Bài giảng Kiến trúc TCP- IP

TCP/IP là một tập hợp các phần mềm được tạo ra qua nhiều năm, phần lớn với sự giúp đỡ của một nguồn tài trợ nghiên cứu to lớn của chính phủ Mỹ. Ban đầu, TCP/IP được dự định dành cho cho Bộ Quốc phòng Mỹ (Departement of Defense - DoD) . Dự án này xuất phát từ nhu cầu trao đổi thông tin giữa các hệ thống khác nhau. Vào thời kì những năm 70, trước khi có giao thức TCP/IP, gần như không thể làm cho một máy mainframe của IBM “nói chuyện” được với một mainframe của Apple vì hai máy tính này được thiết kế với những giao thức hoàn toàn khác biệt.

doc50 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2077 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Kiến trúc TCP- IP, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục BÀI 1. KIẾN TRÚC TCP/IP GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT TCP/IP là gì, lịch sử. TCP/IP là một tập hợp các phần mềm được tạo ra qua nhiều năm, phần lớn với sự giúp đỡ của một nguồn tài trợ nghiên cứu to lớn của chính phủ Mỹ. Ban đầu, TCP/IP được dự định dành cho cho Bộ Quốc phòng Mỹ (Departement of Defense - DoD) . Dự án này xuất phát từ nhu cầu trao đổi thông tin giữa các hệ thống khác nhau. Vào thời kì những năm 70, trước khi có giao thức TCP/IP, gần như không thể làm cho một máy mainframe của IBM “nói chuyện” được với một mainframe của Apple vì hai máy tính này được thiết kế với những giao thức hoàn toàn khác biệt. Bạn có thể tưởng tượng như bạn nhấc điện thoại ở Mỹ gọi sang Tây Ban Nha. Giả sử có một kết nối cứng tốt vì hệ thống điện thoại ở Tây Ban Nha tương thích. Mặc dầu vậy bạn gặp phải sự bất tương thích về phần mềm, đó là một người nói tiếng Anh và một người nói tiếng Tây Ban Nha, ta gặp phải sự bất đồng ngôn ngữ. Để giải quyết bất đồng này người ta đưa ra một ngôn ngữ chung để trao đổi, ngôn ngữ Esperanto. Và mong muốn của những nhà thiết kế là đưa TCP/IP trở thành ngôn ngữ có vai trò như Esperanto trong truyền thông. Cùng với thời gian, TCP/IP đã tiến hóa thành một bộ giao thức mạnh mẽ, phổ biến và hoàn thiện. Nhiều nơi đã chấp nhận nó như là ngôn ngữ truyền thông chính của họ. Kiến trúc TCP/IP, các tầng, chuẩn, so sánh mô hình phân tầng TCP/ IP với OSI Telnet Transmission Control Protocol (TCP) User Datagram Protocol (UDP) RIP ICMP ARP Internet Protocol (IP) Ethernet Token Bus Token Ring FDDI IEEE803.3 IEEE802.4 IEEE802.5 ANSI X3T95 FTP SMTP DNS SNMP Application Presentation Session Transport Network Data Link Physical Mô hình OSI Mô hình kiến trúc TCP/IP TCP/IP thực chất là một họ giao thức cùng làm việc với nhau để cung cấp phương tiện truyền thông liên mạng. Bao gồm 4 tầng: Applycation, TCP (tương ứng với tầng Session trong mô hình OSI), IP (tương ứng với tầng Network) , Physical. Hai giao thức đáng quan tâm nhất trong bộ giao thức này là giao thức liên mạng IP (Internet Protocol) và TCP (Transmision Control Protocol). Mục đích chính của IP là cung cấp khả năng kết nối các mạng con thành liên mạng để truyền dữ liệu. Vai trò của IP tương tự vai trò của giao thức tầng mạng trong Mô hình OSI là chọn đường và chuyển tiếp. IP là giao thức “không liên kết” (connectionless) có nghĩa là không cần có giai đoạn thiết lập liên kết trước khi truyền dữ liệu. TCP là giao thức kiểu “có liên kết” (connection – oriented) nghĩa là cần phải thiết lập liên kết (logic) giữa một cặp