I. Khái niệm, đo lường và phân loại lạm phát
1. Khái niệm
Lạm phát là một hiện tượng kinh tế vĩ mô phổ biến và có ảnh hưởng rộng lớn đến các mặt
của đời sống kinh tế - xã hội. Một ví dụ hết sức nổi bật về lạm phát là thời kỳ siêu lạm phát
mà nước Đức đã trải qua vào đầu những năm 1920. Người ta cho rằng, siêu lạm phát đã
phá huỷ toàn bộ hệ thống chính phủ dân chủ mà nước Đức đã nỗ lực xây dựng sau thất bại
trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và tạo cơ sở cho sự tăng cường quyền lực của
Đảng phát xít do Hitler đứng đầu. Ngay tại Việt Nam, lạm phát trong những năm 2007 và
2008 ở mức 2 con số đã để lại những di chứng nặng nề ở những năm sau.
Lạm phát có thể hiểu là sự gia tăng liên tục trong mức giá chung. Điều này không nhất
thiết có nghĩa giá cả của mọi hàng hóa và dịch vụ đồng thời phải tăng lên theo cùng một tỷ
lệ, mà chỉ cần mức giá trung bình tăng lên. Lạm phát vẫn có thể xảy ra khi giá của một số
hàng hóa giảm, nhưng giá cả của các hàng hóa và dịch vụ khác tăng đủ mạnh.
19 trang |
Chia sẻ: nguyenlinh90 | Lượt xem: 714 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng Chương 9: Lạm phát, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 9. LẠM PHÁT
Mục tiêu học tập
1.Mục tiêu kiến thức
2.Mục tiêu kỹ năng
Giảm phát
I. Khái niệm, đo lường và phân loại lạm phát ................................................................................. 3
1. Khái niệm ................................................................................................................................ 3
2. Đo lường lạm phát ................................................................................................................... 4
3. Phân loại lạm phát ................................................................................................................... 4
II. Nguyên nhân của lạm phát ......................................................................................................... 6
1. Lạm phát do cầu kéo ............................................................................................................... 6
2. Lạm phát do chi phí đẩy .......................................................................................................... 8
3. Lạm phát ỳ ............................................................................................................................... 9
4. Mối quan hệ giữa tiền và lạm phát – Lý thuyết định lượng về tiền. ......................................... 10
III. Tác động của lạm phát ............................................................................................................ 13
1. Ảnh hưởng của lạm phát tới lãi suất ..................................................................................... 13
2. Ảnh hưởng của lạm phát tới thất nghiệp ............................................................................... 13
3. Tác động của lạm phát tới việc phân phối lại thu nhập và của cải ........................................ 14
IV. Biện pháp kiềm chế lạm phát .................................................................................................. 15
V. Hiện tượng giảm phát ............................................................................................................... 16
1. Khái niệm .............................................................................................................................. 16
2. Nguyên nhân của giảm phát .................................................................................................. 17
3. Tác động của giảm phát ........................................................................................................ 18
4. Biện pháp kiềm chế giảm phát .............................................................................................. 19
I. Khái niệm, đo lường và phân loại lạm phát
1. Khái niệm
Lạm phát là một hiện tượng kinh tế vĩ mô phổ biến và có ảnh hưởng rộng lớn đến các mặt
của đời sống kinh tế - xã hội. Một ví dụ hết sức nổi bật về lạm phát là thời kỳ siêu lạm phát
mà nước Đức đã trải qua vào đầu những năm 1920. Người ta cho rằng, siêu lạm phát đã
phá huỷ toàn bộ hệ thống chính phủ dân chủ mà nước Đức đã nỗ lực xây dựng sau thất bại
trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và tạo cơ sở cho sự tăng cường quyền lực của
Đảng phát xít do Hitler đứng đầu. Ngay tại Việt Nam, lạm phát trong những năm 2007 và
2008 ở mức 2 con số đã để lại những di chứng nặng nề ở những năm sau.
Lạm phát có thể hiểu là sự gia tăng liên tục trong mức giá chung. Điều này không nhất
thiết có nghĩa giá cả của mọi hàng hóa và dịch vụ đồng thời phải tăng lên theo cùng một tỷ
lệ, mà chỉ cần mức giá trung bình tăng lên. Lạm phát vẫn có thể xảy ra khi giá của một số
hàng hóa giảm, nhưng giá cả của các hàng hóa và dịch vụ khác tăng đủ mạnh.
