Nhận thức là tập hợp những thông tin được thu nhập, xử lý và lưu trữ trong bộ
nhớ. Lượng thông tin càng nhiều, được tổ chức càng hợp lý, khách hàng càng có khả
năng đưa ra các quyết định đúng đắn khi đó trình độ nhận thức của khách hàng ngày
càng cao và ngược lại. Những thông tin mà khách hàng sử dụng trên thị trường để
đánh giá và mua sắm thể hiện là trình độ nhận thức của khách hàng.
60 trang |
Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 12422 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Chương 4: Nhận thức của khách hàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
49
Chương 4 NHẬN THỨC CỦA KHÁCH HÀNG
4.1 NHẬN THỨC
4.1.1 Khái niệm và phân loại nhận thức
4.1.1.1 Khái niệm nhận thức
Nhận thức là tập hợp những thông tin được thu nhập, xử lý và lưu trữ trong bộ
nhớ. Lượng thông tin càng nhiều, được tổ chức càng hợp lý, khách hàng càng có khả
năng đưa ra các quyết định đúng đắn khi đó trình độ nhận thức của khách hàng ngày
càng cao và ngược lại. Những thông tin mà khách hàng sử dụng trên thị trường để
đánh giá và mua sắm thể hiện là trình độ nhận thức của khách hàng.
Sơ đồ 4.1. Quá trình nhận thức
Trình độ nhận thức của khách hàng có ảnh hưởng quan trọng đến việc nhận
thức của họ. Nếu trình độ nhận thức về sản phẩm của họ cao thì các thông điệp
marketing mà các nhà quản trị muốn gửi gắm sẽ được khách hàng đánh giá về sản
phẩm đúng và chính xác chứ không bị bóp méo hoặc làm sai lệch. Đồng thời những
sản phẩm được mua càng có khả năng thỏa mãn tốt được nhu cầu, ước muốn của họ.
4.1.1.2 Phân loại nhận thức
a. Phân loại nhận thức theo trình độ thâm nhập vào bản chất của đối tượng
- Nhận thức kinh nghiệm: hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự vật, hiện
tượng trong tự nhiên, xã hội hay trong các thí nghiệm khoa học.
Ví dụ: Khách hàng thường cho rằng những sản phẩm nào của nhãn hiệu nổi
tiếng thì thường có chất lượng tốt hơn những nhãn hiệu khác, hay từ kinh nghiệm dùng
một loại sản phẩm gì đó nhiều lần thì sản phẩm đó đối với khách hàng thường là hữu
dụng nhất.
- Nhận thức lý luận (gọi tắt là lý luận) là loại nhận thức gián tiếp, trừu tượng và
khái quát về bản chất và quy luật của các sự vật, hiện tượng. Nhận thức lý luận có tính
gián tiếp vì nó được hình thành và phát triển trên cơ sở của nhận thức kinh nghiệm.
50
Ví dụ: Trước khi mua một chiếc máy tính xách tay, chúng ta thường tham khảo
kỹ về các thông số kỹ thuật (hệ điều hành, bộ nhớ trong, chip xử lý, ), nơi sản xuất
cũng như quá trình bảo hành trong thời gian sử dụng
Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức khác
nhau, có quan hệ biện chứng với nhau. Trong đó nhận thức kinh nghiệm là cơ sở của
nhận thức lý luận. Nó cung cấp cho nhận thức lý luận những tư liệu phong phú, cụ thể.
Vì nó gắn chặt với thực tiễn nên tạo thành cơ sở hiện thực để kiểm tra, sửa chữa, bổ
sung cho lý luận và cung cấp tư liệu để tổng kết thành lý luận. Ngược lại, mặc dù được
hình thành từ tổng kết kinh nghiệm, nhận thức lý luận không xuất hiện một cách tự
phát từ kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những
sự kiện kinh nghiệm, hướng dẫn sự hình thành tri thức kinh nghiệm có giá trị, lựa chọn
kinh nghiệm hợp lý để phục vụ cho hoạt động thực tiễn. Thông qua đó mà nâng những
tri thức kinh nghiệm từ chỗ là cái cụ thể, riêng lẻ, đơn nhất trở thành cái khái quát, phổ biến.