thực thể TCP trước khi chúng trao đổi dữ liệu với nhau. Các giao thức: ICMP, IGMP, IP, UDP.. ICMP (Internet Control Message Protocol) ICMP là một giao thức nằm ở tầng mạng phục vụ việc truyền các thông báo điều khiển (báo cáo về tình trạng lỗi trên mạng, …) giữa các gateway hoặc trạm của liên mạng. Tình trạng lỗi có thể là: một datagram không thể tới được đích của nó, hoặc một router không đủ bộ nhớ đệm để lưu và chuyển một datagram, … Một thông báo ICMP được tạo và chuyển cho IP, IP sẽ “bọc” thông báo đó với một IP header và truyền đến cho router hoặc trạm đích. IGMP (Internet Group Management Protocol) IGMP là giao thức Internet để các host kết nối hủy kết nối từ̀ các nhóm multicast. Nhóm multicast gồm các máy tính có́ thể nhận các gói từ một host đang truyền thông theo chế độ multicast (đa điểm đến). Các gói multicast được đánh địa chỉ IP trong lớp D. Các host có thể có các địa chỉ lớp A, B hay C thông thường cùng với một hay nhiều địa chỉ lớp D. Địa chỉ lớp D chỉ ra rằng chúng là một phần của nhóm multicast. UDP (User Datagram Protocol) Trong khi TCP là dịch vụ truyền hướng kết nối với nhiều đặc điểm để đạt độ tin cậy cao trong truyền dữ liệu, UDP lại là dịch vụ truyền phi kết nối không cần độ tin cậy như TCP. Như đã nói, các ứng dụng cần một giao diện với IP. UDP đáp ứng được nhu cầu đó và đồng thời cung cấp khả năng nói chuyện với quá trình đang chạy trên máy chủ thông qua số hiệu cổng mà không cần thiết lập một phiên kết nối. Trong nhiều trường hợp, điều này làm cho việc liên lạc dễ dàng hơn bởi vì toàn bộ dữ liệu truyền có thể được gởi đi trong một hoặc hai gói UDP. Việc thiết lập kết nối TCP sẽ tốn nhiều thời gian mặc dù chỉ gởi một lượng dữ liệu nhỏ IP (Internet Protocol) IP (hiện nay là IP thế hệ 4, hay IPv4) là giao thức vận chuyển cơ bản cho các gói tin trên mạng Internet và các mạng dùng giao thức TCP/IP. IP là giao thức liên mạng. Nó cung cấp hệ thống truyền thông trên các mạng được nối với nhau. Trong đó, một mạng riêng lẻ nối vào được gọi là mạng con (subnetwork/subnet). Mỗi mạng con có thể khác nhau, tức là mạng con này có thể là Ethernet trong khi mạng kia có thể là mạng token ring. Vì vậy, mỗi mạng con có các phương thức MAC (medium access control) của riêng nó để đặt thông tin vào các khung, đánh địa chỉ các khung này để truyền đến các nút khác trên cùng mạng. IP cung cấp một cách thống nhất cho việc đóng gói thông tin để phân phối ngang qua các đường biên của các mạng con. Trong khi các khung được dùng đề truyền thông tin trên mạng con, datagram IP như các “phong bì” để truyền thông tin qua các điểm giao tiếp liên mạng. Các tiện ích TCP/IP: FTP, Telnet.. FTP (File Transfer Protocol) FTP là một dịch vụ truyền tập tin trên hệ thống mạng Internet và trên các hệ thống mạng TCP/IP. Về cơ bản, FTP là giao thức client/server (khách/chủ) trong đó một hệ thống đang sử dụng trình FTP server chấp nhận các yêu cầu từ một hệ thống đang chạy FTP client. Dịch vụ này cho phép các người dùng gửi đến máy chủ các yêu cầu tải lên hoặc chép về các tập tin. FTP hoạt động giữa nhiều loại hệ thống hỗn hợp và và cho phép người dùng từ hệ thống này tương tác với hệ thống khác loại mà không cần quan tâm đến các hệ điều hành tại đó. Telnet Telnet cho phép người sử dụng từ một trạm làm việc của mình có thể đăng nhập vào một trạm ở xa qua mạng và làm việc với