Các khoáng vật, các đá trong tự nhiên là những đối tượng nghiên cứu quan trọng của địa chất học. Khi nghiên cứu hoặc mô tảmột loại đá, chúng ta phải xác định thành phần khoáng vật của nó.
Đối với đá magma, tùy theo vai trò số lượng khác nhau của khoáng vật tạo đá (KVTĐ), chúng được phân ra:
Khoáng vật chính là những khoáng vật tham gia nhiều vào thành phần của đá nhưolivin, pyroxen, amphibol, mica, feldspar, thạch anh,. Chúng lại được chia ra:
o Khoáng vật chủ yếu có hàm lượng trong đá đạt từ 5% trở nên.
o Khoáng vật thứ yếu chứa trong đá dưới 5%.
Khoáng vật phụ là những khoáng vật có mặt rất ít trong đá, nhưng đặc trưng. Thí dụ như zircon và orthit thường gặp trong đá granit.
43 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 4889 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Khoáng vật tạo đá dưới kính hiển vi phân cực, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
Khoa Địa chất
---oOo---
Bài giảng điện tử
KHOÁNG VẬT TẠO ĐÁ
DƯỚI KÍNH HIỂN VI PHÂN CỰC
Biên soạn
Huỳnh Văn Hải, Nguyễn Thị Ngọc Lan, Lê Đức Phúc,
Võ Trung Chánh, Trần Đại Thắng
Thiết kế Web
Trần Đại Thắng
TpHCM 12/2006
1
KHOÁNG VẬT TẠO ĐÁ
DƯỚI KÍNH HIỂN VI PHÂN CỰC
Nội dung
Mở đầu
Tính chất quang học của khoáng vật dưới kính hiển vi phân cực
Các khoáng vật tạo đá chính
Bộ ảnh chụp lát mỏng khoáng vật dưới kính hiển vi phân cực
Phiếu mô tả khoáng vật dưới kính hiển vi phân cực
Thư mục tài liệu in
Giới thiệu môn học
Mã số môn học: ĐC102
Số tín chỉ lý thuyết: 1 & thực hành: 1
Số tiết lý thuyết 15 tiết & thực hành: 30 tiết
Học phần này giúp cho sinh viên biết cách xác định các khoáng vật tạo
đá, dựa trên cở sở những tính chất quang học của tinh thể khoáng vật
dưới kính hiển vi phân cực để chuẩn bị cho các môn học Thạch học,
Thạch luận... trong chương trình đào tạo Cử nhân khoa học Địa chất.
Tính chất cơ bản của quang học tinh thể sẽ được đề cập đến để làm
nền tảng cho việc xác định khoáng vật dưới kính hiển vi thạch học.
Các môn học trước: Tinh thể học, Khoáng vật mô tả
Các môn học tiên quyết: Quang học tinh thể.
Thông tin tác giả
Biên soạn: Huỳnh Văn Hải, Nguyễn Thị Ngọc Lan, Lê Đức Phúc, Võ
Trung Chánh, Trần Đại Thắng
Thiết kế Web: Trần Đại Thắng
Ảnh chụp lát mỏng: Trong website này, chúng tôi đã sử dụng ảnh chụp
lát mỏng từ đề tài nghiên cứu của các đồng nghiệp: ThS. Trần Phú
Hưng, ThS. Lê Đức Phúc, ThS. Đinh Quang Sang, ThS. Trương Chí
Cường và CN. Huỳnh Thị Ngọc Bích. Đặc biệt từ hai bộ sưu tập mẫu lát
mỏng thạch học của: PGS.TS. Huỳnh Trung và GV. Huỳnh Văn Hải
Tài liệu tham khảo chính:
A. F. Rogers, P.F.Kerr. Optical mineralogy. New York, 1977
A. G. Bê-Chêch-Chin. Giáo trình Khoáng vật học. NXB Giáo dục. Hà
Nội, 1962.
Huỳnh Trung. Thạch học, thạch địa hóa các đá magma và đá biến chất.
NXB Đại học Quốc gia TpHCM, 2003.
