Bài giảng Dịch tễ học bệnh truyền nhiễm

Dịch tễ học (hay dịch học) là môn nghiên cứu đa chiều, một mặt, quan sát tần độ xuất hiện bệnh trong tập đoàn và sự biến động của tần độ đó theo thời gian, nghiên cứu các nhân tố chi phối tần độ và biến động đó, làm rõ các đặc tính của bệnh đó trong tập đoàn và đề ra những phương pháp chế ngự bệnh dịch hiệu quả, mặt khác, nghiên cứu các tình huống có thể chi phối sự xuất hiện một hiện tượng bệnh lý hay hội chứng nào đó nhằm tìm ra mối quan hệ nhân quả và cuối cùng là tìm ra nguyên nhân chính yếu quyết định hiện tượng bệnh lý đó.

pdf24 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 4618 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Dịch tễ học bệnh truyền nhiễm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 2 DỊCH TỄ HỌC BỆNH TRUYỀN NHIỄM Dịch tễ học (hay dịch học) là môn nghiên cứu đa chiều, một mặt, quan sát tần độ xuất hiện bệnh trong tập đoàn và sự biến động của tần độ đó theo thời gian, nghiên cứu các nhân tố chi phối tần độ và biến động đó, làm rõ các đặc tính của bệnh đó trong tập đoàn và đề ra những phương pháp chế ngự bệnh dịch hiệu quả, mặt khác, nghiên cứu các tình huống có thể chi phối sự xuất hiện một hiện tượng bệnh lý hay hội chứng nào đó nhằm tìm ra mối quan hệ nhân quả và cuối cùng là tìm ra nguyên nhân chính yếu quyết định hiện tượng bệnh lý đó. Như vậy, hiện nay dịch tễ học không chỉ giới hạn trong việc nghiên cứu các bệnh truyền nhiễm mà còn nghiên cứu các hiện tượng liên quan vệ sinh gây tổn hại cho động vật và người trong tập đoàn, chẳng hạn hiện tượng ngộ độc mãn tính đồng loạt hoặc rối loạn sinh sản đồng loạt trong đàn động vật hoặc tập đoàn người (do nhiễm yếu tố nào đó, chẳng hạn mối quan hệ giữa dị tật bẩm sinh và chất độc da cam hay chất phóng xạ). Tuy nhiên, chương trình này tập trung nghiên cứu các hiện tượng dịch tễ học của các bệnh truyền nhiễm. I. Khái quát về các nguyên nhân bệnh Các nhân tố chi phối sự phát sinh và tiến hóa của bệnh truyền nhiễm và bệnh lý bệnh truyền nhiễm là đa dạng nhưng có thể phân thành ba nhóm lớn: nguyên nhân mầm bệnh, nguyên nhân ký chủ và nguyên nhân môi trường. Các nhân tố tác động tương hỗ hoặc quan hệ lẫn nhau gây phát sinh bệnh tật. 1. Nguyên nhân mầm bệnh Những điều kiện và đặc tính có ở các vi sinh vật gây bệnh, bao gồm vi khuẩn, virut, nấm (tức chân khuẩn) và nguyên trùng, còn gọi là các mầm bệnh, bệnh nguyên hay căn bệnh, trong trường hợp bệnh cảm nhiễm là độc lực, tính hướng tổ chức, tính đề kháng với các nhân tố môi trường và tính biến dị,... là những nguyên nhân mầm bệnh. Bên cạnh đó, các động vật mang bệnh, vật mang mầm bệnh, trạng thái mang mầm bệnh và bài xuất mầm bệnh cũng là những vấn đề cần nghiên cứu. 2. Nguyên nhân ký chủ Điều kiện để ký chủ tiếp nhận sự ký sinh của mầm bệnh, các yếu tố ảnh hưởng đến tính cảm thụ hay tính đề kháng, những thuộc tính di truyền như phẩm giống, vị trí phân loại, tố chất (thể trạng), tuổi, tính biệt, trạng thái dinh dưỡng và trạng thái miễn dịch,... là những nguyên nhân ký chủ. Tính di truyền biểu hiện rõ trong trường hợp, chẳng hạn, bò không mắc bệnh tỵ thư của ngựa,... 