Bài giảng Hôn nhân: Điều kiện kết hôn

Hôn nhân, trong chừng mực nào đó, có thể được định nghĩa như là sự kết hợp giữa hai người, một nam và một nữ, để chung sống, cũng như để dành cho nhau sự giúp đỡ và hỗ trợ cần thiết. Ta nói trong chừng mực nào đó, vì khái niệm này không có được nội dung như trên một cách trọn vẹn trong luật của nhiều nước.

doc18 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 3364 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng Hôn nhân: Điều kiện kết hôn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI THỨ HAI: HÔN NHÂN ******   Khái niệm MỤC I: KẾT HÔN Khái niệm Các điều kiện kết hôn Các điều kiện về nội dung Năng lực kết hôn Sự ưng thuận Những cản trở đối với hôn nhân Các điều kiện về hình thức Thủ tục trước khi kết hôn Lễ kết hôn Kết hôn trái pháp luật Chế tài trong trường hợp kết hôn trái pháp luật: Huỷ kết hôn trái pháp luật Hậu quả đối với hai bên kết hôn trái pháp luật Hậu quả đối với con cái Hậu quả đối với người thứ ba MỤC II: QUAN HỆ CHUNG SỐNG NHƯ VỢ CHỒNG. Quan hệ chung sống như vợ chồng vi phạm các điều kiện về nội dung kết hôn Quan hệ chung sống như vợ chồng không vi phạm các điều kiện về nội dung kết hôn Hôn nhân thực tế Tình trạng chung sống tự do như vợ chồng Chấm dứt quan hệ chung sống như vợ chồng Khái niệm              Hôn nhân, trong chừng mực nào đó, có thể được định nghĩa như là sự kết hợp giữa hai người, một nam và một nữ, để chung sống, cũng như để dành cho nhau sự giúp đỡ và hỗ trợ cần thiết. Ta nói trong chừng mực nào đó, vì khái niệm này không có được nội dung như trên một cách trọn vẹn trong luật của nhiều nước.              Một mặt, ở một số nước, nhất là các nước Hồi giáo, vẫn thừa nhận rằng hôn nhân là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ...., nhưng đồng thời còn cho phép một người đàn ông thực hiện sự kết hợp đó với nhiều người đàn bà cùng một lúc: Ta có chế độ hôn nhân đa thê. Chế độ đa thê cũng có thời kỳ được thừa nhận ở phương Ðông (Việt nam, Trung Quốc,...) nhưng nay đã bị bãi bỏ[1]. Ở một vài bộ tộc sống theo nền nếp hình thành từ thời kỳ sơ khai của nền văn minh, chế độ đa phu được thừa nhận: một người đàn bà có thể chung sống với nhiều người đàn ông cùng một lúc.        Mặt khác, ở một số nước lại xuất hiện xu hướng cho rằng sự khác biệt giới tính không phải là điều kiện bắt buộc của hôn nhân: những người cùng giới tính vẫn có thể chung sống với nhau và tạo thành một gia đình. Các nước Bắc Âu là nơi phát triển mạnh nhất của xu hướng này. Riêng Hà Lan là nước đầu tiên đã thông qua một đạo luật cho phép kết hôn giữa những người có cùng giới tính. Ðối với xã hội phương Ðông, nhất là đối với xã hội Việt Nam, tình yêu giữa những người cùng giới tính được coi là biểu hiện của một tình trạng bệnh tật và hôn nhân giữa những người cùng giới tính là một giao dịch không chỉ nằm ngoài vòng pháp luật mà còn nằm ngoài khuôn khổ đạo đứïc pháp lý.              Về phương diện pháp lý, hôn nhân là một giao dịch đặc biệt trọng thức (acte particulièrement solennel) và phức hợp (complexe). Nó bắt đầu bằng việc kết hôn, diễn ra trong một thời gian gọi là thời kỳ hôn nhân và chấm dứt do một trong hai nguyên nhân - một trong hai bên chết hoặc ly hôn. Có trường hợp một người đàn ông và một người đàn bà chung sống với nhau và cũng xây dựng một hộ về mặt xã hội, nhưng lại không đăng ký kết hôn. Quan hệ chung sống ấy được chi phối bởi các quy tắc riêng.  