Các hệ CAD hiện đại (còn gọi là CAD/CAM) được xây dựng trên cơ sở đồ hoạ máy tính tương tác (Interative Computer Graphics) viết tắt là ICG. Hệ thống đồ hoạ máy tính tương tác là một hệ hướng đến người sử dụng, trong đó máy tính được dùng để tạo ra, chuyển đổi và hiển thị dữ liệu dưới dạng các hình vẽ hay biểu tượng. Người sử dụng ở đây là nhà thiết kế, thực hiện truyền dữ liệu và ra lệnh cho các máy tính thông qua một số thiết bị vào (INPUT) như chuột, bàn phím .Còn máy tính thì liên lạc với con người thông qua màn hình CRT (CRT viết tắt từ chữ Catode Ray Tube- ống phóng chùm tia âm cực).
11 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2286 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng Cơ sở của CAD, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
C4 CAD- CAM> CO SO CAD 1 GVC NGUYỄN THẾ TRANH
Chương 4
CƠ SỞ CỦA CAD
4.1 GIỚI THIỆU CHUNG.
4.1.1. Xác định một hệ CAD.
Các hệ CAD hiện đại (còn gọi là CAD/CAM) được xây dựng trên cơ sở đồ hoạ máy
tính tương tác (Interative Computer Graphics) viết tắt là ICG. Hệ thống đồ hoạ máy tính
tương tác là một hệ hướng đến người sử dụng, trong đó máy tính được dùng để tạo ra,
chuyển đổi và hiển thị dữ liệu dưới dạng các hình vẽ hay biểu tượng. Người sử dụng ở đây
là nhà thiết kế, thực hiện truyền dữ liệu và ra lệnh cho các máy tính thông qua một số thiết
bị vào (INPUT) như chuột, bàn phím ...Còn máy tính thì liên lạc với con người thông qua
màn hình CRT (CRT viết tắt từ chữ Catode Ray Tube- ống phóng chùm tia âm cực). Người
sử dụng tạo ra một hình ảnh trên màn hình CRT bằng cách vào lệnh để gọi những chương
trình con (Subroutine) cần thiết của phần mềm lưu trữ trong bộ nhớ máy tính. Hình ảnh
được xây dựng từ những phần tử hình học cơ bản như điểm, đường thẳng, vòng tròn v.v...
Hình ảnh đó có thể được sửa đổi tuỳ theo lệnh của con người như phóng to, thu nhỏ, di
chuyển vị trí trên màn hình và theo các phép biến đổi khác.Thông qua các thao tác này mà
những chi tiết cần thiết của hình ảnh sẽ được tạo ra theo ý muốn của người thiết kế.
Một hệ thống ICG điển hình bao gồm phần cứng và phần mềm .
* Phần cứng gồm có bộ phận xử lý trung tâm (CPU), một hoặc nhiều trạm công tác
(Work Station) kể cả những terminal hiển thị đồ hoạ, và các thiết bị ngoại vi như máy vẽ,
máy in, v.v...
* Phần mềm gồm các chương trình máy tính để thực hiện việc xử lí đồ hoạ trên hệ thống.
Thông thường các chương trình ứng dụng lập ra để thực hiện các chức năng cụ thể của hãng
hay công ty. Ví dụ hãng thiết kế xây dựng thường phải có phần mềm phân tích ứng suất -
biến dạng, hãng thiết kế - chế tạo máy thường phải có phần mềm phân tích động lực học cơ
cấu, hãng thiết kế công nghiệp hoá chất nào cũng có phần mềm về truyền nhiệt và hệ thống
đường ống, v.v...
Hệ ICG chỉ là một bộ phận của công tác thiết kế có sử dụng máy tính mà thôi, phần
quan trọng chính là người thiết kế. Hệ ICG là công cụ trong tay người sử dụng để giải quyết
những vấn đề về thiết kế công trình. Ở đây người sử dụng đảm nhận những kĩ năng sáng tạo
của con người, còn máy tính đảm nhiệm phần việc phù hợp với nó nhất (tốc độ tính toán,
hiển thị hình ảnh, lưu trữ dữ liệu số lượng lớn ...)