3. Nguyên nhân môi trường Các nhân tố vật lý như khí tượng, nước, thức ăn,... là các điều kiện vây quanh ký chủ, cũng như các nhân tố xã hội như phương pháp quản lý nuôi dưỡng, hình thái kinh doanh, trạng thái kinh tế, tập quán,... là những nguyên nhân môi trường của bệnh dịch. 4. Ba nhân tố thiết yếu hình thành dịch bệnh truyền nhiễm Mối quan hệ qua lại của ba nhân tố căn bệnh, ký chủ và môi trường chi phối sự hình thành bệnh tật có thể áp dụng chung cho tất cả các loại bệnh truyền nhiễm và không truyền nhiễm. Tuy nhiên, đối với các bệnh truyền nhiễm (tức các bệnh cảm nhiễm có tính lây lan) thì từ lâu các yếu tố thành lập là nguồn bệnh (hay nguồn mầm bệnh cảm nhiễm), đường cảm nhiễm (đường truyền lây) và động vật cảm thụ là ba nhân tố đều được chú trọng. Điều này có nghĩa là nếu thiếu một trong ba khâu trên thì truyền nhiễm (tức truyền bá cảm nhiễm) sẽ không xuất hiện. Đây là các nhân tố cần được tính đến trong quá trình thực thi công tác phòng dịch. Quá trình phát sinh dịch là quá trình bệnh truyền nhiễm lây liên tục từ con vật bệnh sang con vật khỏe. Con vật bệnh luôn bài xuất mầm bệnh ra ngoài suốt cả thời gian mắc bệnh. Mầm bệnh được truyền thẳng sang con vật khỏe hoặc được bài ra ngoại cảnh rồi xâm nhập vào con vật khỏe. Con vật bệnh được coi là nguồn bệnh (nguồn mầm bệnh cảm nhiễm). Ngoại cảnh - nơi mầm bệnh tạm thời tồn tại - bao gồm rất nhiều nhân tố có tác dụng làm trung gian truyền mầm bệnh, gọi là nhân tố trung gian truyền bệnh. Con vật khỏe phải là con vật cảm thụ đối với mầm bệnh thì quá trình sinh dịch mới xảy ra. Một vụ dịch muốn phát sinh phải có đủ ba yếu tố: nguồn bệnh, các nhân tố trung gian truyền bệnh và động vật cảm thụ, chúng là ba khâu của dây chuyền quá trình phát sinh dịch. Thực hiện quá trình phát sinh dịch có ý nghĩa lớn đối với mầm bệnh. Do bản chất ký sinh, mầm bệnh đòi hỏi luôn phát triển trên cơ thể sống. Quá trình tiến hóa của mầm bệnh đã tạo ra cho nó một phương thức tồn tại thích hợp là thực hiện quá trình phát sinh dịch. Trên cơ sở đó, muốn tiêu diệt được bệnh truyền nhiễm ta phải nắm được các quy luật của quá trình ấy để ngăn chặn dịch. 5. Cảm nhiễm và phát bệnh: vai trò dịch tễ học của cảm nhiễm ẩn tính Động vật đã cảm nhiễm mầm bệnh có phát bệnh hay không phát bệnh phụ thuộc vào sự cân bằng giữa tính gây bệnh của mầm bệnh và tính đề kháng của ký chủ và tác động ảnh hưởng đối với sự cân bằng đó từ phía các nhân tố ngoại cảnh. Tổn hại có thể chỉ trong trường hợp phát bệnh do cảm nhiễm hiển tính (apparent infection), nhưng cảm nhiễm ẩn tính (inapparent infection) không phát bệnh cũng có ý nghĩa quan trọng trong dịch học. Các cá thể động vật bị cảm nhiễm ẩn tính trong nhiều trường hợp có thể là vật mang trùng và