hệ thống y như là từ một trạm cuối (Terminer) nối trực tiếp với trạm ở xa đó. Telnet là giao thức tương đối đơn giản so với các chương trình phỏng tạo trạm cuối phức tạp hiện nay. Lý do chính của sự phổ biến của Telnet là vì đó là một đặc tả mở và khả dụng cho tất cả các hệ thống thông dụng hiện nay. DNS (Domain Name System) Đây là hệ thống quản lý tên miền cho các phần tử của Internet. Việc định danh các phần tử của liên mạng bằng các con số năm trong địa chỉ IP rõ ràng không làm cho người sử dụng hài lòng bởi nó khó nhớ và dễ nhầm lẫn. Vì thế người ta đã xây dựng hệ thống đặt tên cho các phần tử trên Internet cho phép người sử dụng chỉ cần nhớ tên không cần nhớ địa chỉ IP. Phương pháp quản lý các tên của DNS là phân cấp các nhóm tên. Mỗi cấp trong hệ thống được gọi là “miền”, các miền được tách nhau bởi một dấu chấm, ví dụ www.fpt.vn chỉ ra máy chủ web server trong miền của ISP “fpt” thuộc cấp quốc gia là “vn”. ĐỊA CHỈ IP Địa chỉ vật lí, địa chỉ tầng mạng ... Để che dấu tính phức tạp và đa dạng của các thiết bị mạng, TCP/IP định nghĩa khái niệm giao diện (interface) để truy cập vào phần cứng. Giao diện này cung cấp tập hợp các thao tác như nhau cho tất cả các dạng thiết bị, dựa trên các thao tác gửi và nhận dữ liệu. Để hoạt động trong mạng TCP/IP, mỗi giao diện mạng phải được gán một địa chỉ IP để định vị khi truyền thông với thực thể bên ngoài. Một địa chỉ vật lý hay còn gọi là địa chỉ MAC (do nó được định nghĩa trong phân tầng Media Access Control của tầng liên kết dữ liệu theo chuẩn giao thức của OSI) là địa chỉ của một NIC (network interface card - card giao tiếp mạng). Các địa chỉ MAC chỉ được dùng để truyền tải các khung dữ liệu giữa những máy tính trong cùng một mạng. Chúng không được dùng để gởi khung đến những máy tính trên những mạng khác nhau được liên kết bằng các bộ định tuyến. Việc định địa chỉ IP được dùng để gởi tiếp các khung ngang qua những biên giới của bộ định tuyến (dùng các mạng TCP/IP). Lưu ý rằng MAC address không được sử dụng trong truyền nhận giữa các mạng Địa chỉ IP Giao thức liên mạng IP sử dụng loại địa chỉ 32 bit. Mỗi máy trạm phải được gán một địa chỉ trong liên mạng. Khi sử dụng mạng cục bộ không kết nối với các mạng khác, người sử dụng có thể tự gán địa chỉ IP tùy ý cho các máy trạm. Tuy nhiên đối với các site Internet thì địa chỉ IP phải được cung cấp từ trung tâm phụ trách địa chỉ IP trên thế giới NIC (Network Information Center). Mỗi địa chỉ IP được chia làm 4 phần, mỗi phần 1 byte. Ví dụ, trạm quark.physics.groupcho.edu có địa chỉ là 0x954C0C04 hay 149.76.12.4. Dạng sau được gọi là ký pháp thập phân có chấm – dotted quad notation. Địa chỉ IP được chia thành 2 vùng: địa chỉ mạng (network address) và địa chỉ trạm (host address). Khi đề nghị NIC cung cấp địa chỉ IP thì ta sẽ không nhận được địa chỉ tương ứng của mỗi máy trạm, thay vào đó là địa chỉ mạng và ta có quyền gán địa chỉ cho các máy trạm của mạng trong phạm vi địa chỉ đã được cung cấp. Những bit quan trọng nhất được sử dụng nhằm xác định có bao nhiêu bit dùng cho địa chỉ mạng (netid) và đại chỉ trạm (hostid). Năm lớp địa chỉ hiện tại được định nghĩa là: lớp A, B, C, D và E. 31 23 24 15 16 7 8 0 1 0 Netid Hostid Class A 1 0 Netid Hostid Class B 1 1 0 Netid hostid Class C 1 1 1 0 Multicast Class D 1 1 1 1 0 dùng cho tương lai Class E Lớp A: địa chỉ mạng chứa