1.1. Nguồn gốc, bản chất và chức năng của Nhà nước
Khái niệm Nhà nước
Nhà nước là một hiện tượng xã hội đa dạng và phức tạp được nhiều ngành khoa học
nghiên cứu ở các góc độ, phạm vi khác nhau và cũng có nhiều quan niệm khác nhau về
Nhà nước.
Aristote cho rằng: Nhà nước là sự kết hợp của các gia đình. Một số tác giả khác lại cho
rằng: Nhà nước là một đơn vị chính trị độc lập, có một vũng lãnh thổ được công nhận là
dưới quyền thống trị của nó1. Nhà nước là một tổ chức quyền lực chính trị của xã hội có
giai cấp, có lãnh thổ, dân cư và chính quyền độc lập, có khả năng đặt ra và thực thi pháp
luật nhằm thiết lập trật tự xã hội nhất định trong phạm vi lãnh thổ của mình2. I Kant lại
cho rằng: Nhà nước là sự liên kết của nhiều người phục tùng pháp luật. Nhà nước là
trong tư tưởng là cái gì đó phải phù hợp với các nguyên tắc của pháp luật. Một số học
giả khác lại cho rằng: Nhà nước hiểu theo nghĩa rộng là một tập hợp các thể chế nắm giữ
phương tiện cưỡng chế hợp pháp, thi hành trên một vùng lãnh thổ được xác định và
người dân sinh sống trong xã hội đó được đề cập đến như một xã hội3.
Khi nghiên cứu về nguồn gốc nhà nước, Ăngghen đã đưa ra một số quan niệm về nhà
nước. Ông cho rằng: Nhà nước là sản phẩm của xã hội đã phát triển đến một giai đoạn
nhất định, khi xã hội đã phân chia thành giai cấp và mâu thuẫn giai cấp không thể điều
hòa được, Nhà nước là lực lượng nảy sinh từ xã hội nhưng lại đứng trên xã hội, có
nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và làm cho nó nằm trong vòng trật tự4.
Phát triển quan điểm của Ăngghen về nhà nước, Lênin cho rằng: Nhà nước bao giờ cũng
là một bộ máy nhất định, nó tự tách ra từ xã hội và gồm một nhóm người chỉ chuyên hay
chủ yếu chỉ chuyên làm công tác cai trị xã hội5.
Như vậy, có nhiều cách tiếp cận và nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm nhà nước.
Nhà nước là một hiện tượng đa dạng, phức tạp. Nhà nước là một hình thức tổ chức của
con người, nhà nước là một bộ phận của xã hội. Nhà nước được tổ chức ra để quản lý và
điều hành xã hội.
Từ đó có thể đưa ra khái niệm về nhà nước như sau: Nhà nước là tổ chức quyền lực đặc
biệt của xã hội, bao gồm một lớp người được tách ra từ xã hội để chuyên thực thi quyền
lực, nhằm tổ chức và quản lý xã hội, phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội cũng như lực
lượng cầm quyền trong xã hội6.
23 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 387 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Lý luận nhà nước và pháp luật - Bài 1: Lý luận về Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài 1: Lý luận về Nhà nước
LAW101_Bai1_v2.0018105228
1
Bài 1 LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC
Nội dung Mục tiêu
Trong bài này, người học sẽ được tiếp cận
các nội dung:
• Nguồn gốc ra đời của Nhà nước;
• Bản chất và chức năng của Nhà nước;
• Kiểu nhà nước;
• Hình thức nhà nước.
Xác định được nguồn gốc ra đời của Nhà nước
• Xác định được bản chất, chức năng của
Nhà nước.
• Xác định được các kiểu và hình thức nhà
nước trong lịch sử nhân loại.
Hướng dẫn học
Để học tốt bài này sinh viên cần:
• Học đúng lịch trình của môn học theo tuần,
làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia thảo
luận trên diễn đàn.
• Đọc tài liệu:
o Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình
Lý luận Nhà nước và Pháp luật, NXB.
Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2015.
o Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Khoa
Luật, TS Nguyễn Thị Huế (chủ biên), Giáo
trình Đại cương về Nhà nước và pháp luật,
NXB. Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội,
năm 2017.
• Sinh viên làm việc theo nhóm và trao đổi với
giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc
qua email.
• Trang web môn học.