Sử dụng hệ CAD (hệ ICG) cho phép ta đạt được các thuận lợi sau:
1. Nâng cao năng suất thiết kế của người kĩ sư:
• Hiển thị hoá sản phẩm và các bộ phận cấu thành sản phẩm lên màn hình máy
tính.
• Giảm thời gian tổng hợp, phân tích và lập hồ sơ, tư liệu thiết kế cho người kĩ sư.
• Hạ giá thành sản phẩm và giảm thời gian thiết kế.
2. Nâng cao chất lượng thiết kế:
• Cho phép phân tích kĩ thuật một cách toàn diện và thấu đáo hơn.
• Cho phép đưa ra nhiều phương án để phân tích, so sánh.
C4 CAD- CAM> CO SO CAD 2 GVC NGUYỄN THẾ TRANH
• Giảm sai sót trong thiết kế, nâng cao độ chính xác của bản đồ án.
3. Cải thiện và nâng cao điều kiện trao đổi thông tin:
• Tạo ra các bản vẽ kỹ thuật tốt hơn so với thiết kế truyền thống.
• Tiêu chuẩn hoá trong các bản vẽ cao hơn.
• Chất lượng hồ sơ, tư liệu thiết kế cao hơn.
• Bản vẽ đẹp, rõ ràng và ít sai sót.
4. Tạo ra một cơ sở dữ liệu trong máy tính để phục vụ cho giai đoạn chế tạo.
Trong quá trình xây dựng hồ sơ tư liệu thiết kế cho một sản phẩm, các chi tiết tạo nên
sản phẩm, đặc tính kỹ thuật, vật liệu v.v... sẽ tạo những cơ sở dữ liệu cần cho việc chế
tạo sản phẩm, đồng thời cũng được tạo ra và lưu trữ trong bộ nhớ của máy tính.
4.1.2. Lịch sử phát triển
Lịch sử phát triển của CAD liên quan trực tiếp tới sự phát triển của đồ hoạ máy tính.
Đương nhiên CAD bao hàm một nội dung rộng lớn hơn đồ hoạ máy tính, song hệ ICG là
bộ phận cơ bản của CAD. Lịch sử phát triển của đồ hoạ máy tính diễn biến qua nhiều thời
kỳ:
• Một trong những dự án quan trọng đầu tiên trong lĩnh vực đồ hoạ máy tính là dự
án triển khai ngôn ngữ APT tại Học viện Công nghệ Massachusetts vào giữa thập
kỷ 50. APT là chữ viết tắt của thuật ngữ Automatically Programed Tools, có
nghĩa là “máy công cụ được lập trình tự động”. Dự án này có quan hệ mật thiết
với ý tưởng triển khai một phương pháp thuận tiện để thông qua máy tính xác
định các yếu tố hình học phục vụ việc lập trình cho máy công cụ điều khiển số.
Mặc dù sự phát triển của APT là một cột mốc quan trọng trong lĩnh vực đồ hoạ
máy tính, nhưng việc sử dụng ngôn ngữ APT trước đây lại ít liên quan với đồ hoạ
máy tính.
• Một ý tưởng khác, ra đời vào khoảng cuối thập kỷ 50 có tên là “bút quang”. Ý
tưởng về bút quang xuất hiện khi nghiên cứu cách xử lý dữ liệu ra đa của một dự
án quốc phòng gọi là SAGE (Semi-Automatic Ground Environment system). Mục
đích của dự án này là triển khai một hệ thống phân tích dữ liệu rađa và làm rõ
mục đích được coi là máy bay địch trên màn hình CRT. Để tiết kiệm thời gian
vào việc hiển thị máy bay đánh chặn của chủ nhà chống lại máy bay địch, người
ta nghĩ ra bút quang, dụng cụ dùng để vẽ hình ảnh trực tiếp lên màn hình và giúp
cho CPU nhận biết vị trí cụ thể của màn hình vừa được bút quang tiếp xúc.