bài xuất mầm bệnh. Ngược lại, do kích thích cơ thể động vật sản sinh miễn dịch sau đó, cảm nhiễm ẩn tính làm tăng tính đề kháng tập đoàn nên đóng vai trò trong quá trình làm ngừng dịch. II. Nguồn bệnh Vật bảo lưu mầm bệnh và là ngọn nguồn của sự tán phát, truyền bá mầm bệnh gọi là nguồn bệnh (nguồn mầm bệnh cảm nhiễm, hay nguồn cảm nhiễm - source of infection). Nguồn bệnh như vậy có thể là động vật bị mắc bệnh, động vật mang mầm bệnh nhưng không mắc bệnh (vật mang trùng) và thổ nhưỡng,... Suy rộng hơn, cũng có trường hợp nguồn bệnh là những vật thể bị ô nhiễm hay vật môi giới lan truyền đóng vai trò của đường truyền lây mầm bệnh. Tuy vậy, khái niệm nguồn bệnh thường được giới hạn ở những động vật duy trì thuộc tính ký sinh (tính gây bệnh) của mầm bệnh. Nguồn bệnh là khâu đầu tiên và là khâu chủ yếu của quá trình sinh dịch, nguồn bệnh là nơi mầm bệnh cư trú và sản sinh thuận lợi, và từ đó trong những điều kiện nhất định sẽ xâm nhập vào cơ thể bằng cách này hay cách khác để gây bệnh. Nguồn bệnh phải là nơi tạo điều kiện cho mầm bệnh tồn tại và duy trì những thuộc tính của nó qua các thế hệ. Mặc dù trực khuẩn nhiệt thán (Bacillus anthracis) có thể phát triển trong những điều kiện có thể gặp ở những bãi chăn ở những vùng đất kiềm nhẹ, mưa nhiều, nóng ẩm, hoặc tương tự, vi khuẩn Listeria, Erysipelothrix cũng có thể phát triển trong đất, trong nước,... nhưng các yếu tố thổ nhưỡng (đất, nước,...) thường không được coi là những nguồn bệnh. Tuy cần lưu ý về khả năng tồn tại lâu dài của một số loại mầm bệnh riêng biệt nhưng quan điểm chung của dịch tễ học là không coi bất cứ nhân tố ngoại cảnh nào cũng là nguồn bệnh, vì tuy ở đó có chứa mầm bệnh, thậm chí có mầm bệnh tồn tại khá lâu, nhưng không có điều kiện để chúng tồn tại lâu dài với những thuộc tính ký sinh của chúng. Nước, đất,... chỉ được coi là môi trường chứa mầm bệnh tạm thời, là các nhân tố trung gian mang mầm bệnh tạm thời. Nhiều loại mầm bệnh có thể sống rất lâu trong đất, nước,... nhưng nguồn bệnh chính vẫn là súc vật bị cảm nhiễm, vì có chúng thì đất và nước mới có mầm bệnh và mầm bệnh mới tồn tại mãi mãi trong thiên nhiên với những đặc tính gây bệnh của chúng đối với ký chủ. Nguồn bệnh phải là một sinh vật đang mắc bệnh hoặc đang mang mầm bệnh vì cơ thể sinh vật ký chủ là điều kiện tự nhiên duy nhất cho mầm bệnh sinh sống và phát triển tương đối thuận lợi và lâu dài. Nguồn bệnh có thể chia thành hai loại: động vật (đang mắc) bệnh và động vật mang trùng. Động vật (đang mắc) bệnh gồm có gia súc, gia cầm và dã thú phát bệnh ở các thể khác nhau, tức đang biểu hiện các triệu chứng đặc trưng của bệnh. Gia súc, gia cầm đang mắc bệnh là nguồn bệnh nguy hiểm vì trong khi mắc bệnh cơ thể chứa lượng mầm bệnh và độc tố cao nhất và có thể bài xuất ra ngoài bằng nhiều đường, độc lực của mầm bệnh thường tăng khi trải qua cơ thể thụ cảm và phát bệnh. Một số triệu chứng của bệnh như đi tháo, ho, hắt