Huỳnh Trung. Bảng tổng kết những đặc điểm chủ yếu của khoáng vật.
Huỳnh Văn Hải. Giáo trình khoáng vật tạo đá dưới kính hiển vi phân
cực. Bộ môn Khoáng thạch, 1985, 2003.
Quan Hán Khang. Quang học tinh thể và kính hiển vi phân cực. NXB
Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1986
Trịnh Văn Long. Giáo trình khoáng vật tạo đá. Liên đoàn Bản đồ địa
chất Miền Nam, 2004.
Võ trung Chánh. Giáo trình tinh thể học đại cương. NXB Đại học Quốc
gia TpHCM, 2005
W. E. Troger. Optical Determination of rock forming mineral. Stuttgart,
1979.
Website Khoáng vật tạo đá dưới kính hiển vi phân cực đang trong quá
trình thử nghiệm, chắc chắn không tránh được những sai sót chuyên
môn, lỗi chính tả, thuật ngữ... Chúng tôi rất mong nhận được ý kiến
đóng góp của các đồng nghiệp, các bạn sinh viên...
2
KHOÁNG VẬT TẠO ĐÁ
DƯỚI KÍNH HIỂN VI PHÂN CỰC
Sơ đồ web
Send mail to tdthang@hcmuns.edu.vn with questions or comments about this web site.
Copyright © 2006 Tran Dai Thang
3
KHOÁNG VẬT TẠO ĐÁ
DƯỚI KÍNH HIỂN VI PHÂN CỰC
Mở đầu
Các khoáng vật, các đá trong tự nhiên là những đối tượng nghiên cứu quan trọng của
địa chất học. Khi nghiên cứu hoặc mô tả một loại đá, chúng ta phải xác định thành
phần khoáng vật của nó.
Đối với đá magma, tùy theo vai trò số lượng khác nhau của khoáng vật tạo đá
(KVTĐ), chúng được phân ra:
Khoáng vật chính là những khoáng vật tham gia nhiều vào thành phần của đá như
olivin, pyroxen, amphibol, mica, feldspar, thạch anh,... Chúng lại được chia ra:
o Khoáng vật chủ yếu có hàm lượng trong đá đạt từ 5% trở nên.
o Khoáng vật thứ yếu chứa trong đá dưới 5%.
Khoáng vật phụ là những khoáng vật có mặt rất ít trong đá, nhưng đặc trưng. Thí dụ
như zircon và orthit thường gặp trong đá granit.
Khoáng vật quặng là những khoáng vật không thấu quang như cromit, manhetit,...
Về mặt nguồn gốc thành tạo, các KVTĐ lại được chia ra khoáng vật nguyên sinh và
khoáng vật thứ sinh. Khoáng vật nguyên sinh thành tạo do sự kết tinh từ magma,
các khoáng vật thứ sinh thành tạo do biến đổi từ các khoáng vật nguyên sinh.
Các khoáng vật của đá biến chất có một số đặc điểm cần chú ý sau:
o Gồm nhiều khoáng vật là thành phần chủ yếu trong đá magma.
o Khoáng vật của đá biến chất hầu như không có hỗn hợp đồng hình (ngoại trừ
plagioclas) và cấu tạo đới không đặc trưng.
o Những khoáng vật phụ trong đá magma thì thường là khoáng vật chính trong
đá biến chất. Khoáng vật thứ sinh của đá magma có thể trở thành khoáng vật
chủ yếu tạo đá biến chất.
Một số KVTĐ đặc trưng cho một kiểu đá nhất định. Thí dụ leucit, sodalit chỉ có trong
đá magma; glauconit là khoáng vật điển hình cho đá trầm tích; disten chỉ gặp trong
đá biến chất. Nhưng cũng có rất nhiều khoáng vật gặp trong cả ba loại đá như
feldspar, thạch anh (xem bảng).
