Sốt là trạng thái bệnh lý gặp trong rất nhiều bệnh,
gây ra nhiều rối loạn quan trọng cho các chức phận
của cơ thể.
1. Khái niệm: Sốt là tình trạng tăng thân nhiệt do rối
loạn trung tâm điều hoà nhiệt, trước tác dụng của các
yếu tố có hại, thường gặp nhất là yếu tố nhiễm khuẩn.
Đó là một phản ứng thích ứng toàn thân của động vật
máu nóng. Phản ứng đó được hình thành trong quá
trình tiến hoá của động vật.
Khác với say nóng và say nắng, thân nhiệt tăng là do
nhiệt độ bên ngoài tăng; còn trong sốt, thân nhiệt tăng
là do rối loạn của chính trung tâm điều hoà nhiệt.
5 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1454 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng Chương 5- S-t (febris), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 5- sốt (Febris)
Sốt là trạng thái bệnh lý gặp trong rất nhiều bệnh,
gây ra nhiều rối loạn quan trọng cho các chức phận
của cơ thể.
1. Khái niệm: Sốt là tình trạng tăng thân nhiệt do rối
loạn trung tâm điều hoà nhiệt, trước tác dụng của các
yếu tố có hại, thường gặp nhất là yếu tố nhiễm khuẩn.
Đó là một phản ứng thích ứng toàn thân của động vật
máu nóng. Phản ứng đó được hình thành trong quá
trình tiến hoá của động vật.
Khác với say nóng và say nắng, thân nhiệt tăng là do
nhiệt độ bên ngoài tăng; còn trong sốt, thân nhiệt tăng
là do rối loạn của chính trung tâm điều hoà nhiệt.
2. Nguyên nhân gây sốt
Người ta chia nguyên nhân sốt ra làm hai nhóm:
2.1. Sốt do nhiễm khuẩn.
Nhiễm khuẩn là nguyên nhân phổ biến nhất, đa
số các bệnh nhiễm vi khuẩn và vi rút đều có
sốt. Tuy nhiên cũng có một số bệnh nhiễm
khuẩn không sốt như lỵ amip; thậm chí có khi
thân nhiệt lại giảm như trong bệnh tả.
Trong trường hợp nhiễm khuẩn, sốt xuất hiện
chủ yếu là do tác dụng của độc tố vi khuẩn;
ngoài ra bản thân vi khuẩn và các sản phẩm
hoạt động sống của chúng, cũng như các sản
phẩm của huỷ hoại mô bào, đều có khả năng
gây sốt.
Gần đây người ta đã tinh chế được các chất gây
sốt rất mạnh từ môi trường nuôi cấy vi khuẩn
(cả vi khuẩn Gram âm và Gram dương), từ mủ
và dịch rỉ viêm. Đó là những chất polysaccarit
hay lipo - polysaccarit có tác dụng gây sốt rất
mạnh nhưng độc tính lại rất thấp, không gây tác
hại cơ thể. Ví dụ chất pyrlexa (lấy từ môi trường
nuôi cấy của vi khuẩn Salmonella Aborlus Equi)
đem tiêm vào tĩnh mạch thỏ với lưu lượng rất
nhỏ: 0,003 microgam cho 1 kg cơ thể, đã có thể
gây sốt kéo dài hàng giờ. (Westplate, 1955).
Những chất gây sốt do vi khuẩn sinh ra có thể
chịu được nhiệt đến 1600C.
2.2. Sốt không do nhiễm khuẩn
Sốt do protit lạ
Có hai loại protit lạ: + Protít từ ngoài đưa vào cơ thể
như kháng huyết thanh, vacxin, truyền máu và một số
loại protit được dùng gây sốt để điều trị.
+ Protit nội sinh do sản phẩm phân huỷ protit của cơ
thể, protít bị biến tính. Gặp trong xuất huyết nội, hoại
tử tổ chức (bỏng chấn thương, huỷ hoại bạch cầu, gãy
xương, dung huyết,v.v...)
Sốt do muối
Khi tiêm vào cơ thể dung dịch muối ưu trương, nhất là
khi tiêm vào tổ chức dưới da hay bắp thịt, có thể gây ra
sốt. Người ta cho rằng, trong trường hợp này có lẽ
dung dịch muối làm hoại tử tế bào sinh ra những protit
lạ khác.
Sốt do tác dụng của dược chất
Một số chất có tác dụng kích thích trung tâm điều
nhiệt, hạn chế thải nhiệt như cafein, phenamin,
adrenalin, tetra -hydronaphlylamin.
Sốt do thần kinh
Sốt do thần kinh có thể xuất hiện khi tổn thương hệ
thần kinh như u não, chảy máu não.
Sốt còn xuất hiện do phản xạ đau đớn, sợ hãi
Tuy phân chia ra các loại nguyên nhân có tính chất
khác nhau như vậy nhưng trong thực tế thì các nguyên
nhân ấy lại luôn luôn phối hợp với nhau. Chẳng hạn
sốt do nhiễm khuẩn, đứng về bản chất mà nói, nó rất
giống sốt do protit lạ hoặc muối.