định tăng cường Nà Sản để chống
trả với Việt Minh trong vùng tây bắc và cũng để bảo vệ lãnh thổ người Thái từ lâu
đã có những liên lạc trung thành với Pháp mà Pháp không muốn rời bỏ.
Nà Sản là tên một làng Thái ở giữa một thung lũng dài 5 km, rộng 2 km, xung
quanh có núi đồi cao bao bọc, cách Hà nội 190 cây số theo đường thẳng, và cách
khoảng 40 phút bằng máy bay. Dân cư thưa thớt, toàn người Thái sống về nghề
làm rẫy. Giữa lòng chảo có một phi đạo dài một l km dùng cho máy bay hai động
cơ Dakota lên xuống được. Nà Sản cũng nằm trên tỉnh lộ số 41 nối liền Lai Châu,
Điện Biên qua Sơn La, Mộc Châu xuống Thanh Hóa hoặc sang Hoà Bình về Hà
Nội, vì vậy vị trí Nà Sản quan trọng trong việc tiếp tế bằng đường bộ cho khu vực
Thái và trấn giữ vùng Thượng Lào.
Đầu tháng 11-1952, một cầu không vận ngày đêm hoạt động, chuyên chở các
đồ tiếp tế: đạn dược, lương thực, xe ủi đất, hàng ngàn tấn dây kẽm gai và lừa ngựa
từ Hà Nội lên Nà Sản (lừa ngựa để chuyên chở nước uống và tiếp tế lương thực
đạn dược cho các đồn điểm tựa đóng trên núi). Hai đại đội công binh và hàng ngàn
phu phen phục dịch gấp rút xây đắp các đường hầm giao thông và trú ẩn, xây cất
30 điểm tựa xung quanh lòng chảo, trên những ngọn đồi núi, để bảo vệ phi trường
Nà Sản. Đại tá Gilles chỉ huy 8 tiểu đoàn và 4 khẩu trọng pháo 105 ly, có nhiệm vụ
bảo vệ Nà Sản.
QĐNDVN tiếp tục tiến công quân Pháp ở Nà Sản. Bộ chỉ huy chiến dịch
quyết định triển khai đợt 3, Nà Sản là mục tiêu, nhưng quân Pháp thả dù thêm cho
Nà Sản 2 tiểu đoàn. Cứ điểm này trở thành một cứ điểm kiên cố nằm trong cấu trúc
chặt chẽ của một tập đoàn cứ điểm.
Đêm 30-11 rạng ngày 31-11-1952, QĐNDVN ồ ạt tấn công vào các điểm tựa
phía đông bắc. Trung đoàn 102 cùng trung đoàn 88 của Đại đoàn 308 tiến công Pú
Hồng (điểm cao 753). Sau 1 giờ 45 phút chiến đấu, QĐNDVN chiếm được điểm
tựa số 24 do trung úy Pipart phụ trách với một đại đội lính Thái và lính Ma rốc,
diệt bốn trung đội của GM1 đóng tại đây, bắt sống viên quan ba chỉ huy. Cùng
đêm, tiểu đoàn 115 của trung đoàn 165 Đại đoàn 312 tiến công vị trí Bản Hời. Sau
hơn một giờ chiến đấu, QĐNDVN diệt một đại đội địch. Tới gần sáng, nhờ trọng
pháo và không quân yểm trợ, Gilles phản công với những đơn vị dự trữ, QĐNDVN
rút lui, Gilles lấy lại được đồn.
Đêm hôm sau, 11 tiểu đoàn QĐNDVN ồ ạt tấn công vào hai đồn chính bảo vệ
Nà Sản. Từ 9 giờ đêm đến 7 giờ sáng, nhờ thời tiết tốt nên máy bay Pháp thả pháo
sáng khắp trận địa, liên tiếp ném bom và bắn pháo liên thanh xuống vị trí
QĐNDVN, đồng thời các giàn đại bác nhả đạn xung quanh đồn, ở trong đồn thì
lính cố sức cầm cự, QĐNDVN thiệt hại nhiều mà không chiếm được đồn. Trung
đoàn 209 đánh Bản Vây cũng không kết quả. Trời sáng, Pháp dùng máy bay oanh
tạc và bắn trên 5.000 quả đạn pháo để cứu nguy cho các cứ điểm. Đến sáng,
QĐNDVN rút lui.
Ngày 2 tháng 12, địch thả dù tăng cường thêm cho Nà Sản hai tiểu đoàn,
quyết giữ tập đoàn cứ điểm này. Những ngày sau, QĐNDVN biết là vấp phải sức
kháng cự mạnh mẽ, nếu tiếp tục tấn công thì bất lợi. Trước những khó khăn mới
nảy sinh, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định kết thúc chiến dịch Tây Bắc, QĐNDVN
rút lui khỏi Nà Sản không trở lại nữa.
Các hướng khác
Trong khi Raoul Salan tăng cường phòng thủ Nà Sản đề phòng QĐNDVN
kéo quân tới tấn công địa điểm đó, thì đêm hôm 17-11, Mộc Châu bị thất thủ.
Mộc Châu là một thị trấn ở cách Nà Sản 80 km về phía Nam, nằm trên đường
hàng tỉnh số 41 từ Hoà Bình lên Sơn La, Lai Châu, trấn giữ con đường qua Xiêng
Khoảng xâm nhập xứ Lào. Mộc Châu có một tiểu đoàn Ma rốc với quân phụ lực
người Thái. Đêm 17 rạng ngày 18-11, đồn Mộc châu bị chiếm sau nhiều đợt tấn
công của QĐNDVN, quân Pháp bỏ đồn rút qua rừng về phía Sầm Nưa.
Ngày 30-11-1952, đồn Điện Biên Phủ cũng bị thất thủ. Điện Biên Phủ là một
thị trấn thuộc Quân khu 4 mà Bộ chỉ huy đóng ở Lai Châu, nằm gần biên giới Lào
cách Lai Châu độ 90 km đường thẳng về phía tây nam và cách Sơn La cũng chừng
ấy về phía tây, cách Hà Nội khoảng 300 km. Điện Biên Phủ nằm giữa một thung
lũng lòng chảo dài 15 km, rộng 6 km, có một phi đạo máy bay Dakota có thể lên
xuống được. Điện
Biên Phủ có chừng 300 lính Thái đặt dưới quyền một viên tri châu người
Mường, Đèo Văn Ban, và một tiểu đoàn lính Senegal dưới quyền thiếu tá Durand.
Tiểu đoàn Sê-nê-gan này vừa bị tiêu di