Loại đá Khoáng vật
Magma
Olivin, pyroxen, amphibol, mica, feldspar, feldspathoid, thạch anh,
sphen, zircon, zeolit…
Biến chất
Sillimanit, disten, staurolit, andalusit, topaz, diaspor, cordierit, chlorit,
chloritoid, tourmalin, anthophilit, talc, fosterit, phlogopit, tremolit,
garnet, zoizit, epidot,…
Trầm tích Calcit, chalcedony, dolomit, glauconit…
Để xác định một khoáng vật tạo đá, người ta có thể sử dụng nhiều phương pháp
phân tích khác nhau như phân tích nhiệt, rơnghen, phân tích thành phần hóa, kích
hoạt microzon… Tại các phòng thí nghiệm khoáng thạch, phương pháp xác định
khoáng vật dưới kính hiển vi phân cực (KHV phân cực) được sử dụng rộng rãi và tỏ ra
khá ưu việt trong công tác nghiên cứu thạch học-khoáng vật. Phương pháp này đòi
hỏi người sử dụng phải có kiến thức về tinh thể, quang học tinh thể.
4
KHOÁNG VẬT TẠO ĐÁ
DƯỚI KÍNH HIỂN VI PHÂN CỰC
Tính chất của khoáng vật dưới kính hiển vi phân cực
Để nghiên cứu khoáng vật dưới KHV phân cực, chúng ta phải tìm hiểu các tính chất
của mặt quang suất và cách nó bố trí trong tinh thể. Việc xác định các hằng số quang
học này được thực hiện dựa trên những tiết diện định hướng hoặc gần định hướng
của tinh thể. Tinh thể khoáng vật dị hướng có nhiều tiết diện chứa các đại lượng chiết
suất khác nhau. Chúng phụ thuộc vào vị trí lát cắt so với mặt quang suất của tinh
thể.
Thí dụ 1: xét mô hình tinh thể thạch anh trong hình 1.1a: Nếu chúng ta cắt ngang trục c của tinh
thể sẽ được tiết diện chỉ có một đại lượng chiết suất no (hình 1.1b). Khi ta cắt tinh thể dọc theo
trục c được tiết diện chứa hai đại lượng chiết suất chính (no & ne) của tinh thể (hình 1.1c).
Trường hợp cắt xiên với trục c, các đại lượng chiết suất của tiết diện sẽ có dạng trung gian (hình
1.1d). Lát cắt vuông góc với trục c và lát cắt song song trục c chứa các đại lượng chiết suất chính
của tinh thể. Chúng được gọi là các tiết diện định hướng của thạch anh.
Hình 1.1. Mô hình tinh thể thạch anh
Thí dụ 2: Bạn đọc tự khảo sát các tiết diện của khoáng vật enstatit trong hình 1.2
Hình 1.2. Mô hình tinh thể khoáng vật enstatit
5
Mẫu đá cần nghiên cứu dưới KHV phân cực được cắt thành lát mỏng có chiều dày
bằng 0,03mm. Mỗi tiết diện trong lát mỏng là mặt cắt của một hạt tinh thể trong đá.
Nhờ đặc điểm KVTĐ có số lượng tinh thể nhiều và sắp xếp hỗn độn nên ta có thể sẽ
chọn được những tiết diện định hướng hoặc gần định hướng từ số lượng lớn lát cắt
tinh thể có mặt trong lát mỏng. Kết quả mô tả các hằng số quang học của tinh thể là
cơ sở kết luận tên khoáng vật
Hình dạng
Hình dạng tinh thể (shape of the crystal) được suy diễn từ các tiết diện của chúng
trong lát mỏng. Tinh thể và tiết diện tinh thể thường gặp những dạng sau:
Tiết diện: hình chữ nhật (rectangular), hình vuông (square), hình lục giác
(hexagonal), hình thoi (diamond-shaped), dạng đẳng thước (rounded)...
Tinh thể: hình kim (needle-shaped or acicular), lăng trụ (prismatic), dạng tấm
(tabular), dạng hạt...
Dựa vào trình độ kết tinh, tinh thể khoáng vật có các mức độ tự hình:
o Tự hình (euhedral): cho lát cắt hình đa giác (hình 1.1.1).
o Tha hình (anhedral): tiết diện hình dạng không xác định (hình 1.1.2).
o Nửa tự hình (subhedral): có dạng trung gian giữa tự hình và tha hình.