MỤC I: KẾT HÔN   TOP Khái niệm             Kết hôn, theo định nghĩa chính thức của luật Việt Nam hiện hành, là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Ðiều 8 khoản 2). Ta có mấy nhận xét:             - Kết hôn là một giao dịch có tính pháp lý chứ không phải là một giao dịch có ý nghĩa vật chất hoặc tôn giáo; đó là một giao dịch xác lập trong đời sống dân sự chứ không phải trong đời sống tâm linh và là một giao dịch được xác lập với sự tham gia bắt buộc của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Các điều kiện về nội dung của việc kết hôn phải được cơ quan Nhà nước kiểm tra một cách chặt chẽ;             - Kết hôn là một giao dịch long trọng, tuân theo những quy định nghiêm ngặt về trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Những quy định ấy tạo thành tập hợp các điều kiện về hình thức của việc kết hôn.             Các điều kiện kết hôn, trong khung cảnh của luật thực định Việt Nam, được xếp vào nhóm các quy tắc mang tính mệnh lệnh bắt buộc. Vi phạm các điều kiện ấy, hôn nhân bị coi là trái pháp luật và có thể bị hủy. Quan hệ vợ chồng mà vi phạm các điều kiện ấy không được coi là quan hệ hôn nhân và không thể làm phát sinh các hệ quả pháp lý của quan hệ hôn nhân.     I. Các điều kiện kết hôn   TOP         A. Các điều kiện về nội dung             Ðể có thể kết hôn, người muốn kết hôn phải có năng lực hành vi, phải đạt đến một độ tuổi nhất định và phải chấp nhận kết hôn một cách tự nguyện.   1. Năng lực kết hôn          a. Sự khác biệt về giới tính             Cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính - Việc cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính chỉ được chính thức ghi nhận trong luật viết từ khi có Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 (Ðiều 10 khoản 5). Tuy nhiên, trong tục lệ truyền thống, hôn nhân giữa những người cùng giới tính không bao giờ được thừa nhận ở Việt Nam. Trong điều kiện các luật hôn nhân và gia đình trước đây quy định chưa chặt chẽ ở điểm này, tục lệ thường xuyên can thiệp thông qua dự luận để ngăn chặn các quan hệ như vợ chồng giữa những người cùng giới tính hoặc để  tạo sức ép đối với những người cùng giới tính nhằm chấm dứt việc duy trì quan hệ như vợ chồng giữa họ. Cơ quan hộ tịch, về phần mình luôn từ chối việc đăng ký kết hôn  giữa những người cùng giới tính.               Tuy nhiên,  vấn đề là: làm thế nào để xác định giới tính thực của một người ?                 Bằng chứng về sự khác biệt giới tính - Luật Việt Nam hiện hành cấm việc kết hôn giữa những người cùng giới tính, nhưng lại chưa có quy định rõ ràng về cơ sở pháp lý của việc xác định giới tính của người yêu cầu đăng ký kết hôn. Ðơn giản, theo Nghị định số 83-CP ngày 10/10/1998, thì khi đăng ký kết hôn, các bên phải xuất trình khai sinh, sổ hộ khẩu hoặc giấy tờ hợp lệ thay thế, cùng với tờ khai đăng ký kết hôn. Tờ khai đăng ký kết hôn chỉ xác nhận tình trạng hôn nhân, trong khi giấy khai sinh hoặc sổ hộ khẩu lại có ghi nhận giới tính của đương sự. Vậy, có thể nghĩ rằng giấy khai sinh hoặc sổ hộ khẩu là các giấy tờ có giá trị chứng minh giới tính ? Thông thường, nếu việc ghi nhận giới tính theo cảm quan của viên chức hộ tịch (bằng sự quan sát) trùng hợp với việc ghi nhận giới tính trong giấy tờ hộ tịch và phù hợp với cách xưng hô được cơ quan chức năng sử dụng khi xác nhận tờ khai đăng ký kết hôn (cơ quan chức năng gọi các đương sự là anh X, chị Y), thì việc kiểm tra giới tính coi như hoàn tất.             