• Năm 1963 Ivan Sutherland công bố một số kết quả đầu tiên về đồ hoạ máy tính,
cho phép tạo ra và làm chủ các hình ảnh trong thời gian thực trên màn hành CRT.
• Nhiều tập đoàn công nghiệp như General Motors, IBM, Lockheed-Georgia, Itek
Corp, Mc. Ponell, v.v... đã bắt đầu thực hiện những dự án về đồ hoạ máy tính từ
những năm 60. Đến cuối thập kỷ 60 một số nhà cung cấp hệ thống CAD/CAM đã
được thành lập, trong đó phải kể đến hãng Calma vào năm 1969. Các hãng này
bán trọn gói theo kiểu chìa khoá trao tay, trong đó gồm có hều hết hoặc toàn bộ
phần cứng và phần mềm theo yêu cầu của khách hàng. Một số hãng khác phát
triển theo hướng cung cấp phần mềm đồ hoạ như hãng Pat Hanratti mà công ty
thành viên của nó là MCS đã cho ra đời AD 2000 (với phiên bản sau đó là
ANVIL 4000), được coi là gói phần mềm CAD phổ dụng.
C4 CAD- CAM> CO SO CAD 3 GVC NGUYỄN THẾ TRANH
Ngày nay CAD/CAM thực sự đã trở thành một công nghệ có tốc độ phát triển cực
kỳ nhanh chóng, rât nhiều hãng sản xuất và cung cấp sản phẩm trong lĩnh vực này. Trong
đó có AutoCAD ra đời từ cuối năm 1982 đến nay đã có Version 14 chạy trên Windows;
AutoCAD 2000 và AutoCADIX chạy trên Windows và trên mạng Internet; hãng Gulf
Publishing với các phần mềm thiết kế, dạy học và tư vấn trong lĩnh vực hoá chất và dầu
khí, được thành lập từ năm 1985 tại London.
• Ở Việt Nam, CAD/CAM xuất hiện thông qua các phần mềm mua của nước ngoài
để học tập, nghiên cứu và ứng dụng. Tuy nhiên cũng đã có những cố gắng bước
dầu theo hướng tự sản xuất phần mềm trong nước. Chẳng hạn Viện Tin học năm
1992 đã cho ra đời gói phần mềm TOWER để trợ giúp thiết kế mẫu thảm len
trong khuôn khổ Dự án VIE/88/035, năm 1988 Công ty tư nhân Hải Hoá cho ra
đời gói phần mềm thiết kế kiến trúc - xây dựng...
4.2 QÚA TRÌNH THIẾT KẾ
Có thể nói quá trình thiết kế là một quá trình lặp, gồm các bước cơ bản sau :
1. Phát hiện nhu cầu.
2. Xác định vấn đề.
3. Tổng hợp.
4. Phân tích và tối ưu hoá.
5. Đánh giá.
6. Thể hiện.
• Phát hiện nhu cầu là bước đầu tiên, thường do một người nào đó phát hiện ra,
đôi khi bất ngờ, rằng ở một nơi nào đó có một vấn đề cần xem xét, sửa chữa, bổ
sung. Nó có thể là một nhược điểm của một cỗ máy đang sử dụng do người kỹ sư
nhận ra, cũng có thể là một nhu cầu mới của khách hàng do người tiếp thị nhận
biết được.
• Xác nhận vấn đề liên quan đến việc xác định đặc tính kỹ thuật tổng quát của mặt
hàng sẽ được thiết kế ra, gồm: các đặc tính và chức năng, giá thành, chất lượng,
vận hành...
• Tổng hợp và phân tích là hai bước liên quan mật thiết với nhau và có tính lặp
cao trong quá trình thiết kế. Một chi tiết hay một bộ phận cấu thành một sản
phẩm hoàn chỉnh như một máy chẳng hạn, sẽ được người thiết kế trừu xuất hoá,
phân tích, cải tiến thông qua bước phân tích này rồi được thiết kế lại cho phù hợp
hơn. Quá trình đó được lặp đi lặp lại cho đến khi nào bản thiết kế là tối ưu theo
những điều kiện ràng buộc đặt ra cho người thiết kế. Rồi chi tiết hay bộ phận đó
được tổng hợp vào trong cái chung (một máy hoàn chỉnh chẳng hạn) mà nó là
một bộ phận hợp thành, theo một quá trình lặp như trên.