Chẳng hạn như việc lựa chọn mua máy tính xách tay, nhận thức đầu tiên được
hình thành sẽ là từ kinh nghiệm của những người xung quanh, từ các nguồn tham khảo
trên mạng. Để đưa ra được quyết định mua máy, tùy theo hiểu biết tri thức về máy tính
mà khách hàng sẽ phân tích những thông tin tiếp theo như bộ nhớ trong, chip xử lý,
dung lượng pin
b. Phân loại nhận thức theo tính chất
Có 2 dạng nhận thức theo tính chất của nó là nhận thức cơ bản và nhận thức
ứng dụng:
Nhận thức cơ bản bao gồm kiến thức về những thông tin về sự kiện thực tế
mà người ta tiếp cận được. Nhận thức cơ bản mang tính khách quan, phản ánh thực tế
mà con người cảm nhận được.
Ví dụ: khách hàng có nhận thức cơ bản là những sản phẩm có chất lượng cao
thường được bán với giá cao. Nhưng họ khó có thể xác định đó có thực sự có chất
lượng cao hay không.
Nhận thức ứng dụng là khả năng ứng dụng những nhận thức cơ bản đó vào
việc ra quyết định nhằm giải quyết vấn đề. Nhận thức ứng dụng mang tính chất chủ
quan, chịu tác động rất lớn bởi những đặc tính văn hóa và cá tính của mỗi người.
c. Phân loại theo tư duy Marketing
Marketing phân loại nhận thức của người tiêu dùng theo mức độ và cách thức
ảnh hưởng tới hành vi của họ. Nhận thức được chia thành: biết về sản phẩm, biết giá,
biết mua, biết sử dụng.
- Biết về sản phẩm: là sự nhận biết của khách hàng về nhãn hiệu hay một loại
sản phẩm nào đó. Có thể họ đã từng nghe bạn bè nhắc đến sản phẩm, xem trên các
kênh quảng cáo, biết được một số giá trị có lợi của sản phẩm hoặc cũng có thể biết về
nhà sản xuất. Tuy nhiên biết về sản phẩm chưa đủ tính quyết định để khách hàng lựa
chọn sản phẩm đó.
51
- Biết giá: là mức độ hiểu biết về giá của loại sản phẩm. Khách hàng thường có
những phân tích đánh giá xem giá của sản phẩm đó “rẻ” hay “đắt”. Họ không muốn
mua những món đồ quá rẻ vì nghi ngờ về chất lượng của nó, nhưng họ cũng không
muốn bỏ tiền ra để mua những món đồ quá đắt so với giá trị thực. Qua đó nhà
Marketing cần phải hiểu biết được các loại giá cấu thành nên sản phẩm để có những
điều chỉnh về giá của sản phẩm đó phù hợp với lòng tin của khách hàng.
- Biết mua: thể hiện khách hàng thu thập được nhiều nguồn thông tin đáng tin
cậy để vận dụng vào quá trình mua sản phẩm. Đây là mức độ cao hơn của biết giá và
biết về sản phẩm. Một khách hàng biết mua là khách hàng có đủ thông tin cần thiết để
ra quyết định mua hàng.
- Biết sử dụng: biết sử dụng thể hiện mức độ nhận thức cao của khách hàng. Có
những hiểu biết nhiều về sản phẩm thì họ mới tận dụng được hết các tính năng của sản
phẩm từ đó sản phẩm được đánh giá cao. Khách hàng sẽ không lựa chọn sản phẩm nếu
họ không biết sử dụng nó như thế nào. Chính vì vậy mà các nhà marketing cần phải
đưa các thông tin về cách sử dụng sản phẩm một cách đơn giản và dễ tiếp cận nhất với
khách hàng để tăng khả năng thành công của sản phẩm trên thị trường.
4.1.2 Ảnh hưởng của nhận thức đến hành vi khách hàng
Trên thực tế, những gì khách hàng mua, địa điểm và thời điểm mua phụ thuộc
không nhỏ vào trình độ nhận thức của họ. Khách hàng càng có nhận thức đầy đủ về
sản phẩm thì việc mua của họ càng dễ dàng: họ biết mua ở đâu, mua khi nào và mua
như thế nào. Đồng thời, những sản phẩm họ mua càng có giá trị sử dụng cao đáp ứng
nhu cầu của họ. Do đó vấn đề quan trọng đối với doanh nghiệp là phải tìm hiểu được
nhu cầu và mong muốn của khách hàng, họ biết gì và chưa biết gì về sản phẩm và
những vấn đề liên quan đến việc thỏa mãn nhu cầu đó. Việc giúp khách hàng nhận
thức về sản phẩm và doanh nghiệp có thể giúp cho các hoạt động bán hàng hay
marketing sản phẩm dễ dàng hơn.