Các khoáng vật kết tinh sớm trong đá phun trào thường có kích thước lớn hơn hẳn
thành phần khoáng vật của nền (groundmass). Chúng được gọi là các ban tinh
(phenocryst) (hình 1.1.3). Thuật ngữ ban biến tinh (porphyroblast) được dùng chỉ các
ban tinh trong đá biến chất (hình 1.1.4). Trường hợp những mảnh tinh thể có kích
thước cực lớn, không rõ nguồn gốc, được gọi là khổng tinh (megacrysts). Ví dụ như
các "megacryst" của pyroxen trong đá basalt vùng Xuân Lộc, Đồng Nai; Đơn Dương,
Lâm Đồng...
Hình 1.1.1. Tiết diện hình thoi rất tự hình của sphen
trong granodiorit vùng Hòn Đất, Kiên Giang (1Ni,
3.3x10x)
Hình 1.1.2. Thạch anh và feldspar kali có hình dạng
tha hình trong đá granit biotit vùng Xuân Thu,
Quảng Ngãi (2Ni+, 3.3x4x)
Hình 1.1.3. Ban tinh olivin trong đá basalt vùng Lộc
Ninh, Bình Phước (2Ni+, 3.3x4x)
Hình 1.1.4. Ban biến tinh cordierit trong đá sừng
vùng Định Quán, Đồng Nai (2Ni+, 3.3x4x)
6
Màu và tính đa sắc
Ánh sáng khi chiếu vào vật tinh thể, nó sẽ ít nhiều bị hấp thụ (absorption). Do đó,
khi đi qua vật, ánh sáng trở nên yếu đi. Nếu tinh thể làm yếu đồng đều tất cả các tia
sáng đơn sắc, tinh thể sẽ không có màu (colourless). Tinh thể hấp thụ những tia đơn
sắc của ánh sáng trắng không đều nhau làm vật trở nên có màu riêng (coloured).
Độ đậm nhạt của màu phụ thuộc hai yếu tố: khả năng hấp thụ và chiều dày của vật
chất. Đối với mẫu lát mỏng thạch học, chiều dày các tiết diện khoáng vật rất nhỏ
(~0,03mm), nhiều khoáng vật gần như không màu, mặc dù chúng có màu trong mẫu
thạch học. Một ít khoáng dễ dàng nhận diện bởi màu của chúng do tính hấp thụ
mạnh như biotite thường có màu nâu, hornblend có màu lục. Những khoáng vật chắn
sáng (opaque) chỉ có thể nghiên cứu bằng ánh sáng phản chiếu.
Một vài khoáng lại có tính thay đổi màu khi quay bàn kính với một nicol. Những tinh
thể dị hướng, sự hấp thụ ánh sáng cũng thay đổi tùy theo vị trí phương dao động của
ánh sáng phân cực với các phương dao động của tinh thể. Do vậy, màu riêng của tiết
diện thay đổi khi ta xoay bàn kính. Đó là hiện tượng đa sắc của tinh thể.
Nếu bạn đang xem website này trong đĩa CD, hãy bấm vào đây để xem đoạn phim
minh họa cho màu đa sắc của biotit. Chú giải phim: Các tiết diện biotit không có
cát khai và một hướng cát khai trong đá granodiorit vùng Hòn Đất, Kiên Giang,
quan sát dưới một nicol, màu đa sắc của biotit thay đổi khi xoay bàn kính.
Tính cát khai
Sự có mặt hoặc không có mặt của cát khai, góc giữa hai hệ thống cát khai (nếu tiết
diện có nhiều hơn một hướng cát khai) là những yếu tố nhận biết khoáng vật trong
lát mỏng.
Có khoáng vật hiếm khi gặp tiết diện có cát khai (như thạch anh). Nhóm mica có thể
dễ dàng được tách ra thành những tấm mỏng bởi vì mica có một hệ thống cát khai
hoàn toàn theo mặt phẳng dạng tấm.