hơi,... có tác dụng gieo rắc mầm bệnh ra ngoài môi trường. Trong nhiều bệnh, con vật bệnh ở thời kỳ nung bệnh là nguồn bệnh nguy hiểm nhất (lở mồm long móng, dịch tả lợn, viêm phổi truyền nhiễm, dại,...) vì con vật bệnh đã mang và bài xuất mầm bệnh ra ngoài một thời gian trước khi xuất hiện triệu chứng lâm sàng đầu tiên. Người mắc bệnh trong nhiều trường hợp cũng là nguồn bệnh động vật. Dã thú gậm nhấm cũng là nguồn bệnh rất nguy hiểm đối với gia súc, vì chúng là những nguồn (ổ chứa) di động và khó kiểm soát của nhiều vi sinh vật trong thiên nhiên trong đó có rất nhiều vi sinh vật là nguyên nhân của bệnh truyền nhiễm. Về mặt dịch tễ học, những con vật mắc bệnh nhẹ nguy hiểm hơn những con vật mắc bệnh nặng vì chúng thường khó được phát hiện, dễ bị bỏ qua hoặc coi thường, lại có khả năng đi lại tiếp súc với con khỏe nên làm bệnh dễ lây lan. 1. Các con đường bài xuất mầm bệnh Mầm bệnh có thể bài xuất từ bề mặt cơ thể, các lỗ tự nhiên hoặc chỗ tổn thương của động vật mắc bệnh một cách trực tiếp từ nơi ổ bệnh (bệnh sào, ổ cảm nhiễm) hoặc cùng với chất tiết xuất hoặc chất bài tiết. Con đường bài xuất mầm bệnh có tính đặc trưng đối với các loại bệnh cảm nhiễm khác nhau và là yếu tố trọng yếu trong quá trình nhận biết đặc tính của các dạng lan truyền của bệnh cảm nhiễm. Ở các bệnh cảm nhiễm đường hô hấp, mầm bệnh thường được bài xuất ra ngoài cơ thể vật bệnh ở dạng những giọt nhỏ và khí dung chứa dịch bài xuất từ xoang miệng hoặc đường hô hấp như dịch nước bọt, dịch mũi, dịch hắt hơi,... Ở các mầm bệnh cảm nhiễm đường tiêu hóa mầm bệnh chủ yếu bài xuất theo phân ra ngoài. Ở các mầm bệnh cảm nhiễm toàn thân mầm bệnh bài xuất theo nhiều loại dịch tiết xuất khác nhau: nước tiểu, phân, dịch mũi, nước bọt, sữa,... Con đường bài xuất mầm bệnh có thể nhiều loại, và một bệnh cảm nhiễm có đường bài xuất mầm bệnh khác nhau phụ thuộc vào thể bệnh. 2. Vật mang trùng Vật mang trùng gồm có gia súc, gia cầm, dã thú, động vật chân đốt và người mà nhìn ngoài thấy khỏe mạnh nhưng bên trong cơ thể có chứa mầm bệnh đang phát triển và bài xuất mầm bệnh đó ở mức độ này hay mức độ khác. Hiện tượng mang trùng rất nguy hiểm về mặt dịch học. Súc vật mang trùng làm lây lan bệnh lớn hơn cả súc vật bệnh. Trong một số bệnh truyền nhiễm, súc vật mang trùng có tác dụng quyết định trong việc làm phát sinh dịch. Có thể có vật mang trùng kỳ nung bệnh, vật mang trùng kỳ hồi phục (kỳ lành bệnh) và vật mang trùng khỏe mạnh. 2.1. Vật mang trùng kỳ nung bệnh Vật mang trùng kỳ nung bệnh là những con vật bài xuất mầm bệnh trước khi xuất hiện triệu chứng bệnh. Ở bệnh lở mồm long móng và bệnh mụn nước trước khi xuất hiện bệnh 1 - 3 ngày trong niêm dịch hầu họng và sữa đã thấy xuất hiện mầm bệnh. Ở bệnh dịch tả lợn trước khi phát bệnh trong nước tiểu đã thấy lượng lớn virut bài xuất và trở thành nguồn bệnh nguy hiểm. 2.2. Vật mang trùng kỳ hồi phục Vật mang trùng kỳ hồi phục là những con vật bài xuất