Nếu như khách hàng có những nhận thức sai lệch hoặc không đầy đủ về sản
phẩm thì sức hút của sản phẩm, thương hiệu đối với khách hàng sẽ giảm đi – đó là
nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của doanh nghiệp. Việc thay đổi, đính chính những
nhận thức chưa đúng này là cần thiết để giúp doanh nghiệp khẳng định được vị trí của
mình trong việc lựa chọn của khách hàng. Nói cách khác Marketing cần tìm hiểu xem
khách hàng biết gì về sản phẩm và doanh nghiệp? Những thông tin đó được sắp xếp
trong bộ nhớ của khách hàng như thế nào? Làm thế nào để đánh giá được hiểu biết của
khách hàng?
Một ví dụ khá phổ biến của cách làm thứ 2 là trong thị trường Bất động sản và
thời trang của Việt Nam. Xuất phát từ tâm lý (nhận thức) sính ngoại của người tiêu
dùng Việt nên để sản phẩm có thể đến được với khách hàng các doanh nghiệp Việt đã
đặt tên “Tây” cho các sản phẩm của mình. Về lĩnh vực thời trang, các doanh nghiệp
Việt Nam trong thời gian qua đã đưa ra các nhãn hiệu “Tây” đánh vào phân khúc cao
52
cấp như: San Sciaro, Manhattan, TT-up của Việt Tiến hay Mattana, Novelty của May
Nhà Bè. Ngoài ra, một số thương hiệu được khá nhiều người biết đến như: Nino Maxx,
Blue Exchange, Foci Về lĩnh vực Bất động sản đã có rất nhiều dự án mang tên ngoại
như Indochina Plaza, Times City, The Garden, Eco Park,.
4.2 THÔNG TIN VÀ QUÁ TRÌNH XỬ LÝ THÔNG TIN CỦA KHÁCH HÀNG
4.2.1 Bản chất của thông tin và các cách xử lý thông tin của khách hàng
Người tiêu dùng có được nhận thức thông qua quá trình xử lý thông tin. Đó là
một chuỗi các hoạt động được tạo ra bởi các kích thích ở môi trường bên ngoài đã
được chuyển đổi thông tin và lưu trữ lại.
4.2.1.1 Bản chất của thông tin
Thông tin bao gồm toàn bộ sự thật, phỏng đoán hay ước lượng và các mối
tương quan ảnh hưởng tới nhận thức về bản chất và hoàn cảnh của một vấn đề hay cơ
hội nào đó của người ra quyết định. Thông tin tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau như:
Sự kiện: dạng đơn giản nhất của thông tin. Nó là một hiện tượng, một tình
huống, một sự việc quan sát trực tiếp hoặc được một ai đó tường thuật lại, có thể tìm
hiểu và được ai đó tin tưởng
Ước lượng: khác với sự thật, ước lượng được dựa trên cơ sở suy luận của bản
thân khách hàng (hoặc tư duy logic, thống kê) thay vì quan sát trên thực tế. Chúng ta
luôn phải ước lượng thay vì nắm bắt được sự thật vì điều kiện thiếu hụt về thời gian và
chi phí.
Phỏng đoán: Sự kiện và ước lượng được xem xét ở hiện tại và quá khứ còn
phỏng đoán lại được dùng để xem xét về tương lai. Nó thể hiện suy nghĩ của chúng ta
về những gì sẽ diễn ra trong tương lai.
Mối tương quan: để có được ước lượng và phỏng đoán, đặc biệt là với những
vấn đề phức tạp chúng ta cần phải liên kết các vấn đề có mối tương quan với nhau và
tương quan với các tình huống cụ thể.
Người làm marketing cần phải phân biệt được các loại thông tin kể trên và hiểu
sự khác nhau trong bản chất của các loại thông tin đó. Loại thông tin cần thiết sẽ xác
định kiểu chiến lược marketing cần thực hiện
4.2.1.2 Các cách xử lý thông tin của khách hàng
Người ta có thể có nhận thức khác nhau đối với cùng một nhân tố tác động do
có ba quá trình của nhận thức là sự chú ý có chọn lọc, sự bóp méo thông tin và sự ghi
nhớ có chọn lọc.