Thay đổi giới tính - Giới tính của con người có thể thay đổi với sự hỗ trợ của các biện pháp y học. Có hai giả thiết             - Giả thiết thứ nhất. Sự thay đổi giới tính xảy ra sau khi kết hôn. Khi đó, vợ và chồng ở trong tình trạng có cùng giới tính. Vấn đề đặt ra: liệu hôn nhân có thể vẫn được coi là hợp pháp và được tiếp tục duy trì ?             - Giả thiết thứ hai. Sự thay đổi giới tính xảy ra trước khi kết hôn. Giả định thêm rằng do sự thay đổi đó mà giới tính của hai bên trở nên khác biệt. Vấn đề đặt ra: liệu các bên có thể kết hôn một cách hợp pháp, dù sự khác biệt giới tính không có nguồn gốc tự nhiên ?             Cần lưu ý rằng việc xác định lại giới tính trên chứng thư khai sinh không được cho phép trong luật hiện hành. Nói cách khác, giới tính được ghi nhận trên chứng thư khai sinh là giới tính cố định và không thể thay đổi, cải chính hoặc xác định lại[1]. Trong khi đó, giới tính được viên chức hộ tịch ghi nhận bằng sự quan sát là giới tính đã được thay đổi; còn cách xưng hô mà cơ quan chức năng sử dụng để gọi các đương sự có thể phù hợp với giới tính cũ hoặc với giới tính mới, tùy theo người xác nhận cho rằng đương sự là nam hay nữ...             Nếu ta thừa nhận rằng chứng thư khai sinh là bằng chứng của giới tính trong mọi trường hợp, thì: hôn nhân trong giả thiết thứ nhất vẫn được tiếp tục duy trì; việc kết hôn trong giả thiết thứ hai bị cấm. Còn nếu ta nói rằng giới tính chỉ có thể được xác định trên cơ sở có sự trùng hợp của những ghi nhận trên giấy khai sinh và của những ghi nhận từ sự quan sát thực tế, thì ta chưa có giải pháp cho vấn đề đặt ra trong giả thiết. Bất lực              Luật Việt Nam hiện đại, trong giai đoạn đầu, quy định rằng người bất lực hoàn toàn về sinh lý không được phép kết hôn (Luật hôn nhân và gia đình năm 1959, Ðiều 10). Tuy nhiên, quy tắc ấy đã không được lấy lại trong các luật hôn nhân và gia đình sau này: Cơ sở của hôn nhân, theo người làm luật hiện đại, là tình yêu; và tình yêu là một giá trị không nhất thiết có tính vật chất, cũng không nhất thiết gắn liền với quan hệ xác thịt.                b. Tuổi kết hôn             Cấm tảo hôn - Theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Ðiều 9 khoản 1, nam từ 20 tuổi trở lên và nữ từ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn. Giải pháp này đã được chấp nhận ngay từ văn bản luật đầu tiên về hôn nhân và gia đình dưới chế độ xã hội chủ nghĩa (Luật hôn nhân và gia đình năm 1959) và được giữ nguyên cho đến nay. Các lý lẽ của giải pháp chủ yếu mang tính y học: đối với người Việt Nam, sự phát triển thể chất đủ chín muồìi cho việc thiết lập quan hệ hôn nhân thường được ghi nhận khi con người đạt độ tuổi đó. Trong một dự thảo Luật hôn nhân và gia đình,  người làm luật còn định đưa vào trong luật viết chủ trương khuyến khích kết hôn ở độ tuổi muộn; tuy nhiên, văn bản luật được chính thức thông qua đã không ghi nhận chủ trương đó: kết hôn quá muộn, cũng như kết hôn quá sớm, không phải là điều tốt[1].                Tất cả những người dưới độ tuổi đó đều ở trong tình trạng không có năng lực pháp luật kết hôn. Khác với luật của nhiều nước, luật Việt Nam hiện hành không dự kiến bất kỳ một trường hợp nào mà nam hoặc nữ có thể được phép kết hôn một cách ngoại lệ, dù chưa đạt độ tuổi quy định.             