Lạm phát cũng có thể được định nghĩa là sự suy giảm sức mua của đồng tiền. Trong bối
cảnh lạm phát, một đơn vị tiền tệ mua được ngày càng ít đơn vị hàng hóa và dịch vụ hơn.
Hay nói một cách khác, trong bối cảnh lạm phát, chúng ta sẽ phải chi ngày càng nhiều tiền
hơn để mua một giỏ hàng hóa và dịch vụ nhất định.
Nếu thu nhập bằng tiền không tăng kịp tốc độ trượt giá, thì thu nhập thực tế, tức là sức mua
của thu nhập bằng tiền sẽ giảm. Do vậy, thu nhập thực tế tăng lên hay giảm xuống trong
thời kỳ lạm phát phụ thuộc vào điều gì xảy ra với thu nhập bằng tiền, tức là, phải chăng
các cá nhân có nhận thêm lượng tiền đã giảm giá trị đủ để bù đắp cho sự gia tăng của mức
giá hay không. Người dân vẫn có thể trở nên khá giá hơn khi thu nhập bằng tiền tăng nhanh
hơn tốc độ tăng giá.
Một điều quan trọng mà chúng ta cần nhận thức là lạm phát không chỉ đơn thuần là sự gia
tăng của mức giá mà đó phải là sự gia tăng liên tục trong mức giá. Nếu như chỉ có một cú
sốc xuất hiện làm tăng mức giá, thì dường như mức giá chỉ đột ngột bùng lên rồi lại giảm
trở lại mức ban đầu ngay sau đó. Hiện tượng tăng giá tạm thời như vậy không được gọi là
lạm phát. Tuy nhiên, trong thực tế mỗi cú sốc thường có ảnh hưởng kéo dài đối với nền
kinh tế và do đó có thể gây ra lạm phát.
Trường hợp ngược lại của lạm phát là giảm phát, diễn ra khi mức giá chung liên tục giảm.
Khi đó, sức mua của đồng nội tệ liên tục tăng.
2. Đo lường lạm phát
Để đo lường mức độ lạm phát mà nền kinh tế trải qua trong một thời kỳ nhất định, các nhà
thống kê kinh tế sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ lạm phát được tính bằng phần trăm thay đổi của mức
giá chung. Tỷ lệ lạm phát cho thời kỳ t được tính theo công thức sau:
πt = (Pt – Pt-1)/ Pt-1
πt : tỷ lệ lạm phát của thời kỳ t (có thể là tháng, quí, hoặc năm)
Pt : mức giá của thời kỳ t
Pt-1 : mức giá của thời kỳ trước đó
Lạm phát được hiểu là sự gia tăng giá cả trong nền kinh tế. Tuy nhiên các nhà kinh tế thích
đo lường bằng những chỉ số cụ thể hơn, đó là chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và chỉ số điều
chỉnh thu nhập quốc dân.
CPI thể hiện sự thay đổi tính theo phần trăm của bình quân giá hàng tiêu dùng qua một giai
đoạn nhất định. Do không thể tính giá của tất cả hàng hóa trên thị trường, CPI được tính
trên cơ sở bình quân gia trọng của tập hợp một số hàng hóa đại diện. Ví dụ, CPI ở Việt
Nam được tính dựa vào 130 nhóm hàng tiêu biểu. Trong tập hợp tính CPI, lương thực
chiếm trọng số rất cao ở các nước nghèo nhưng lại thấp ở các nước giàu.
Chỉ số điều chỉnh GDP có thể phản ánh toàn diện hơn những thay đổi giá trong nền kinh
tế. Chỉ số này xem xét không chỉ hàng tiêu dùng mà còn tư liệu sản xuất.
3. Phân loại lạm phát
Lạm phát thường được phân loại theo tính chất hoặc theo mức độ của tỷ lệ lạm phát. Việc
phân loại lạm phát theo tính chất sẽ được đề cập khi bàn về tác động của lạm phát, còn
trong mục này chúng ta sẽ phân loại lạm phát theo mức độ của tỷ lệ lạm phát. Theo tiêu
thức này các nhà kinh tế thường phân biêt 3 loại lạm phát: lạm phát vừa phải, lạm phát phi
mã và siêu lạm phát.