trong byte đầu tiên, cho phép định danh tới 126 mạng gồm các địa chỉ 1.0.0.0 đến 127.0.0.0 với tối đa 16 triệu host trên mỗi mạng. Lớp này được dùng cho các mạng có số trạm cực lớn. Lớp B: điạ chỉ mạng là 2 byte đầu tiên cho phép định danh tới 16320 mạng từ 128.0.0.0 đến 191.255.0.0, với tối đa 65024 host trên mỗi mạng. Lớp C: địa chỉ mạng là 3 byte đầu tiên cho phép định danh gần 2 triệu mạng từ 192.0.0.0.1 đến 223.255.0.0 với tối đa 254 host trên mỗi mạng. Lớp này được dung cho các mạng có ít trạm. Lớp D dùng để gửi IP datagram tới một nhóm các host trên một mạng. Lớp E dự phòng để dùng trong tương lai. Trong ví dụ trên, giả sử địa chỉ 149.76.12.4 thuộc lớp B thì địa chỉ mạng của nó là 149.76.0.0 và địa chỉ trạm là 12.4. Trong danh sách địa chỉ liệt kê ở trên, không phải mọi địa chỉ đều được gán cho các trạm. Các thành phần 0 và 255 được dùng cho các mục đích đặc biệt, địa chỉ với phần trạm có các bit bằng 0 được dùng để chỉ ra mạng tương ứng. Còn địa chỉ các các thành phần trạm là các bit bằng 1 là địa chỉ quảng bá định vị cho tất cả các trạm trên mạng đó. Như vậy địa chỉ 149.76.255.255 không có ý nghĩa cho một trạm mà có nghĩa là tất cả các trạm trong mạng 149.76.0.0. Địa chỉ 0.0.0.0 được dùng cho địa chỉ chọn đường mặc định (default route) dùng trong việc chọn đường cho các gói tin IP. Còn 127.0.0.0 gọi là địa chỉ quay ngược (loopback address). Nguyên nhân của việc sử dụng các lớp địa chỉ cụ thể: Các kiểu lớp địa chỉ khác nhau được định nghĩa để đánh địa chỉ cần thiết cho các mạng có kích thước khác nhau. Theo yêu cầu cơ quan có thẩm quyền đăng ký mạng cấp một số tài liệu mạng cho một tổ chức. Đây là trách nhiệm duy nhất của một tổ chức được cấp phát một địa chỉ mạng nhằm cấp cho số máy chủ trong mạng. Số lượng máy chủ có thể gán cho một nhóm mạng cụ thể tùy thuộc vào số bit trong vùng hostid. Số bit trong vùng hostid tùy thuộc vào lớp địa chỉ trên đó nhóm mạng thuộc vào. Một nhóm mạng lớp A có số bit trong vùng hostid lớn nhất , và do đó có số máy chủ lớn nhất. Tương tự một địa chỉ lớp C có số lượng bit trong vùng hostid nhỏ nhất do đó có số lượng máy chủ nhỏ nhất. Ký hiệu thập phân có chấm : Giá trị 32 bit tượng trưng cho 4 số thập phân tương ứng với giá trị thập phân của 4 byte làm thành địa chỉ 32 bit. Các số thập phân cách nhau bởi dấu chấm. Ký hiệu viết tắt này của địa chỉ IP gọi là ký hiệu thập phân có chấm. VD: địa chỉ IP theo nhị phân và ký hiệu thập phân có chấm : IP address: 10010000 0001011 01001010 1001001 IP address: 144.19.74.201 Tính toán một lớp địa chỉ: Khi được cung cấp một địa chỉ IP dạng thập phân có chấm, điều quan trọng là phải biết lớp địa chỉ mà nó thuộc vào . Lớp địa chỉ IP xác định số bit được gán cho vùng hostid. Kích thước vùng hostid giới hạn số lượng máy chủ có thể có trên mạng này. Ngoài ra nó còn được sử dụng để xác định cách phân chia một mạng thành nhiều mạng nhỏ hơn, gọi là mạng con (subnet). Một phương pháp xác định lớp địa chỉ IP là chuyển địa chỉ IP sang dạng nhị phân để kiểm tra một số bit quan trọng đầu tiên (các bit bên trái dạng nhị phân của địa chỉ IP). Những bit quan trọng nhất của địa chỉ IP xác định lớp địa chỉ IP . Nếu bit quan trọng nhất của địa chỉ IP là 0 , địa chỉ IP là một địa chỉ lớp A. Nếu 2 bit quan trong đầu tiên của địa chỉ IP là 10 thì địa chỉ IP là địa chỉ lớp B. Nếu 3 bit quan trong đầu