mầm bệnh sau khi các triệu chứng chủ yếu của bệnh đã hết và trở thành nguồn bệnh cảm nhiễm. Động vật khỏi bệnh leptô, chẳng hạn, vẫn tiếp tục bài xuất mầm bệnh (các xoắn khuẩn) trong nước tiểu một số tuần đến một số tháng. Ở bệnh viêm dạ dày - ruột truyền nhiễm lợn (TGE) virut tiếp tục bài xuất trong phân lợn con trong một số ngày đến một số tuần. Vật mang trùng kỳ hồi phục xuất hiện nhiều hay ít ở hầu hết các bệnh cảm nhiễm nhưng tần độ xuất hiện hiện tượng mang trùng kỳ hồi phục tùy thuộc loại bệnh. Hiện tượng mang trùng có thể có ở gia súc, gia cầm sau khi mắc bệnh có miễn dịch (ví dụ bệnh lao) hoặc không có miễn dịch (bệnh leptô). 2.3. Vật mang trùng khỏe mạnh Vật mang trùng khỏe mạnh là những động vật cảm nhiễm ẩn tính, không biểu hiện triệu chứng bệnh nhưng bài xuất mầm bệnh ra môi trường (bệnh đóng dấu lợn, tụ huyết trùng, phó thương hàn,...). Côn trùng, ve bét,... cũng được coi là nguồn bệnh hay vật mang trùng khi chúng có khả năng truyền mầm bệnh từ đời này sang đời khác. Các con vật mắc bệnh là nguồn bệnh nguy hiểm bài xuất lượng lớn mầm bệnh nhưng dễ phát hiện hơn vật mang trùng nên có thể xử lý kịp thời và thuận tiện hơn bằng giết hủy hoặc cách ly,... Còn các vật mang trùng do khó phát hiện và cũng di động như các động vật khỏe nên chúng là những nguồn bệnh nguy hiểm hơn vật mắc bệnh. 3. Cảm nhiễm ẩn tính và tái phát Ở bệnh giả dại ở lợn và bệnh viêm mũi khí quản truyền nhiễm bò có điểm chung là cùng cảm nhiễm herpesvirut, sau khi lành bệnh, virut tiềm phục trong tế bào thần kinh. Trong tế bào bị cảm nhiễm có thể phát hiện ADN virut nhưng cũng có trường hợp không tìm thấy các virion virut có tính gây nhiễm. Trạng thái ẩn này kéo dài suốt đời con vật, nhưng trong thời gian đó cũng có khi virut hoạt hóa một cách gián đoạn gây tái phát bệnh. Tái phát các bệnh này thường do cảm ứng bởi các yếu tố stress như lạnh, vận chuyển, mang thai,... Trong thời kỳ tái phát, động vật trở thành nguồn bệnh. 4. Vai trò của thổ nhưỡng Đất đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì mầm bệnh trong tự nhiên. Nếu cảm nhiễm các nha bào có trong đất của các vi khuẩn nhiệt thán, uốn ván, thủy thũng ác tính, ung khí thán,... động vật sẽ phát bệnh nên các bệnh này thường được gọi là các bệnh thổ nhưỡng. Cùng với cái chết của động vật bệnh, vi khuẩn hình thành nha bào trong cơ thể. Các vi khuẩn bệnh nguyên bệnh ung khí thán, thủy thũng ác tính là những vi khuẩn tồn tại trong đường tiêu hóa của động vật khỏe mạnh như những vi sinh vật thường trú (khu hệ vi sinh vật "bình thường") bài xuất theo phân ra ngoài gây ô nhiễm đất. Nha bào đề kháng cao với các yếu tố ngoại cảnh và tồn tại rất lâu dài ở trong đất. Ở trong môi trường đó các vi khuẩn này có phát triển hay không thì còn chưa biết, nhưng gần đây người ta thấy rằng nếu gặp điều kiện thổ nhưỡng nhất định vi khuẩn nhiệt thán có thể phát triển và là nguyên nhân lưu hành mạnh của bệnh này. Điều kiện môi trường thích hợp đó là tính kiềm yếu, nhiệt độ cao (gần 37 °C), ẩm độ cao (gần 100%) và sẵn các chất dinh dưỡng hữu cơ. Những bãi chăn thả có đất kiềm nhẹ vào mùa mưa có nhiệt độ cao thường có thể thỏa mãn điều kiện nêu trên và trở thành vùng ủ mầm bệnh (incubator area) nguy hiểm, là nơi bệnh phát thường xuyên. 