Những khoáng vật có nhiều hơn một hệ
thống cát khai, góc giữa hai hệ thống cát
khai giúp nhận ra khoáng vật. Ví dụ: góc
cát khai của nhóm amphibol bằng 56o,
nhóm pyroxen bằng 87o. Tiết diện được
chọn đo góc cát khai cần phải có hai hướng
cát khai, đường cát khai rõ, mảnh. Góc cát
khai chuẩn của một khoáng vật chỉ xác
định đúng trên tiết diện vuông góc với cả
hai mặt cát khai (hình 1.1.5).
Hình 1.1.5. Vị trí ba mặt cắt qua 2 mặt cát khai cho
ra 3 giá trị góc cát khai khác nhau: Mặt cắt 1: vuông
góc với cả hai mặt cát khai cho góc cát khai 1. Mặt
cắt 2: cho góc cát khai 2 < góc cát khai. Mặt cắt 3:
cho góc cát khai 3 > góc cát khai 1. Mặt cắt 1 cho
góc cát khai thật. Mặt cắt 2 và mặt cắt 3 cho góc cát
khai biểu kiến
7
Tính cát khai của khoáng vật được mô tả:
- Cát khai hoàn toàn: nếu chúng thể hiện trên tiết diện là những đường thẳng song
song, kéo dài liên tục.
- Cát khai không hoàn toàn: nếu cát khai trên tiết diện là những đường thẳng song
song, đứt đoạn.
Tính cát khai của tinh thể khoáng vật biểu hiện khác nhau tùy theo vị trí cắt của tiết
diện. Nếu tinh thể chỉ có một hệ thống cát khai (vd: biotit, muscovit), tiết diện song
song với mặt cát khai sẽ không có cát khai, các tiết diện còn lại đều có một hướng
cát khai (hình 1.1.6).
Hình 1.1.6. Hình dạng tinh thể khoáng vật biotit có một hệ thống cát khai song song với (001), ảnh chụp
tiết diện song song với (001) không có cát khai và tiết diện có một hướng cát khai khi cắt xiên góc hoặc
song song với trục c của khoáng vật biotit trong đá granodiorit vùng Hòn Đất, Kiên Giang . Ảnh chụp dưới
KHV phân cực (1Ni, 3.3x4x).
Khoáng vật có hai hệ thống cát khai (augit, hornblen lục), các tiết diện có hai hệ
thống cát khai:
o Nếu hai hệ thống cát khai này song song với nhau, tiết diện chỉ có một hướng
cát khai
o Nếu chúng cắt nhau, tiết diện sẽ có hai hướng cát khai (hình 1.1.7).
Hình 1.1.7. Hình dạng tinh thể pyroxen một nghiêng có hai hệ thống cát khai theo (110) và (110), ảnh
chụp tiết diện có một hướng cát khai (gồm hai hệ thống cát khai song song) và tiết diện hai hướng cát khai
cắt nhau của khoáng vật pyroxen một nghiêng trong đá monzodiorit vùng Hòn Đất, Kiên Giang dưới KHV
phân cực (1Ni, 3.3x4x)
Mặt cát khai thường song song với mặt tinh thể. Tuy không phải luôn luôn đúng trong
mọi trường hợp nhưng tính chất này cực kì quan trọng cho việc định hướng các
phương trục tinh thể, mặt tinh thể trong việc đo góc tắt.
8
Chiết suất
Chiết suất của khoáng vật được xác định gián tiếp bằng việc quan sát mặt sần và độ
nổi của tiết diện dưới một nicol (xem Bảng xác định chiết suất của khoáng vật trong
lát mỏng).