• Đánh giá một bản thiết kế là căn cứ vào các yêu cầu kỹ thuật được thiết lập trong
bước xác định vấn đề để ước lượng, cân nhắc, đo lường xem nó đạt được đến đâu.
Việc đánh giá này thường cần đến sự chế tạo và thử nghiệm một mẫu thật để xem
xét chức năng vận hành, chất lượng, độ tin cậy và các chỉ tiêu khác.
• Thể hiện là bước cuối cùng của quá trình thiết kế. Nó bao gồm việc thiết lập tư
liệu thiết kế trong đó có các bản vẽ, các thuyết minh kỹ thuật, vật liệu chế tạo,
bảng liệt kê các chi tiết và bộ phận lắp ghép v.v... Việc lập tư liệu chủ yếu là phải
tạo ra được môt cơ sở dữ liệu về thiết kế. Hình 5.1 thể hiện các bước chủ yếu của
quá trình thiết kế trong đó cho thấy bản chất lặp của quá trình này.
C4 CAD- CAM> CO SO CAD 4 GVC NGUYỄN THẾ TRANH
Hình 4.1. Quá trình thiết kế
Theo truyền thống, công tác thiết kế kỹ thuật được tiến hành trên bàn vẽ trong đó bản
thiết kế được thiết lập dưới dạng các bản vẽ kỹ thuật. Tuỳ theo từng lĩnh vực mà bản thiết
kế có những yêu cầu riêng, chẳng hạn thiết kế cơ khí, ngoài bản vẽ tổng thể, các bản vẽ chi
tiết và các bản vẽ cụm, còn kèm theo bản vẽ dụng cụ cắt gọt và đồ gá để chế tạo ra sản
phẩm. Thiết kế điện gồm các sơ đồ mạch, đặc tính kỹ thuật của các linh kiện điện tử v.v...
Bản thiết kế của các lĩnh vực khác như xây dựng, hoá chất, chế tạo máy bay, ngoài đặc
điểm chung cơ bản, cũng có những nét đặc thù riêng như vậy. Trong từng lĩnh vực nói trên,
phương pháp tiếp cận truyền thống là tổng hợp một bản thiết kế sơ bộ theo cách thủ công rồi
mới qua phân tích dưới một dạng nào đó. Bước phân tích này có thể gồm những bản tính
toán kỹ thuật phức tạp hoặc phải qua đánh giá hoàn toàn chủ quan về phương diện thẩm mỹ
mà bản thiết kế yêu cầu. Quá trình phân tích là để đạt được những cải thiện trong những chỉ
tiêu cụ thể và như đã nói ở trên, đây là một quá trình lặp. Cứ mỗi lần lặp, chỉ tiêu được cải
thiện thêm một ít đồng thời cũng tiêu hao thêm một lượng lao động tương ứng. Nếu không
có sự tham gia của máy tính thì sự tiêu hao này sẽ có thể là rất lớn để hoàn thiện một đồ án
thiết kế. Vì vậy dưới dây chúng ta sẽ xem xét vấn đề ứng dụng máy tính vào công tác thiết
kế như thế nào.
4.3. ỨNG DỤNG MÁY TÍNH VÀO CÔNG TÁC THIẾT KẾ.
Các nhiệm vụ liên quan đến thiết kế mà một hệ CAD hiện đại thực hiện có thể chia
ra làm 4 lĩnh vực sau:
• Mô hình hoá hình học.
Phát hiện nhu cầu
Xác định vấn đề
Tổng hợp
Phân tích
và tối ưu hoá
Đánh giá
Thể hiện
C4 CAD- CAM> CO SO CAD 5 GVC NGUYỄN THẾ TRANH
• Phân tích kỹ thuật.
• Rà soát và đánh giá thiết kế.
• Vẽ tự động.