5. Ổ bệnh (ổ cảm nhiễm) Ổ bệnh (ổ cảm nhiễm, hay bệnh sào) là vị trí trong cơ thể ký chủ bị cảm nhiễm mà mầm bệnh tập trung và gây những biến đổi bệnh lý đặc trưng của bệnh. Theo định đề của Koch, mầm bệnh phải phân lập được từ ổ bệnh. Vị trí hay chủng loại cơ quan tổ chức ổ bệnh chủ yếu phụ thuộc vào tính hướng của mầm bệnh. Nhiều mầm bệnh hình thành ổ bệnh nguyên phát và thứ phát khác nhau. Ví dụ, vi khuẩn bệnh giang mai ở người (Treponema pallidum) khởi đầu gây ổ bệnh ở cơ quan sinh dục nhưng sau một thời gian phát bệnh (kỳ thứ ba của bệnh giang mai) ổ bệnh thường ở các nội quan khác nhau. Tương tự, bệnh viêm phổi do phế cầu khuẩn (Streptococcus pneumoniae) ở người ban đầu có ổ bệnh là phổi nhưng sau đó ổ bệnh có thể nội tâm mạc và ổ khớp,... Nếu ổ bệnh hở (không nằm sâu trong cơ thể và/hoặc thông với cơ quan hình ống) từ nguồn bệnh mầm bệnh dễ dàng bài xuất ra ngoài dẫn đến lây lan nhanh chóng bệnh cảm nhiễm. Ngược lại, nếu ổ bệnh kín, như trong bệnh lao xương chẳng hạn, khả năng lây lan mầm bệnh từ nguồn bệnh thường hạn chế. III. Ảnh hưởng của ngoại cảnh đến sự lan truyền vi sinh vật ngoài cơ thể Vi sinh vật mầm bệnh có tính phụ thuộc ký chủ cao, quá trình tồn tại ngoài cơ thể ký chủ là không thích hợp với chúng, trừ trường hợp nha bào. Các virut, Rickettsia và Chlamydia không thể sinh sản ngoài cơ thể sống. Sự phát triển của nhiều vi khuẩn gây bệnh cũng vậy, tương tự trường hợp vi khuẩn nhiệt thán chỉ có thể diễn ra trong điều kiện môi trường đặc thù đảm bảo các điều kiện cần thiết. Tuy nhiên, là những nguồn dinh dưỡng phong phú các loại thực phẩm là môi trường tương đối thuận lợi đối với sự phát triển của vi khuẩn, nếu nhiệt độ và các điều kiện khác thích hợp cho phép vi khuẩn phát triển, thì thực phẩm trở thành nguyên nhân trúng độc (ngộ độc) thực phẩm. Đối với sự tồn tại của mầm bệnh ngoài môi trường thì nhiệt độ thấp thường có lợi hơn nhiệt độ cao. Trong điều kiện ẩm độ khác nhau thì sự sinh tồn của các vi sinh vật mầm bệnh là khác nhau phụ thuộc vào chủng loại của chúng. Nhìn chung, các virut không có áo ngoài tồn tại tốt hơn ở nhiệt độ cao, còn các virut có áo ngoài và các vi khuẩn tồn tại thích hợp hơn ở điều kiện nhiệt độ thấp. Trường hợp trúng độc thực phẩm thì mối quan hệ với nhiệt độ môi trường là khá rõ nhưng đối với các mầm bệnh gây bệnh hô hấp phát sinh nhiều vào mùa đông thì có mối quan hệ giữa nhiệt độ môi trường với sự tồn tại của mầm bệnh ngoài cơ thể hay không thì còn chưa rõ. IV. Đường truyền lây và hình thức truyền lây Nhân tố trung gian truyền bệnh là khâu thứ hai của quá trình phát sinh dịch, có vai trò