tiên của địa chỉ IP là 110 thì địa chỉ IP là địa chỉ lớp C. Nếu 4 bit quan trong đầu tiên của địa chỉ IP là 110 thì địa chỉ IP là địa chỉ lớp D. Bảng sau trình bày vùng giá trị của số thập phân đầu tiên của địa chỉ IP ở dạng thập phân chấm. Lớp địa chỉ IP Giá trị tối thiểu Giá trị tối đa A 0 126 B 128 191 C 192 223 D 224 239 E 240 247 Những địa chỉ IP đặc biệt: Một giá trị hostid gồm toàn bộ số 0 hoặc 1 không bao giờ được cấp cho một máy chủ TCP/IP riêng. Một địa chỉ IP với giá trị hostid là 0 chỉ rõ chính mạng đó. Nếu giá trị hostid chứa tất cả các bit 1 trong địa chỉ nhị phân thì đây là địa chỉ broadcast có định hướng. Một địa chỉ broadcast được nhìn thấy bởi tất cả các nút mạng trên mạng đó. Địa chỉ local broadcast hoặc limited broadcast 255.255.255.255 được sử dụng trong các mạng cục bộ, nơi một broadcast không bao giờ đi qua. Địa chỉ 0.0.0.0 được sử dụng để tham khảo đến chính mạng đó, nó cũng được sử dụng trong bảng định tuyến để chỉ đến điểm vào mạng cho địa chỉ bộ định tuyến mặc định hay cổng giao tiếp mặc định. Mặt nạ mạng con (subnet mask) Khi một máy tính trên mạng muốn xác định xem địa chỉ IP mà nó sở hữu có ở trên cùng mạng con với máy mà nó đang cố gắng liên lạc hay không? Điều này được trả lời bằng mặt nạ mạng con, tức là một sự kết hợp các bit 0 và 1 kiểu như sau: 11111111 11111111 11111111 00000000 Hai máy có cùng địa chỉ mạng và mặt nạ mạng thì thuộc cùng một mạng. Chú ý ràng các mạng thuộc lớp A, B hoặc C người ta thường có nhu cầu chia các mạng này thành nhiều mạng con, mặt nạ mạng xác định các máy tính nằm trong mạng lớn có thuộc cùng mạng con hay không. Giao thức phân giải địa chỉ: giao thức ARP, giao thức RARP ARP (Address Resolution Protocol) Trên các mạng TCP/IP, giao thức ARP được dùng để tìm một địa chỉ MAC tương ứng với một địa chỉ IP. Giao thức này sử dụng phương pháp quảng bá, ý tưởng cơ bản của nó là khi cần tìm ông X trong 100 người thì ta chỉ việc gọi to tên ông ta lên và ông X sẽ trả lời nếu ông có ở đó. Khi ARP muốn tìm một địa chỉ MAC tương ứng với địa chỉ IP, nó sử dụng một gói tin ARP và quảng bá gói tin đó tới các máy tính khác trên mạng. Trên gói tin này có chứa địa chỉ IP cần chuyển đổi. Các máy khác sẽ so sánh địa chỉ này với địa chỉ IP của chúng, nếu trùng nhau nó sẽ gửi địa chỉ MAC của nó trở lại cho trạm có yêu cầu. RARP (Reverse Address Resolution Protocol) Trong một số trường hợp người ta cần tìm ánh xạ ngược: tìm một địa chỉ IP tương ứng với một địa chỉ MAC. Chẳng hạn trong trường hợp khởi động máy tính qua mạng (network boot). Máy tính cần khởi động chỉ có thông tin về MAC, nó sẽ gửi các gói tin quảng bá và một boot server sẽ tìm địa chỉ IP tương ứng cho nó. Giao thức này gọi là RARP. Cùng với giao thức BOOTP, RAPP được sử dụng rộng rãi trong việc khởi động một máy tính không có ổ cứng qua mạng. DỊCH VỤ DHCP Cấu hình động là gì, cơ chế hoạt động của DHCP Cấu hình động DHCP được thiết kế làm giảm thời gian chỉnh cấu hình cho mạng TCP/IP bằng cách tự động gán các địa chỉ IP cho máy khách khi tham gia vào mạng. DHCP tập trung việc quản lý địa chỉ IP ở các máy tính trung tâm chạy chương trình DHCP. Máy chủ DHCP tự động cho người dùng thuê địa chỉ IP khi họ vào mạng. Bạn chỉ cần đặc tả phạm vi các địa chỉ có thể cho thuê tại máy chủ DHCP. Bạn sẽ không bị ai quấy rầy về nhu cầu biết địa chỉ IP. DHCP tự động