Bảng xác định chiết suất của khoáng vật trong lát mỏng (theo V.N. Lôđôtsnhikôp và V.I. Lutrixki)
Chiết
suất
(n)
Ranh
giới
giữa
hạt và
nhựa
Mặt
sần Độ nổi
Chuyển động của
riềm becke khi nâng
cao ống kính
Các khoáng vật
đặc trưng
n<1.47 Rõ Rõ
Âm (hạt có dạng chìm
xuống) Từ hạt sang nhựa Opan, fluorit
1.47-1.53 Yếu Không
có
Không có Từ hạt sang nhựa Orthoclas, microlin
1.53-1.54
Không
có
Không
có
Không có Không có Nephelin, Albit
1.54-1.57 Yếu Không
có
Không có Từ nhựa sang hạt Thạch anh,
andesin
1.57-1.60 Rõ Yếu Dương (hạt có dạng
nổi cao) Từ nhựa sang hạt Muscovit, labrado
1.60-1.70 Rõ Rõ Dương Từ nhựa sang hạt Apatit, hornblend,
Augit, olivin
1.70-1.78 Rất rõ Rất rõ Rất cao Từ nhựa sang hạt Epidot, granat
(garnet)
n>1.78 Rất rõ Cực rõ
Cực cao (rìa hạt như
được tô một đường
đen dày)
Từ nhựa sang hạt Sphen, Zircon
Nguồn tài liệu: Quan Hán Khang. Quang học tinh thể và kính hiển vi phân cực. NXB Đại học và Trung học
chuyên nghiệp, 1986
Nguyên nhân tạo ra mặt sần là do khi mài lát mỏng, bao giờ trên bề mặt tiết diện
cũng còn những chỗ lồi lõm. Nếu chiết suất của hạt khác với chiết suất của nhựa
canada phủ trên bề mặt hạt, chùm ánh sáng song song khi qua hạt sẽ bị khúc xạ (hội
tụ hoặc phân kì) ở những chỗ lồi lõm.
Những khoáng vật có chiết suất cao sẽ nổi cao hơn khoáng vật có chiết suất thấp
(hình 1.1.8; 1.1.9). Để so sánh chiết suất của hai khoáng vật nằm cạnh nhau, chúng
ta sử dụng phương pháp tạo riềm Becke.
Lưu ý: một số khoáng vật không màu, có chiết
suất gần bằng nhau, khi các tiết diện của
chúng nằm cạnh nhau sẽ khó phân biệt được
ranh giới hạt. Trường hợp này chúng ta phải
đóng 2 nicol để quan sát hình dạng hạt (hình
1.1.9).
Hình 1.1.8. Mẫu monzodiorit vùng Hòn Đất, Kiên Giang.
Hai tiết diện pyroxen (Py) một nghiêng nổi cao hơn các
khoáng vật chiết suất thấp hơn ở xung quanh (1Ni,
3.3x4x).
9
Hình 1.1.9. Ảnh chụp mẫu đá granit sáng màu, khối Xuân Thu, Quảng Ngãi dưới 1nicol và 2 nicol (3.3x4x).
Tiết diện muscovit (Ms) có ranh giới rõ hơn so với các khoáng vật thạch anh (Q) và plagioclas (Pl) bên
cạnh ở dưới một nicol. Ranh giới các tiết diện thạch anh, plagioclas chỉ thấy được ở 2 nicol vuông góc.
Lưỡng chiết suất
Lưỡng chiết suất của một khoáng vật là hiệu số chênh lệch giữa chỉ số chiết suất lớn
nhất và nhỏ nhất trong tinh thể khoáng vật (ng-np).
Trong một tiết diện tinh thể bất kì, lưỡng chiết suất của tiết diện được tính bằng công
thức: R=d(n1-n2)
Trong đó:
o d là chiều dày tiết diện. Đối với lát mỏng, d luôn cố định ở 0.03mm.
o R là hiệu số đường đi (độ chậm);
o n1-n2: lưỡng chiết suất của tiết diện
Lưỡng chiết suất của tiết diện và độ chậm R được xác định bằng cách quan sát màu
giao thoa (interference colours) của tiết diện, sau đó sử dụng bảng màu Michel Levy
để tra tìm giá trị của chúng. Cách làm như sau:
- Trên bảng màu Michel Levy (hình 1.1.10), kẻ đường nằm ngang ứng với giá trị d=
0.03mm (30mm) ở trục chiều dày lát mỏng (Thin Section Thickness) bên tay trái của
bảng màu.