Lạm phát vừa phải. Lạm phát vừa phải được đặc trưng bởi mức giá tăng chậm và nhìn
chung có thể dự đoán trước được vì tương đối ổn định. Đối với các nước đang phát triển
lạm phát ở mức một con số thường được coi là vừa phải. Đó là mức lạm phát mà bình
thường nền kinh tế trải qua và ít gây tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Trong bối cảnh đó,
mọi người vẫn sẵn sàng giữ tiền để thực hiện giao dịch và ký các hợp đồng dài hạn tính
bằng tiền vì họ tin rằng giá và chi phí của hàng hóa mà họ mua và bán sẽ không đi chệch
quá xa.
Lạm phát phi mã. Lạm phát trong phạm vi hai hoặc ba con số một năm thường được gọi
là lạm phát phi mã. Việt Nam và hầu hết các nước chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập
trung sang nền kinh tế thị trường đều phải đổi mặt với lạm phát phi mã trong những năm
đầu thực hiện cải cách.
Nhìn chung lạm phát phi mã được duy trì trong thời gian dài sẽ gây ra những biến dạng
kinh tế nghiêm trọng. Trong bối cảnh đó, đồng tiền bị mất giá rất nhanh, cho nên mọi người
chỉ giữ lượng tiền tối thiểu vừa đủ cho các giao dịch hàng ngày. Mọi người có xu hướng
tích trữ hàng hóa, mua bất động sản và chuyển sang sử dụng vàng hoặc các ngoại tệ mạnh
để làm phương tiện thanh toán cho các giao dịch có giá trị lớn và tích lũy của cải.
Siêu lạm phát. Siêu lạm phát là trường hợp lạm phát đặc biệt cao. Định nghĩa cổ điển về
siêu lạm phát do nhà kinh tế người Mỹ Phillip Cagan đưa ra là mức lạm phát hàng tháng
từ 50% trở lên. Trong khi lạm phát 50% một tháng có thể không thực sự gây ấn tượng,
nhưng nếu tỷ lệ lạm phát này được duy trì liên tục suốt 12 tháng thì tỷ lệ lạm phát cả năm
sẽ lên tới khoảng 13.000 phần trăm. Theo định nghĩa này, cho đến nay thế giới mới trải
qua 15 cuộc siêu lạm phát. Một trường hợp được nghi nhận chi tiết về siêu lạm phát là
nước Đức sau Chiến tranh Thế giới thứ Nhất. Giá một tờ báo đã tăng từ 0,3 mác vào
tháng 1 năm 1921 lên đến 70.000.000 mác chỉ trong chưa đầy hai năm sau. Giá cả của
các thứ khác cũng tăng với tốc độ tương tự. Từ tháng Giêng năm 1922 đến tháng 11 năm
1923, chỉ số giá đã tăng từ 1 lên 10.000.000.000. Cuộc siêu lạm phát ở Đức có tác động
tiêu cực tới nền kinh tế Đức đến mức nó thường được coi là một trong những nguyên nhân
làm nảy sinh chủ nghĩa Đức quốc xã và cuộc Chiến tranh Thế giới thứ Hai.
Có một số điều kiện cơ bản gây ra siêu lạm phát. Thứ nhất, các hiện tượng này chỉ xuất
hiện trong các hệ thống sử dụng tiền pháp định. Thứ hai, nhiều cuộc siêu lạm phát đã có
xu hướng xuất hiện trong thời gian sau chiến tranh, nội chiến, hoặc cách mạng, do sự căng
thẳng về ngân sách chính phủ. Vào những năm 1980, các cú sốc bên ngoài và cuộc khủng
hoảng nợ của thế giới thứ ba đã đóng vai trò quan trọng trong việc gây ra siêu lạm phát ở
một số nước Mỹ La-tinh.
Đặc điểm chung của mọi cuộc siêu lạm phát là sự gia tăng quá mức trong cung tiền, điều
này thường bắt nguồn từ sự cần thiết phải tài trợ cho thâm hụt ngân sách quá lớn. Hơn nữa,
một khi lạm phát cao đã bắt đầu, tình hình thâm hụt ngân sách có thể trở nên không thể
kiểm soát được: lạm phát cao dẫn đến giảm mạnh nguồn thu từ thuế tính theo phần trăm so
với GDP, làm tăng thâm hụt ngân sách và chính phủ sẽ phải dựa nhiều hơn vào phát hành
tiền mà điều này đến lượt sẽ đẩy lạm phát dâng lên cao hơn. Dựa trên các bằng chứng lịch
sử, dường như là thâm hụt ngân sách kéo dài được tài trợ bằng phát hành tiền trong khoảng
từ 10-12 % của GDP sẽ gây ra siêu lạm phát.