Kết hôn hoặc chung sống như vợ, chồng với người chưa đến tuổi kết hôn, người có hành vi ấy có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tảo hôn, trong trường hợp cố ý duy trì quan hệ hôn nhân trái pháp luật sau khi đã có quyết định của Tòa án buộc chấm dứt quan hệ hôn nhân trái pháp luật (BLHS Ðiều 148). Người tổ chức việc tảo hôn cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự (cùng điều luật).                  c. Bệnh tật             Quyền kết hôn của người bệnh - Trước khi có Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, người mắc một hoặc một số bệnh truyền nhiễm được liệt kê trong luật viết không có năng lực pháp luật kết hôn chừng nào bệnh chưa được chữa khỏi.             - Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 1959, việc kết hôn bị cấm đối với người mắc bệnh hủi hoặc hoa liễu (Ðiều 10).             - Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 1986, người hủi không còn bị cấm kết hôn, nhưng người mắc bệnh hoa liễu vẫn tiếp tục ở trong tình trạng không có năng lực pháp luật kết hôn (Ðiều 7 khoản b). Riêng người nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài chỉ được phép đăng ký kết hôn trước nhà chức trách Việt Nam nếu không mắc bệnh hoa liễu hoặc aids (Pháp lệnh hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài ngày 15/12/1993, Ðiều 6 khoản 1).                Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 không cấm kết hôn vì lý do có bệnh truyền nhiễm, ngay cả trong trường hợp người kết hôn là người nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài và việc kết hôn được đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam. Tất nhiên, Nhà nước không khuyến khích việc kết hôn giữa những người mắc bệnh hiểm nghèo và có khả năng lây lan qua đường tình dục; nhưng quyền kết hôn của những người này được tôn trọng trong khung cảnh của luật thực định.             2. Sự ưng thuận   TOP             a. Hôn nhân tự nguyện             Nguyên tắc tự nguyện trong hôn nhân được ghi nhận trong rất nhiều văn bản chứ không chỉ trong luật hôn nhân và gia đình. Kết hôn trước hết là một quyền chứ không phải là một nghĩa vụ; không thể có hôn nhân ngoài ý muốn của người kết hôn. Gọi là kết hôn ngoài ý muốn một khi một bên hoặc cả hai bên kết hôn không ưng thuận kết hôn hoặc sự ưng thuận kết hôn không được hoàn hảo.             b. Không có sự ưng thuận            Người mất năng lực hành vi - Người mất năng lực hành vi không thể kết hôn (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Ðiều 10 khoản 2). Người đại diện của người mất năng lực hành vi cũng không có quyền cho phép người được đại diện kết hôn. Ta nói rằng, trong luật Việt Nam hiện hành, người mất năng lực hành vi ở trong tình trạng không có năng lực pháp luật kết hôn.            Người không nhận thức được hành vi của mình - Theo các luật hôn nhân và gia đình năm 1959 và 1986, người mắc bệnh tâm thần mà chưa chữa khỏi không được phép kết hôn[1]. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 lại chỉ cấm kết hôn đối với người mất năng lực hành vi mà không nhắc đến người bị bệnh tâm thần, nhưng lại chưa bị đặt vào tình trạng mất năng lực hành vi theo quyết định của Tòa án[1]. Dẫu sao, điều đó không có nghĩa rằng luật thừa nhận quyền kết hôn cho người không nhận thức được hành vi của mình. Có thể suy nghĩ trong logique của sự việc:             1. Nếu người không nhận thức được hành vi của mình quyết định việc kết hôn trong lúc không nhận thức được hành vi của mình, thì việc kết hôn không có giá trị do sự ưng thuận không tồn tại;             2. Nếu người không nhận thức được hành vi của mình quyết định việc kết hôn trong lúc đang tỉnh