quản lý các địa chỉ IP và loại bỏ được các lỗi có thể làm mất liên lạc. Nó tự động gán lại các địa chỉ chưa được sử dụng. DHCP cho thuê địa chỉ trong một khoảng thời gian, có nghĩa là những địa chỉ nầy sẽ còn dùng được cho các hệ thống khác. Bạn hiếm khi biết hết địa chỉ. DHCP tự động gán địa chỉ IP thích hợp với mạng con chứa máy trạm này. Cũng vậy, DHCP tự động gán địa chỉ cho người dùng di động tại mạng con họ kết nối. Cơ chế hoạt động Bước 1: Máy trạm khởi động với “địa chỉ IP rỗng” cho phép liên lạc với máy chủ DHCP bằng giao thức TCP/IP. Nó chuẩn bị một thông điệp chứa địa chỉ MAC (ví dụ địa chỉ của card Ethernet) và tên máy tính. Thông điệp nầy có thể chứa địa chỉ IP trước đây đã thuê. Máy trạm phát tán liên tục thông điệp nầy lên mạng cho đến khi nhận được phản hồi từ máy chủ. Bước 2: Mọi máy chủ DHCP có thể nhận thông điệp và chuẩn bị địa chỉ IP cho máy trạm. Nếu máy chủ có cấu hình hợp lệ cho máy trạm, nó chuẩn bị thông điệp “chào hàng” chứa địa chỉ MAC của khách, địa chỉ IP “chào hàng”, mặt nạ mạng con (subnet mask), địa chỉ IP của máy chủ và thời gian cho thuê. Địa chỉ “chào hàng” được đánh dấu là “reserve” (để dành). Máy chủ DHCP phát tán thông điệp chào hàng này lên mạng. Bước 3: Khi khách nhận thông điệp chào hàng và chấp nhận một trong các địa chỉ IP, máy trạm phát tán thông điệp nầy để khẳng định nó đã chấp nhận địa chỉ IP và từ máy chủ DHCP nào. Bước 4: Cuối cùng, máy chủ DHCP khẳng định toàn bộ sự việc với máy trạm. Các lựa chọn DHCP DHCP không bổ sung thêm các vùng cố định vào định dạng thông điệp BOOTP, cũng không thay đổi ý nghĩa của hầu hết các vùng. Ví dụ, vùng OP trong thông điệp DHCP chứa cùng giá trị như vùng OP trong thông điệp BOOTP, chúng hoặc là yêu cầu boot (1) hoặc là đáp lời boot (2). Để mã hoá thông tin như là thời hạn thuê mượn, DHCP sử dụng options. Vùng tuỳ chọn có cùng định dạng như VENDOR SPECIFIC AREA, và DHCP chấp nhận tất cả các thông tin theo đặc trưng của nhà sản xuất như đã được định nghĩa cho BOOTP. Cũng như trong BOOTP, mỗi chọn lựa bao gồm một vùng mã 1-octet và một vùng độ dài 1-octet, tiếp theo sau là các octet dữ liệu của chọn lựa này. Như chúng ta thấy trong hình, chọn lựa được sử dụng để xác định kiểu thông điệp DHCP bao gồm dùng ba octet. Octet đầu tiên chứa mã 53, octet thứ hai chứa độ dài là 1, và octet thứ ba chứa một giá trị được dùng để định danh một trong các thông điệp DHCP. DỊCH VỤ DNS Tại sao cần DNS. Việc định danh các phần tử của liên mạng bằng con số như trong địa chỉ IP rõ ràng là không làm cho người sử dụng hài lòng, bởi chúng khó nhớ dễ nhầm lẫn. Vì thế người ta xây dựng hệ thống tên cho các phần tử của Internet, cho phép người sử dụng chỉ cần nhớ đến các tên chứ không cần nhớ các địa chỉ IP nữa. Việc định danh bằng tên cũng có những vấn đề của nó: tên phải là duy nhất và cần phải có cách để chuyển đổi tương ứng giữa các tên và các địa chỉ số. Đối với một liên mạng tầm cỡ toàn cầu với hàng chục triệu người dùng như Internet đòi hỏi phải có một hệ thống đặt tên trực tuyến và phân tán thích hợp. Hệ thống này được gọi là DNS( Domain Name System). Hệ thống tên miền. DNS là một phương pháp quản lý các tên bằng cách giao trách nhiệm phân cấp cho các nhóm tên. Mối cấp trong một hệ thống được gọi là một miền (domain), các miền được tách nhau bởi dấu chấm Domain có dạng tổng
Tài liệu liên quan