a. Sự chú ý có chọn lọc
Trong quá trình mua hàng, con người luôn chịu tác động của vô số các nhân tố
ảnh hưởng cũng như nguồn thông tin đến từ nhiều loại khác nhau (có thể là thông tin
đến từ những người xung quanh, thông tin trên mạng hay thông tin chúng ta trực tiếp
53
nhìn thấy) mà nhận thức của chúng ta không thể xử lý hết được các nguồn thông tin
này. Trong đó có một số có vai trò quan trọng với quyết định mua hàng, số còn lại
mức độ ảnh hưởng đến ít hơn do đó khách hàng luôn tìm cách để sàng lọc chúng. Ví
dụ: hàng ngày chúng ta xem rất nhiều quảng cáo nhưng tất nhiên chúng ta không quan
tâm đến tất cả mà chỉ chọn lọc các loại quảng cáo liên quan đến các sản phẩm ta đang
quan tâm. Một vấn đề khó khăn đối với nhà marketing là làm thế nào để các thông
điệp về sản phẩm gây kích thích và khơi dậy sự chú ý của khách hàng. Sau đây là một
số kết quả thu được sau quá trình nghiên cứu của các nhà khoa học về sự quan tâm có
chọn lọc của khách hàng:
Khách hàng có khuynh hướng quan tâm đến những thông tin liên quan đến nhu
cầu hiện tại nảy sinh của họ. Ví dụ: Bạn sẽ chú ý đến các thông tin, quảng cáo liên
quan đến điện thoại nếu bạn đang có nhu cầu đi mua điện thoại và chắc chắn nhận thức
của chúng ta không quan tâm mấy đến các quảng cáo về mỹ phẩm hay quần áo.
Khách hàng thường quan tâm đến các thông tin đến từ những sản phẩm mà họ
đang mong đợi. Ví dụ: Bạn đang rất mong đợi được mua đôi giầy mới thì khi đi ngang
qua một cửa hàng nào đó bạn sẽ chỉ chú ý đến các mẫu giầy của cửa hàng đó mặc dù
trong cửa hàng cũng bán rất nhiều quần áo.
Khách hàng thường thường chú ý đến các tác nhân kích thích có sự khác biệt,
mới lạ, độc đáo so với bình thường. Ví dụ: Có 2 thông điệp quảng cáo của các nhãn
hiệu máy tính thì bạn sẽ quan tâm chú ý đến quảng cáo giảm giá sản phẩm 100.000
đồng hay sẽ quan tâm đến tấm biển quảng cáo mua 1 tặng 1? Dĩ nhiên là chúng ta sẽ
quan tâm đến quảng cáo mua 1 tặng 1 vì tính độc đáo của chúng.
Dựa trên sự quan tâm có chọn lọc trong nhận thức của khách hàng, các nhà
marketing cần biết dành các nỗ lực tạo ra các thông điệp marketing lôi cuốn sự chú ý
của khách hàng. Những thông điệp về những sản phẩm mà họ không tìm kiếm vẫn có
thể gây chú ý với khách hàng nhờ sự mới lạ, độc đáo của chúng. Việc sử dụng các kĩ
thuật quảng cáo như: âm thanh cao hơn mức bình thường, màu sắc sặc sỡ, hay những
slogan gây sốc với khách hàng là những ví dụ điển hình trong việc lôi kéo sự chú ý
mà các nhà marketing thường áp dụng.
b. Sự bóp méo thông tin
Ngay cả những thông tin mà khách hàng đang chú ý đến cũng chưa chắc đã
được khách hàng nhận thức đúng đắn như ý của các người truyền thông tin, họ thường
áp đặt những thông tin vào khuôn khổ ý nghĩ, định kiến sẵn có của mình. Sự bóp méo
thông tin hay nhận thức thiên vị là khuynh hướng sửa đổi, điều chỉnh thông tin theo ý
nghĩ riêng của mỗi người. Ví dụ: Một khách hàng thích xe máy của nhãn Honda thì
người đó sẽ gạt bỏ những khẳng định xấu về xe này như xe Honda có mẫu mã xấu, giá
bán đắt hơn các loại xe khác. Người ta giải thích thông tin theo xu hướng ủng hộ chứ
không phải phủ nhận hoàn toàn những quan niệm sẵn có đó.
Làm sao để khách hàng hiểu được thông điệp một cách đúng đắn là điều mà
chúng ta, các nhà quản trị marketing mong muốn. Muốn làm được điều đó chúng ta
54
cần hiểu rõ đặc điểm nhận thức của khách hàng như cách mà họ sẽ giải mã thông tin.