táo, thì việc kết hôn có giá trị, dù, có thể sau đóï, người này bị đặt trong tình trạng mất năng lực hành vi theo một quyết định của Tòa án (nếu Tòa án quyết định đặt người này trong tình trạng mất năng lực hành vi, thì vợ (chồng) trở thành giám hộ đương nhiên);               3. Nếu người không nhận thức được hành vi của mình bị đặt trong tình trạng mất năng lực hành vi, thì việc kết hôn xác lập sau ngày có quyết định của Tòa án thiết lập tình trạng mất năng lực hành vi, sẽ không có giá trị, dù người này kết hôn trong lúc đang tỉnh táo.             Người bị hạn chế năng lực hành vi - Chế định hạn chế năng lực hành vi chỉ được ghi nhận trong luật viết từ khi có Bộ luật dân sự năm 1995. Các luật hôn nhân và gia đình ban hành trước thời điểm đó không có quy định về mối quan hệ giữa việc kết hôn và tình trạng hạn chế năng lực hành vi. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, về phần mình, không cấm kết hôn đối với người bị hạn chế năng lực hành vi; bởi vậy, trong khung cảnh của luật thực định, người bị hạn chế năng lực hành vi có quyền kết hôn, thậm chí, có thể tự mình quyết định việc kết hôn mà không cần phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật..             c. Sự ưng thuận không hoàn hảo             Lừa dối - Luật hiện hành chỉ có định nghĩa chung về sự lừa dối, ghi nhận tại BLDS Ðiều 142 khoản 1 và được áp dụng cho tất cả các giao dịch dân sự, không có định nghĩa riêng về sự lừa dối trong hôn nhân. Ta nói rằng lừa dối trong hôn nhân là việc một bên cố ý làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch để bên kia chấp nhận xác lập giao dịch kết hôn. Ðịnh nghĩa rất chung và khó áp dụng. A muốn kết hôn với B; C cố ý làm cho A nhầm tưởng rằng mình là B; cuối cùng, A kết hôn với C mà cứ ngỡ rằng đã kết hôn với B.  Trong giả thiết vừa nêu, A có thể yêu cầu hủy hôn nhân do có sự lừa dối. Thế nhưng, nếu A muốn kết hôn với B vì tin rằng B giàu có và B cũng cố ý làm ra vẻ giàu có (dù thực ra rất nghèo) để A chấp nhận kết hôn với mình, thì khó có thể nói rằng A có quyền yêu cầu hủy hôn nhân do có sự lừa dối... Cũng không thể yêu cầu hủy hôn nhân, nếu A tin rằng B không bị bất lực và B cũng cố ý làm cho A tưởng rằng mình không bị bất lực.             Trong thực tiễn, việc thuyết phục các thẩm phán về sự tồn tại của hành vi lừa dối trong hôn nhân, của một bên đối với bên kia, không đơn giản; bởi vậy, bên bị lừa dối mà muốn chấm dứt hôn nhân thường xin ly hôn hơn là xin hủy hôn nhân trái pháp luật.             Cưỡng ép - Cưỡng ép kết hôn là hành vi buộc người khác phải kết hôn trái với nguyện vọng của họ (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Ðiều 8 khoản 5). Ðiều luật nhắm chủ yếu vào việc đấu tranh chống tệ nạn cưới ép, gả ép trong các gia đình Việt Nam còn chịu ảnh hưởng của các hủ tục phong kiến trong hôn nhân. Trong trường hợp một bên chấp nhận kết hôn do chịu sức ép của bên kia, ta có một vụ ép buộc (chứ không phải cưỡng ép) kết hôn. Sự ưng thuận rõ ràng không hoàn hảo, một khi việc kết hôn bị ép buộc; vấn đề sẽ trở nên rất tế nhị, trong trường hợp việc kết hôn được chấp nhận do một bên hoặc cả hai bên tuân theo sự xếp đặt của cha, mẹ, nói chung, của gia đình mình. Nói chung, thực tiễn có xu hướng thừa nhận rằng chỉ coi là có tình trạng cưỡng ép kết hôn, nếu sự cưỡng ép được thực hiện với động cơ phi đạo đức (ví dụ, cưỡng ép cưới, gả để thu tiền hoặc một lợi ích vật chất nào đó, cho cá nhân người cưỡng ép); và cũng chính sự cưỡng ép đó tạo thành mặt khách quan của tội cưỡng ép kết hôn được ghi nhận tại BLHS Ðiều 146.             