chuyển mầm bệnh từ nguồn bệnh tới động vật thụ cảm. Cách thức mầm bệnh cảm nhiễm truyền lan từ động vật này sang động vật khác gọi là đường truyền lây hay hình thức truyền lây. Có thể có các hình thức truyền lây sau: nhờ tiếp xúc, qua không khí, qua thức ăn nước uống và nhờ động vật môi giới (qua vector truyền lây). Muốn lây truyền từ cơ thể bệnh sang cơ thể khỏe, trong nhiều trường hợp mầm bệnh thường phải sống một thời gian nhất định ở ngoại cảnh trên các nhân tố trung gian. Thời gian đó dài hay ngắn phụ thuộc vào loài mầm bệnh, loại nhân tố trung gian truyền bệnh, điều kiện thời tiết khí hậu,... Nói chung, mầm bệnh không sinh sản và phát triển ở đó, và sau một thời gian nhất định sẽ bị tiêu diệt. Lây truyền mầm bệnh có thể trực tiếp hoặc gián tiếp. Lây truyền gián tiếp là con đường lây truyền phổ biến và thông qua ngoại vật bị ô nhiễm mầm bệnh. Mầm bệnh không chỉ truyền lan từ vật bệnh đến những con vật gần mà trong nhiều trường hợp thông qua thức ăn, phương tiện vận tải, dụng cụ chăm sóc nuôi dưỡng, và nhiều khi qua con người nữa. Các phương tiện và dụng cụ không được tiêu độc thích hợp rất dễ làm lây lan mầm bệnh đến quần thể lớn động vật. Có rất nhiều loại nhân tố trung gian truyền bệnh: nước, đất, không khí, thức ăn, dụng cụ, sản phẩm gia súc, người và động vật khác, và đặc biệt là các động vật chân đốt (côn trùng, ve bét,...). 1. Truyền lây nhờ tiếp xúc Có thể phân biệt truyền lây tiếp xúc trực tiếp và truyền lây tiếp xúc gián tiếp. Bệnh truyền nhiễm có thể lây trực tiếp từ động vật bệnh sang động vật khỏe do chúng tiếp xúc với nhau khi cọ xát khi giao phối, khi bú, liếm, cắn hoặc cào. Lây truyền mầm bệnh viêm hạch truyền nhiễm ngựa có thể do cọ xát giữa vật bệnh và vật khỏe. Cảm nhiễm đường sinh dục bởi virut viêm mũi khí quản truyền nhiễm bò ở bò, bệnh do Campylobacter ở bò và bệnh ban giao cấu ngựa (equine coital exanthyma, do herpesvirut gây ra) ở ngựa thường do mầm bệnh lây truyền thông qua giao cấu, mầm bệnh brucellosis có thể lây truyền khi bò khỏe liếm vùng đít bò bệnh, bệnh dại lây truyền thường do động vật dại bài xuất virut theo nước bọt và phát triệu chứng thần kinh mà cắn động vật khác,... Ngoài ra dịch ho, hắt hơi do chỉ phát tán gần động vật bệnh nên thường cũng được coi như yếu tố gây lây truyền mầm bệnh trực tiếp. Dụng cụ đồ vật: Tất cả dụng cụ, đồ vật dùng cho động vật trong chăn nuôi, sản xuất,... hoặc tiếp xúc với gia súc, đều có thể truyền mầm bệnh. Mức độ tác hại của dụng cụ, đồ vật phụ thuộc vào thời gian tồn tại của mầm bệnh trên dụng cụ đồ vật đó. Nếu có điều kiện tối, độ ẩm và độ nhiệt thích hợp, thì mầm bệnh tồn tại được lâu. Trên dụng cụ nhẵn nhụi và bằng kim loại mầm bệnh chóng bị tiêu diệt hơn so với dụng cụ bằng gỗ xù xì. Sản phẩm gia súc: Sản phẩm động vật có thể trở thành nguy hiểm đối với người và gia súc. Thịt động vật bệnh có thể là nguyên nhân làm lây lan bệnh. Sữa gia súc bệnh hay sữa gia súc mang