II. Nguyên nhân của lạm phát
1. Lạm phát do cầu kéo
Lạm phát do cầu kéo xảy ra do tổng cầu tăng, đặc biệt khi sản lượng đã đạt hoặc vượt quá
mức sản lượng tiềm năng. Thực ra đây cũng là một cách định nghĩa về lạm phát dựa vào
nguyên nhân gây ra lạm phát: lạm phát được coi là do sự tồn tại của một mức cầu quá cao.
Theo lý thuyết này nguyên nhân của tình trạng dư cầu được giải thích do nền kinh tế chi
tiêu nhiều hơn năng lực sản xuất. Tuy nhiên để cho định nghĩa này có sức thuyết phục thì
cần phải giải thích tại sao chi tiêu lại liên tục lớn hơn mức sản xuất. Chúng ta sẽ lần lượt
xem xét các thành tố của tổng cầu.
Lạm phát có thể hình thành khi xuất hiện sự gia tăng đột biến trong nhu cầu về tiêu dùng
và đầu tư. Chẳng hạn, khi có những làn sóng mua sắm mới làm tăng mạnh tiêu dùng, giá
cả của những mặt hàng này sẽ tăng, làm cho lạm phát dâng lên và ngược lại. Tương tự, lạm
phát cũng phụ thuộc vào sự biến động trong nhu cầu đầu tư: sự lạc quan của các nhà đầu
tư làm tăng nhu cầu đầu tư và do đó đẩy mức giá tăng lên.
Trong nhiều trường hợp, lạm phát thường bắt nguồn từ sự gia tăng quá mức trong các
chương trình chi tiêu của chính phủ. Khi chính phủ quyết định tăng chi tiêu cho tiêu dùng
và đầu tư nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng, thì mức giá sẽ tăng. Ngược lại, khi chính phủ quyết
định cắt giảm các chương trình chi tiêu công cộng, hoặc các công trình đầu tư lớn đã kết
thúc, thì mức giá sẽ giảm.
Lạm phát cũng có nguyên nhân từ nhu cầu xuất khẩu. Tuy nhiên, hàng xuất khẩu tác động
tới lạm phát trong nước theo một cách khác: khi nhu cầu xuất khẩu tăng, lượng còn lại để
cung ứng trong nước giảm và do vậy làm tăng mức giá trong nước. Ngoài ra, nhu cầu xuất
khẩu và luồng vốn chảy vào cũng có thể gây ra lạm phát, đặc biệt trong chế độ tỷ giá hối
đoái cố định, vì điều này có thể là nguyên nhân dẫn tới sự gia tăng lượng tiền cung ứng.
Tình hình ngược lại sẽ xảy ra khi nhu cầu xuất khẩu và luồng vốn nước ngoài chảy vào
giảm do nền kinh tế thế giới hay trong khu vực lâm vào suy thoái.
Trong đồ thị tổng cung-tổng cầu, lạm phát do cầu kéo xuất hiện khi có sự dịch chuyển sang
bên phải của đường tổng cầu. Như minh họa trong hình 9-1, sự gia tăng của một thành tố
nào đó của tổng cầu sẽ làm dịch chuyển đường tổng cầu sang bên phải. Do đường tổng
cung dốc lên trong ngắn hạn, nền kinh tế sẽ có tốc độ tăng trưởng cao hơn và thất nghiệp
thấp hơn, nhưng đồng thời lại phải đối mặt với lạm phát. Rõ ràng lạm phát do cầu kéo sẽ
không phải là vấn đề mà thực ra còn cần thiết và có lợi cho nền kinh tế nếu như nền kinh
tế còn nhiều nguồn lực chưa sử dụng như trong trường hợp đường tổng cầu dịch chuyển từ
AD0 đến AD1: lạm phát sẽ khá thấp trong khi sản lượng và việc làm sẽ tăng đáng kể. Ngược
lại, lạm phát do cầu kéo sẽ trở thành vấn đề thực sự nếu như toàn bộ nguồn lực đã sử dụng
hết và đường tổng cung trở nên rất dốc như trong trường hợp đường tổng cầu dịch chuyển
từ AD1 đến AD2. Khi đó, sự gia tăng tổng cầu chủ yếu đẩy lạm phát dâng cao trong khi
sản lượng và việc làm tăng lên rất ít.