- Trên đường nằm ngang này, tại vị trí màu giao thoa quan sát được:
o nếu chiếu thẳng xuống trục nằm ngang bên dưới được giá trị R,
o nếu chiếu theo các đường chéo được kẻ từ góc trái dưới cắt đường nằm ngang
bên trên được giá trị lưỡng chiết suất.
Chiều dày lát mỏng kiểm tra bằng màu giao thoa của tiết diện thạch anh: nếu d đúng
bằng 0.03mm, đã biết lưỡng chiết suất của thạch anh: ng-np=0.0091. Ta suy ra
được màu giao thoa của tiết diện thạch anh trong mẫu cao nhất là xám, đôi khi có
màu vàng bậc I. Nếu trong mẫu có những tiết diện thạch anh màu giao thoa cao hơn
vàng bậc I thì có nghĩa mẫu lát mỏng đó bị mài dày
Màu giao thoa của tiết diện được xác định theo các bước:
- Dưới 2 nicol vuông góc, xoay tiết diện đang quan sát về vị trí tắt
- Từ vị trí tắt, xoay tiết diện thêm 45o (chiều nào cũng được). Quan sát màu giao
thoa của tiết diện.
Lưu ý:
- Một tinh thể có thể bị cắt ở những vị trí khác nhau, ứng với mỗi tiết diện sẽ có một
giá trị lưỡng chiết suất và màu giao thoa riêng của lát cắt.
- Lưỡng chiết suất của khoáng vật luôn luôn bằng ng-np, được xác định trên tiết diện
có chứa 2 phương dao động Ng và Np của tinh thể (tiết diện song song với trục
10
quang của tinh thể một trục và song song với mặt trục quang của tinh thể 2 trục),
tiết diện này có màu giao thoa cao nhất trong toàn bộ các lát cắt tinh thể.
- Các tiết diện của tinh thể hạng cao, tiết diện vuông góc trục quang của tinh thể một
trục và hai trục đều có giá trị độ chậm R=0 nên sẽ hoàn toàn tối đen dưới 2 nicol
vuông góc.
Hình 1.1.10. Bảng màu Michel Levy
Góc tắt
Góc tắt được tạo bởi một phương dao động xác định của mặt quang suất với một
phương đặc trưng của tinh thể (trục tinh thể, mặt tinh thể...). Trị số góc tắt cần phải
ký hiệu rõ bằng tên của phương dao động và phương đặc trưng của tinh thể tạo
g dao động Ng và trục c của hornblend bằng 12o
được ký hiệu như sau: Ng^c=12o.
Một khoáng vật, chỉ nên c
thành. Ví dụ: góc tắt tạo bởi phươn
họn đo góc tắt trên
hương đặc trưng của tinh thể, tùy loại
ình 1.1.11. Tiết diện // mặt trục quang đồng thời cũng là tiết
Chứa các phương song song với các trục a và c của tinh thể: phương của trục c
những tiết diện chính của mặt quang suất. Góc
tắt của các tiết diện này xác định góc tắt của tinh
thể.
Các p
khoáng vật sẽ được xác định trên những tiết diện
chính của mặt quang suất nhờ vào dấu hiệu:
phương cát khai hay một cạnh thẳng rõ nét của
tiết diện. Ví dụ: tiết diện song song với mặt trục
quang của hornblend có một hướng cát khai cũng
là hướng của trục c (hình 1.1.11). Trên tiết diện
này còn thể hiện nhiều tính chất của tinh thể
như:
H
diện // (010) của tinh thể.
-
song với phương cát khai, phương của trục a tạo với cát khai một góc β~106o.
11
- Chứa hai phương dao động Ng và Np, hai trục quang của tinh thể. Như vậy sẽ quan
sát được màu đa sắc theo Ng và Np, và tiết diện này cũng xác định lưỡng chiết suất
và dấu kéo dài của tinh thể.
- Có các góc tắt tạo bởi phương dao động Ng, Np với các trục c và trục a, trong đó
góc tắt Ng^c dễ dàng đo được dưới kính.
Người ta phân ra 3 kiểu tắt như sau:
o Tắt thẳng (straight extinction): góc tắt bằng 0o
o Tắt xiên (oblique extincti