4.3.1. Mô hình hoá hình học.
Trong CAD, mô hình hoá hình học tương ứng với giai đoạn tổng hợp, đòi hỏi mô tả
hình dáng hình học của một đối tượng dưới dạng toán học theo cách máy tính có thể xử lý
được. Mô hình toán học cho phép hình ảnh của đối tượng có thể hiển thị và thao tác trên
màn hình máy tính thông qua tín hiệu lấy từ CPU của hệ CAD. Phần mềm đồ hoạ phải được
thiết kế sao cho thuận tiện và có hiệu quả với máy tính và cả người sử dụng.
Quá trình thiết kế Thiết kế có hỗ trợ của CAD
Hình 4.2. Ứng dụng máy tính vào quá trình thiết kế
Trong lĩnh vực mô hình hoá hình học, người thiết kế xây dựng những hình ảnh của
đối tượng trên màn hình máy tính bằng 3 loại lệnh:
- Loại lệnh tạo nên những yếu tố hình học cơ bản như điểm, đường thẳng, vòng
tròn...
- Loại lệnh thực hiện các phép biến đổi như dịch chuyển, thu nhỏ, phóng to, quay...
- Loại lệnh làm cho các yếu tố hình học liên kết lại thành một hình dạng mong
muốn.
Trong quá trình này, máy tính chuyển đổi các lệnh thành hững mô hình toán học
tương ứng rồi lưu trữ mô hình toán đó vào các tệp dữ liệu của máy tính và hiển thị nó thành
một hình ảnh trên màn hình CRT. Mô hình toán nói trên cuối cùng có thể gọi ra từ các tệp
dữ liệu để xem xét lại, phân tích hoặc sửa đổi.
Có các phương pháp khác để biểu diễn đối tượng thành mô hình hình học:
Phát hiện nhu cầu
Xác định vấn đề
Tổng hợp
Phân tích
và tối ưu hoá
Đánh giá
Thể hiện
Mô hình hoá
hình học
Phân tích
kỹ thuật
Rà soát và
đánh giá
Vẽ tự động
C4 CAD- CAM> CO SO CAD 6 GVC NGUYỄN THẾ TRANH
1. Mô hình khung dây. Đây là dạng cơ bản để thể hiện đối tượng tức là vật thể. Theo
phương pháp thể hiện này, vật thể được hiển thị lên màn hình thành những nét liền liên kết
với nhau. Mô hình khung dây được chia ra thành 3 loại tuỳ theo khả năng của hệ ICG:
a. 2D hay đồ hoạ 2 chiều dùng cho đối tượng 2 chiều.
b. 21/2 D để thể hiện những đối tượng 3 chiều đơn giản như trụ, lập phương.
c. 3D hay đồ hoạ 3 chiều thể hiện những đối tượng 3 chiều phức tạp.
Để tăng khả năng thể hiện một đối tượng phức tạp, mô hình khung dây được mở rộng
ra thành loại có nét khuất và loại không có nét khuất. Ngoài ra, mô hình khung dây còn có
một biến thể nửa cho phép thể hiện bề mặt theo cáh làm cho người quan sát có cảm nhận là
vật thể đặc. Tuy vậy vật thể vẫn được lưu trữ trong máy tính dưới dạng mô hình khung dây.
2. Mô hình đặc là cách thể hiện tốt nhất vật thể 3 chiều. Phương pháp này sử dụng
những hình dáng hình học đặc gọi là các nguyên thể để dựng nên đối tượng.
3. Đồ hoạ màu là khả năng thú vị mà ngày nay hệ CAD nào cũng có. Nhờ có màu
mà hình ảnh được hiển thị lên màn hình mang nhiều nội dung thông tin hơn, nó giúp cho
các chi tiết trong một bản vẽ lắp trở nên dễ phân biệt, làm nổi bật những kích thước quan
trọng hoặc những bộ phận chủ chốt và nhiều lợi ích khác nữa.
4.3.2. Phân tích kỹ thuật.
Khi triển khai một đồ án thiết kế kỹ thuật thường cần đến một sự phân tích nào đó
tuỳ theo loại công trình như về ứng suất, biến dạng, truyền nhiệt hoặc mô tả sự ứng xử động
học của hệ thống. Máy tính chó thể giúp thực hiện các nhiệm vụ này một cách nhanh chóng
và có hiệu quả.