2. Lạm phát do chi phí đẩy
Lạm phát cũng có thể xảy ra khi một số loại chi phí đồng loạt tăng lên trong toàn bộ nền
kinh tế. Trong đồ thị tổng cung-tổng cầu, một cú sốc như vậy sẽ làm đường tổng cung dịch
chuyển lên trên và sang bên trái. Trong bối cảnh đó, mọi biến số kinh tế vĩ mô trong nền
kinh tế đều biến động theo chiều hướng bất lợi: sản lượng giảm, cả thất nghiệp và lạm phát
đều tăng. Chính vì vậy, loại lạm phát này được gọi là lạm phát do chi phí đẩy hay lạm phát
đi kèm suy thoái (stagflation).
Ba loại chi phí thường gây ra lạm phát là: tiền lương, thuế gián thu và giá nguyên liệu nhập
khẩu. Khi công đoàn thành công trong việc đẩy tiền lương lên cao, các doanh nghiệp sẽ
tìm cách tăng giá và kết quả là lạm phát xuất hiện. Vòng xoáy đi lên của tiền lương và giá
cả sẽ tiếp diễn và trở nên nghiêm trọng nếu chính phủ tìm cách tránh suy thoái bằng cách
mở rộng tiền tệ.
Việc chính phủ tăng những loại thuế tác động đồng thời đến tất cả các nhà sản xuất cũng
có thể gây ra lạm phát. Ở đây, thuế gián thu (kể cả thuế nhập khẩu, các loại lệ phí bắt buộc)
đóng một vai trò đặc biệt quan trọng, vì chúng tác động trực tiếp tới giá cả hàng hoá. Nếu
so sánh với các nước phát triển là những nước có tỷ lệ thuế trực thu cao, chúng ta có thể
nhận định rằng ở các nước đang phát triển, nơi mà thuế gián thu chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng nguồn thu từ thuế, thì thay đổi thuế gián thu dường như có tác động mạnh hơn tới lạm
phát.
Đối với các nền kinh tế nhập khẩu nhiều loại nguyên, nhiên, vật liệu thiết yếu mà nền công
nghiệp trong nước chưa sản xuất được, thì sự thay đổi giá của chúng (có thể do giá quốc tế
thay đổi hoặc tỷ giá hối đoái biến động) sẽ có ảnh hưởng quan trọng đến tình hình lạm phát
trong nước. Nếu giá của chúng tăng mạnh trên thị trường thế giới hay đồng nội tệ giảm giá
mạnh trên thị trường tài chính quốc tế, thì chi phí sản xuất trong nước sẽ tăng mạnh và lạm
phát sẽ bùng nổ.
Những yếu tố nêu trên có thể tác động riêng rẽ, nhưng cũng có thể gây ra tác động tổng
hợp, làm cho lạm phát có thể tăng tốc. Nếu chính phủ phản ứng quá mạnh thông qua các
chính sách thích ứng, thì lạm phát có thể trở nên không kiểm soát được, như tình hình của
nhiều nước công nghiệp trong thập niên 1970 và đầu thập niên 1980.
3. Lạm phát ỳ
Trong các nền kinh tế hiện đại trừ siêu lạm phát và lạm phát phi mã, lạm phát vừa phải có
xu hướng ổn định theo thời gian. Hàng năm, mức giá tăng lên theo một tỷ lệ khá ổn định.
Tỷ lệ lạm phát này được gọi là tỷ lệ lạm phát ỳ. Đây là loại lạm phát hoàn toàn được dự
tính trước. Mọi người đã biết trước và tính đến khi thỏa thuận về các biến danh nghĩa được
thanh toán trong tương lai.
Hình trên cho thấy lạm phát ỳ xảy ra như thế nào. Cả đường tổng cung và đường tổng cầu
cùng dịch chuyển lên trên với tốc độ như nhau. Sản lượng luôn được duy trì ở mức tự
nhiên, trong khi mức giá tăng với một tỷ lệ ổn định theo thời gian.
4. Mối quan hệ giữa tiền và lạm phát – Lý thuyết định lượng về tiền.
Mối liên hệ giữa việc tăng lượng cung tiền vào lưu thông và việc tăng giá cả hàng hóa đã
được thảo luận ngay từ thời triết gia Aristotle tại thế kỷ thứ tư trước công nguyên. Trong
suốt thế kỷ 16, người Tây Ban Nha khi chinh phục được Mexico và Peru đã có rất nhiều
vàng và bạc làm chiến lợi phẩm. Lượng vàng bạc này được đưa vào Châu Âu để đúc thành
tiền xu. Số lượng tiền xu tăng quá lớn đã làm cho giá cả hàng hóa tăng điều này cũng đồng
nghĩa với việc sức mua của tiền giảm.