Các thông điệp phải rõ ràng, gây thích thú và lặp đi lặp lại nhiều lần để truyền đạt
những điểm chính đến khách hàng. Cần thường xuyên tham khảo ý kiến trực tiếp của
khách hàng về cách khách hàng nhìn nhận về sản phẩm để có những điều chỉnh phù
hợp với nhận thức của họ.
c. Sự ghi nhớ có chọn lọc
Khách hàng có xu hướng quên đi những gì họ đã tiếp nhận được mà chỉ lưu giữ
lại những thông tin phù hợp với quan điểm, niềm tin và thái độ của họ. Khi các thông
tin đã được khách hàng sàng lọc và tiếp nhận đúng với ý tưởng của người truyền thông
tin, chúng có thể không được ghi nhớ lâu (bị lãng quên cho dù họ đã tiếp nhận), điều
đó có nghĩa là khách hàng thường chỉ có khả năng ghi nhớ chọn lọc. Điều này là tự
nhiên bởi khả năng ghi nhớ trong trí não của con người là có hạn.
Vì sự ghi nhớ là có hạn nên người làm marketing phải tìm ra giải pháp để các
thông điệp có tính hấp dẫn nhờ sự mới lạ, độc đáo, đủ mạnh để lôi kéo sự chú ý của
khách hàng, họ cần luôn sử dụng các chủ đề mang tính chất kịch tính lặp đi lặp lại. Ví
dụ: các quảng cáo của các sản phẩm trên tivi được lặp lại nhiều lần trong một bộ phim,
nhiều lần trong một ngày để cố gắng lưu lại trong trí nhớ của khách hàng. Điều quan
trọng hơn cả là sản phẩm phải thỏa mãn được khách hàng và có những giá trị ưu việt
hơn hẳn so với các đối thủ cạnh tranh. Có như vậy sản phẩm, nhãn hiệu, nhà cung cấp
mới lưu lại trong trí nhớ của khách hàng lâu dài và họ sẽ sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp.
4.2.1 Quá trình xử lý thông tin của khách hàng
Quá trình xử lý thông tin bao gồm hàng loạt các hoạt động liên tiếp nhau nhằm
chuyển những thông tin, kích thích bên ngoài thành những thông tin đã được mã hóa
và lưu trữ chúng.
Sơ đồ 4.2. Quá trình xử lý thông tin khi khách hàng ra quyết định
TIẾP NHẬN
Ngẫu nhiên Chủ tâm
GIẢI NGHĨA
Không hiểu Hiểu rõ
CHÚ Ý
Không quan tâm Quan tâm
TIẾP THU
Cấu trúc bộ nhớ Hành vi
QUYẾT ĐỊNH MUA
N
hậ
n
th
ứ
c
G
hi
n
h
ớ
55
Nhận thức
Nhận thức bao gồm 3 bước: Tiếp nhận, chú ý và giải nghĩa. Hàng ngày, chúng
ta phải đối diện với vô số thông tin xung quanh, nên nhận thức được diễn ra một cách
có chọn lọc. Khách hàng chỉ tiếp nhận một phần hữu hạn trong tổng thể các thông tin
về sản phẩm và bỏ qua phần lớn các thông tin khác. Cần nhớ rằng nhận thức và ghi
nhớ mang tính lựa chọn. Với hàng núi thông tin xung quanh, mỗi người đều lựa chọn
cho mình tiếp nhận một lượng hữu hạn những thông tin cụ thể do đó chúng ta chỉ có
khả năng chú ý đến một lượng nhỏ để ghi nhớ vào bộ nhớ và bỏ qua phần lớn các
thông tin khác.
Phần lớn các thông tin khách hàng đã giải nghĩa không nằm trong phần bộ nhớ
đang hoạt động khi họ cần ra quyết định mua; do đó nhà quản trị marketing sẽ đối mặt
với nhiều khó khăn khi tìm cách truyền thông đến khách hàng.Ví dụ: Quảng cáo tivi
3D của LG trên tivi với rất nhiều thông tin khác nhau về thông số kỹ thuật, độ rộng
của màn hình, độ sắc nét và sinh động của hình ảnh, độ dày của tivi, khả năng truy cập
vào các ứng dụng trực tuyến nhưng hầu hết chúng ta chỉ lưu giữ lại trong bộ nhớ là
các thông tin như độ rộng của màn hình, giá thành hay độ sắc nét.