Đối với những bài toán thiết kế cụ thể, nhóm phân tích kỹ thuật có thể tự viết lấy
phần mềm chuyên biệt để sử dụng trong nội bộ,còn đối với những bài toán có tính chất phổ
thông thì thường được giải quyết bởi các gói phần mềm mua ở thị trường.
Các hệ CAD/CAM phổ biến thường bao gồm các phần mềm phân tích kỹ thuật hoặc
có thể giao diện với các phần mềm này.
• Phân tích thuộc tính khối lượng: diện tích bề mặt, trong lượng, thể tích, trọng
tâm, mômen quán tính,v.v.. Đối với một mặt phẳng hoặc tiết diện ngang của một
vật thể nó còn cho ta biết cả chu vi, diện tích và ác thuộc tính quán tính nữa.
• Phân tích phần tử hữu hạn: là một trong những khả năng mạnh nhất của một hệ
CAD. Với kỹ thuật này vật thể được chia thành nhiều phần tử với số lượng hữu
hạn tuỳ ý. Mỗi phần tử là một ô chữ nhật hay tam giác, tất cả tạo nên một mạng
lưới gồm các nút. Nhiều hệ CAD có khả năng tự động phân chia các nút và xác
định cấu trúc mạng lưới của toàn vật thể, người sử dụng chỉ cần đưa ra một số
thông số cần thiết cho mô hình phần tử hữu hạn rồi hệ CAD sẽ làm các công việc
tính toán tiếp theo.
Đầu ra của bài toán phân tích phần tử hữu hạn thường được thể hiện dưới dạng đồ
hoạ lên màn hình CRT để người sử dụng dễ quan sát.
4.3.3. Rà soát và đánh giá thiết kế.
1. Rà soát là công việc được tiến hành sau khi thiết lập xong bản vẽ nhằm kiểm tra
độ chuẩn xác thiết kế và sự đúng đắn của việc lựa chọn kết cấu, mối ghép,v.v...
C4 CAD- CAM> CO SO CAD 7 GVC NGUYỄN THẾ TRANH
Việc kiểm tra độ chuẩn xác thiết kế nếu được thực hiện trên màn hình đồ hoạ thì rất
thuận tiện và có hiệu quả. Các khả năng của phần mềm về tự động ghi kích thước và cho
dung sai ở những nơi người thiết kế yêu cầu khiến cho những sai sót trong việc ghi kích
thước lên bản vẽ được giảm đi rất nhiều. Người thiết kế cũng có thể thu nhỏ hay phóng to
một chi tiết nào đó để xem xét cận cảnh.
2. Đánh giá nhằm xem xét sản phẩm nếu được chế tạo theo bản thiết kế thì có đạt
được các chỉ tiêu về động học, thao tác vận hành v.v...như ban đầu đề ra không. Nét đặc
trưng của các hệ CAD hiện đại là khả năng đánh giá động học, là khả năng hoạt hoá chuyển
động của các cơ cấu trong bản thiết kế như khớp treo, các khâu truyền động, đồng thời giúp
người thiết kế kiểm tra độ lấn của các phần tử khi chuyển động để khắc phục.
4.3.4. Vẽ tự động.
Vẽ tự động là dùng máy vẽ để tạo ra bản vẽ kỹ thuật trên giấy, trực tiếp từ cơ sở dữ
liệu của hệ CAD. Khi giá thành của một hệ CAD còn khá cao thì việc một phòng thiết kế có
vẽ tự động là còn phải cân nhắc, nhưng khi giá thành đó hạ xuống thi việc vẽ tự động ngày
càng trở nên phổ biến ở các cơ sở thiết kế.
Một hệ CAD thường cho phép tăng năng suất trong khâu xuất bản vẽ lên gấp năm
đến mười lần so với vẽ thủ công. Hơn thế nữa, nó còn có nhiều ưu điểm về xử lý đồ hoạ như
tự động ghi kích thước và mặt cắt, thu phóng bản vẽ, đặc tả từng phần hình vẽ hoặc quay vật
thể theo một góc tự chọn. Nó còn cho phép chuyển đổi hình chiếu, chẳng hạn từ chiếu song
song sang chiếu phối cảnh.