Vào đầu thế kỷ 20, Irving Fisher, một nhà kinh tế học tại đại học Yale, đã đưa ra lý thuyết
định lượng về khối lượng tiền tệ trong một nỗ lực giải thích rõ ràng hơn mối quan hệ giữa
cung tiền và lạm phát. Ban đầu Fisher chỉ ra mối liên hệ giữa tổng lượng tiền lưu hành (M)
với tổng số chi tiêu để mua hàng hoá thành phẩm và dịch vụ được sản xuất ra trong nền
kinh tế (PY - trong đó P là mức giá cả, Y là tổng sản phẩm) bằng phương trình trao đổi:
MV = PY (1)
Trong đó V là tốc độ chu chuyển của tiền tệ (tức là số lần trung bình một năm mà một đơn
vị tiền tệ được chi dùng để mua tổng số hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra trong nền
kinh tế vào năm đó). P.Y chính là GDP danh nghĩa.
Ví dụ GDP năm 2012 của Việt Nam là 3,245,419 tỷ đồng, lượng cung tiền M1 là 748,555
tỷ đồng. Như vậy tốc độ chu chuyển tiền V = 3,245,419/748,555 = 4.33 (lần). Điều đó có
nghĩa là trong một năm một đồng tiền quay được 4 vòng.
Chúng ta lưu ý rằng Fisher định nghĩa V = PY/M, đây là một phương trình luôn đúng khi
rút ra từ (1). Do đó nó không thể là một lý thuyết được. Fisher chuyển phương trình trao
đổi trên thành lý thuyết định lượng về tiền tệ bằng cách cho V là một hằng số. Fisher lý
luận rằng số lần trung bình một đồng dollar được sử dụng phụ thuộc vào số lần thanh toán,
số lần đi mua sắm, số lần gửi hóa đơn thanh toán và những nhân tố khác mà thay đổi rất
chậm. Bởi vì sự khẳng định này của Fisher có thể đúng hoặc sai nên trên thực tế nó được
coi là một lý thuyết.
Lý thuyết định lượng về tiền tệ của Fisher nhằm giải thích mối quan hệ giữa cung tiền và
lạm phát cũng rút ta từ phương trình (1) nhưng dưới dạng phần trăm thay đổi:
%ΔM + %ΔV = %ΔY + %ΔP
Vì V là hằng số theo giả định của Fisher nên lúc này %ΔV = 0, do đó:
%ΔM = %ΔY + %ΔP
Hay:
%ΔP = %ΔM - %ΔY
Có nghĩa là:
Tỷ lệ lạm phát = Sự thay đổi trong cung tiền – Sự thay đổi trong hàng hóa dịch vụ
Phương trình này cho chúng ta cái nhìn về mối liên hệ giữa cung tiền và lạm phát. Nếu
cung tiền tăng trưởng lớn hơn mức tăng trưởng của GDP thực thì lạm phát sẽ xảy ra. Ngược
lại giảm phát sẽ xảy ra. Điều này chỉ đúng nếu như V là một hằng số.
Một số nghiên cứu trên thực nghiệm trên thế giới đã tìm ra mối liên hệ định lượng giữa
cung tiền và lạm phát ở những quốc gia nhất định với những độ trễ về tác động khác nhau.
Ngân hàng trung ương có nên phụ thuộc vào chính phủ?
Để làm rõ vấn đề này chúng ta bắt đầu từ hai nghiên cứu thực nghiệm về trường hợp của
Colombia. Nghiên cứu thứ nhất của Adolfo Meisel và Juan D. Barón năm 2010 về mối quan hệ
giữa sự độc lập của Ngân hàng Trung ương Colombia và lạm phát và nghiên cứu thứ hai của
Ignacio Lozano vào năm 2008 để tìm hiểu về thâm hụt ngân sách, cung tiền và lạm phát ở
Colombia.
Nghiên cứu thứ nhất đã cho thấy ba giai đoạn thay đổi của NHTW Colombia từ năm 1923 tới
2008. Giữa những năm 1923 và 1951, NHTW là ngân hàng tư nhân và là một định chế độc lập
với chính phủ, nhiệm vụ của nó là ổn định giá cả. Lạm phát trong thời kỳ này ở mức tốt nhất
với lạm phát trung bình là 5.6%. Giai đoạn tồi tệ nhất là từ 1964 tới 1991 khi lạm phát trung
bình trong thời kỳ này lên tới