Hình 4.1. Lượng thông tin trong quá trình xử lý thông tin của khách hàng
a. Tiếp nhận
Hoạt động tiếp nhận thông tin sẽ xảy ra khi có một kích thích nào đó tác động
vào các giác quan của chúng ta. Một người chỉ tiếp nhận những kích thích từ môi
trường xung quanh họ. Chúng ta tiếp nhận các kích thích và lựa chọn các thông tin
mang tính chất tự nhiên, “cảm hứng”. “ Cảm hứng” có thể xảy ra khi chúng ta đi trên
đường và bất chợt nhìn thấy một tấm poster rất bắt mắt, hay trên tivi đang chiếu quảng
cáo độc đáo đúng với tâm trạng, sở thích, nhu cầu của chúng ta và vô tình bỏ qua
những đoạn quảng cáo mà có lẽ doanh nghiệp phải chi một số tiền khổng lồ cho các
đoạn quảng cáo trên truyền hình đó.
56
Khách hàng chỉ tiếp nhận các thông tin phục vụ cho mục tiêu của họ. Mục tiêu
này có thể là ngắn hạn hoặc là mục tiêu dài hạn. Các mục tiêu ngắn hạn của khách
hàng thường là để giải trí, nhu cầu mua một sản phẩm hoặc đang tìm kiếm thông tin về
một lĩnh vực nào đó. Mục tiêu dài hạn thường được theo đuổi trong một thời gian dài
như tìm kiếm thông tin về các đối thủ cạnh tranh để đưa ra chiến lược marketing cho
sản phẩm mới hoặc có thể vì mục tiêu tri thức, nâng cao trình độ hiểu biết về một vấn
đề gì đó.
Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta thường xuyên tiếp xúc với các thông tin
nhưng các thông tin đó thường ít khi được quan tâm, hoặc bỏ qua nếu như cá nhân
chúng ta không có cảm hứng hoặc đó không phải là nhu cầu trong hiện tại của mình.
b. Chú ý
Chú ý thường xảy ra khi các kích thích bên ngoài có ảnh hưởng đến một hay
nhiều giác quan của khách hàng và nó có tác động mạnh đến trí não của con người.
Khách hàng thường tiếp nhận thông tin từ hàng nghìn nguồn khác nhau mà chúng ta
không thể phân tích và tìm hiểu tất cả số lượng thông tin đó. Ví dụ: trong siêu thị có
hàng nghìn loại sản phẩm khác nhau, không ai lại đi xem xét tất cả các sản phẩm, họ
chỉ chú ý đến các sản phẩm họ đang có nhu cầu hoặc các sản phẩm độc đáo, mới lạ
thực sự gây được chú ý. Theo thống kê chỉ có khoảng 5-25% thông tin quảng cáo được
chú ý trong tổng số thông tin mà người ta tiếp nhận.
Rõ ràng, bất kỳ chiến lược marketing nào được đưa ra đều mong muốn khách
hàng chú ý đến thông tin của sản phẩm, dịch vụ thay vì chỉ tiếp nhận chúng. Chúng ta
thường thấy các quảng cáo ở giữa những chương trình phim truyện hay hay những
chương trình có nhiều khán giả theo dõi thường được chúng ta chú ý hơn nên bao giờ
các chi phí cho quảng cáo ở các khung giờ này thường đắt đỏ hơn rất nhiều lần so với
các khung giờ được ít người theo dõi.
Sự chú ý được xác định bởi 2 yếu tố: tác nhân kích thích và yếu tố cá nhân của
người nhận thông tin.
-Tác nhân kích thích: là phần vật chất của các tác nhân kích thích. Mức độ chú
ý tùy thuộc vào mức độ tác động của nó tới hệ thần kinh. Các tác nhân kích thích chủ
yếu như quy mô, cường độ kích thích tác động; màu sắc và sự chuyển động; vị trí đặt
thông tin; sự tác biệt riêng rẽ với các quảng cáo khác.
Các kích thích có quy mô và cường độ lớn thường gây chú ý nhiều hơn. Ví dụ:
ở các siêu thị điện máy như HC Home Center thường mở nhạc cỡ rất lớn và treo các
tấm áp phích về các chương trình khuyến mại với kích thước khổng lồ nên thông
thường khi đi qua chúng ta sẽ hay chú ý hoặc tò mò về dòng thông điệp khuyến mại
đó.
Ngoài ra màu sắc và sự chuyển động cũng là một nhân tố ảnh hưởng nhiều đến
sự chú ý. Những quảng cáo có màu sắc sặc sõ, sự chuyển động hình ảnh độc đáo sẽ
gây được nhiều sự chú ý hơn. Chính vì thế mà ngày nay các biển hiệu bằng đèn Led
57
được thay thế thay vì các biển hiểu in