Trong phép chiếu trực giao, hầu hết các hệ CAD đều có khả năng tạo ra sáu hình
chiếu tương ứng với sáu mặt phẳng chiếu nếu thấy cần. Ngoài ra các hệ CAD còn cho phép
người thiết kế lập trình bổ sung để đưa các tiêu chuẩn riêng của bản hãng nào đó.
4.3.5. Phân loại và ghi mã các chi tiết máy
Ngoài bốn chức năng nêu trên, hệ CAD còn tạo ra một cơ sở dữ liệu để tiến hành xây
dựng một hệ thống phân loại và ghi mã cho các chi tiết máy hoặc chi tiết kết cấu công trình.
Việc phân loại và ghi mã có liên quan tới việc nhóm các bản thiết kế cuả những chi tiết máy
giống nhau thành từng loại và dùng hệ thống sơ đồ mã để liên kết các đặc điểm tương đồng
lại với nhau. Người thiết kế có thể sử dụng hệ thống phân loại và ghi mã để gọi những bản
thiết kế chi tiết máy hay kết cấu công trình đã có ra sử dụng chứ không phải thường xuyên
thiết kế lại những chi tiết máy mới. Trong giai đoạn chế tạo, những hệ thống như vậy cũng
rất cần thiết và có nhiệu ứng dụng trong công nghệ nhóm, là một công nghệ thuộc lĩnh vực
CAM.
4.4. TẠO RA CƠ SỞ DỮ LIỆU ĐỂ SẢN XUẤT
Một ứng dụng khác nữa của CAD là nó có thể tạo ra một cơ sở dữ liệu để chế tạo ra
sản phẩm. Trong chu trình sản xuất cổ điển tồn tại bấy lâu trong công nghiệp, bản vẽ do kỹ
sư thiết kế vẽ ra được kỹ sư công nghệ sử dụng lại để lập ra một bản quy trình công nghệ
chế tạo. Các hoạt động thiết kế hoàn toàn tách biệt với các hoạt động lập quy trình công
nghệ và như vậy, trên thực tế đã tồn tại một quy trình hai giai đoạn riêng biệt. Điều đó làm
tăng gấp đôi chi phí thời gian và đầu tư nhân lực.
C4 CAD- CAM> CO SO CAD 8 GVC NGUYỄN THẾ TRANH
Ngày nay với hệ tích hợp CAD/CAM, một mối liên kết trực tiếp giữa hai lĩnh vực
thiết kế và chế tạo đã được thiết lập. Mục tiêu của CAD/CAM không dừng lại ở chỗ tự động
hoá một số khâu nào đó trong lĩnh vực chế tạo mà còn nhằm tự động hoá việc chuyển đổi từ
lĩnh vực thiết kế vào lĩnh vực chế tạo. Hiện người ta đã triển khai những hệ thiết kế - chế tạo
lấy máy tính làm nền tảng để tạo ra hầu hết dữ liệu và hồ sơ tư liệu phục vụ cho việc lập kế
hoạch và điều khiển các hoạt động sản xuất ra sản phẩm.
Cơ sở dữ liệu chế tạo là một cơ sở dữ liệu tích hợp CAD/CAM. Nó bao gồm tất cả
những dữ liệu về sản phẩm có được qua giai đoạn thiết kế (số liệu về hình học, liệt kê chi
tiết, dự trù vật liệu, thuyết minh kỹ thuật, v.v...) cúng những dữ liệu bổ sung cần cho giai
đoạn chế tạo mà đa số là dựa vào bản thiết kế.
CAD CAM
4.5 LỢI ÍCH CỦA CAD
Lợi ích của CAD có nhiều, song chỉ có một số trong đó là có thể định lượng được
thôi. Một số lợi ích khác khó có thể lượng hoá được mà chỉ thể hiện ở chỗ chất lượng công
việc được nâng cao, th