Nhầm lẫn - Khác với luật của nhiều nước, luật Việt Nam hiện hành không coi sự nhầm lẫn như là một trong những lý do để yêu cầu tuyên bố hôn nhân vô hiệu. Nếu do nhầm lẫn mà chấp nhận kết hôn, thì người nhầm lẫn có thể xin ly hôn. Nếu sự nhầm lẫn là do hệ quả của sự lừa dối, thì có thể yêu cầu hủy hôn nhân trái pháp luật do có sự lừa dối.          3. Những cản trở đối với hôn nhân   TOP Trong những trường hợp do luật dự kiến, cơ quan chức năng phải từ chối việc đăng ký kết hôn, dù các điều kiện về giới tính, tuổi tác đều có đủ và dù các bên tỏ ra hoàn toàn tự nguyện trong việc xác lập quan hệ vợ chồng.             a. Hôn nhân chưa chấm dứt             Cấm đa thê - Người đang có vợ, có chồng không được phép kết hôn với người khác (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Ðiều 10 khoản 1). Quy định này, trên thực tế, nhắm chủ yếu vào việc ngăn chặn tình trạng đa thê. Cho đến khi hủy bỏ nền pháp luật thuộc địa, chế độ đa thê đã là một phần của pháp luật gia đình Việt Nam. Tư tưởng đa thê, được hỗ trợ bởi tư tưởng Khổng Mạnh về sự cần thiết của việc bảo đảm sự kế tục trong các gia đình, dòng họ, đã khiến cho cả người vợ, trong nhiều trường hợp đặc thù, ủng hộ việc người chồng thiết lập quan hệ vợ chồng với một (thậm chí nhiều) người đàn bà khác, để có t thể có con trai nối nghiệp. Cuộc đấu tranh nhằm xóa bỏ những suy nghĩ lạc hậu như thế, cho đến nay, vẫn gay gắt.                   Thế nhưng, thế nào là đang có vợ, có chồng theo nghĩa của điều luật đã dẫn ? Tất nhiên, người đã đăng ký kết hôn và chưa chấm dứt quan hệ hôn nhân có đăng ký luôn được coi là người đang có vợ, có chồng. Vấn đề, dẫu sao, sẽ trở nên không đơn giản trong trường hợp nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng. Cứ hình dung: hai người chung sống với nhau như vợ và chồng trong nhiều năm; sau đó, người đàn ông quyết định kết hôn với một người khác và tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Ðiều 11 khoản 1, nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ, chồng, thì không được pháp luật công nhận là vợ, chồng. Bởi vậy, cơ quan chứ năng phải đăng ký việc kết hôn giữa người đàn ông và người khác đó. Giả sử, sau khi kết hôn đúng luật, người đàn ông vẫn duy trì quan hệ chung sống như vợ, chồng với người đàn bà trước đây, thì cả hai sẽ ở trong tình trạng vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng (Luật hôn nhân và gia đình năm 200 Ðiều 4 khoản 2) và có thể bị chế tài về hình sự (BLHS Ðiều 147).             Mặt khác, có vẻ như theo luật, cuộc hôn nhân được bảo vệ trong một vụ đa thê phải là cuộc hôn nhân có đăng ký và chưa chấm dứt. Do đó, một cách duy lý, nếu một người đàn ông sống cùng một lúc với nhiều người đàn bà mà không đăng ký kết hôn với một người nào, thì sẽ không có quan hệ chung sống nào được bảo vệ, đồng thời cũng không có ai bị trừng phạt.  Song, chắc chắn đó không phải là giải pháp phù hợp với ý chí của người làm luật. Trong trường hợp tất cả các cuộc hôn nhân chưa chấm dứt đều được đăng ký, thì luật chỉ bảo vệ cuộc hôn nhân được đăng ký sớm nhất.              Ngoại lệ do hoàn cảnh lịch sử hoặc do chiến tranh - Trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, một số cán bộ miền Nam, đã có gia đình, tập kết ra Bắc và kết hôn một lần nữa mà không chấm dứt về mặt pháp lý quan hệ hôn nhân với người ở lạ
Tài liệu liên quan