Bài 1: Lý luận về Nhà nước
LAW101_Bai1_v2.0018105228
2
TÌNH HUỐNG DẪN NHẬP
Quan niệm về bản chất nhà nước
Cái làm cho sự vật, hiện tượng tồn tại như chính nó được xác định là bản chất. Bản chất của sự
vật, hiện tượng là cái tuyệt đối trong khi nhận thức của con người ta chỉ là tương đối. Bản chất
của sự vật, hiện tượng được phản ánh tương ứng với những thang bậc nhận thức của con người
được triết học xác định là “bản chất cấp một”, “bản chất cấp hai” Do không nắm được những
nguyên lý cơ bản của lý luận nhận thức ấy mà có giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp
luật đã nêu đến “ba” bản chất của Nhà nước kiểu mới, gồm bản chất giai cấp công nhân, bản chất
dân chủ và bản chất là tổ chức có chức năng chủ yếu là sáng tạo, xây dựng xã hội mới.
Bản chất của Nhà nước còn là vấn đề chính trị, nó được giải thích dưới sự chi phối của những lợi
ích chính trị khác nhau. Đã một thời các luật gia, những nhà chính luận tư sản ra sức đề cao
những giá trị xã hội của Nhà nước tư sản, che mờ tính chất giai cấp của Nhà nước, trong khi lý
luận về nhà nước xã hội chủ nghĩa lại tuyệt đối hóa tính chất giai cấp của Nhà nước, rất ít coi
trọng nghiên cứu và phát huy những chức năng xã hội của Nhà nước.
Nhà nước là những hiện tượng hết sức phức tạp, trước hết là phức tạp về bản chất. Bản chất của
Nhà nước là tổng hòa của những thuộc tính được hình thành trong quá trình tồn tại, phát triển
của nó, và được biểu hiện ra trong toàn bộ các quan hệ của nó với xã hội, với giai cấp, dân tộc,
với các quốc gia khác trong các quan hệ chính trị quốc tế. Tính chất và nội dung của những quan
hệ ấy cũng là yếu tố quy định bản chất của Nhà nước. Có những thuộc tính có tính phổ biến ở tất
cả các nhà nước, như thuộc tính về chủ quyền, về quyền lực Song, có những thuộc tính, những
mối quan hệ mà tính chất và nội dung của nó quy định sự khác biệt giữa bản chất của kiểu nhà
nước này với bản chất của kiểu nhà nước khác.
Nhà nước ta, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời sau thắng lợi của Cách mạng
tháng Tám năm 1945, xét về bản chất đã là nhà nước thuộc kiểu xã hội chủ nghĩa. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng, Nhà nước ta đã trải qua những giai đoạn phát triển khác nhau, từ nhà nước dân
chủ nhân dân có sứ mệnh thực hiện cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân lên nhà nước
cộng hòa xã hội chủ nghĩa, với sứ mệnh thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả
nước, và giờ đang trong quá trình chuyển thành nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Gắn với ba trình độ phát triển ấy là sự hình thành ngày càng đầy đủ, ngày càng
sâu sắc hơn những thuộc tính làm lên bản chất kiểu mới của Nhà nước. Tuy nhiên, trong bối
cảnh của kinh tế thị trường, toàn cầu hóa hiện nay nhà nước cũng như bất kỳ thiết chế nào khác
đều phải đứng trước những nguy cơ, thách thức lớn, thậm chí có thể bị thay đổi bản chất. Điều
đó cũng đồng nghĩa với sự thay đổi chế độ, đảo lộn thể chế và định hướng phát triển. Trong điều
kiện như vậy việc nhận thức bản chất của Nhà nước nhằm giữ vững bản chất tốt đẹp của Nhà
nước đặt ra những vấn đề có tính phương pháp luận sau:
• Những thuộc tính, những mối quan hệ, cái tạo thành và thể hiện bản chất của Nhà nước
không phải là bất biến; có thể có những thuộc tính mới xuất hiện, những nội dung của các
thuộc tính, tính chất và nội dung của các mối quan hệ bản chất có thể thay đổi cùng với quá
trình phát triển của Nhà nước, theo sự thích ứng của nó trước những biến đổi sâu sắc của xã
hội, của thời đại. Trong sự thích ứng ấy, vai trò của nhân tố chủ quan, trước hết là vai trò của
đảng cầm quyền có ý nghĩa quyết định.
Bài 1: Lý luận về Nhà nước
LAW101_Bai1_v2.0018105228
3
• Những thuộc tính tạo thành bản chất của Nhà nước không tồn tại độc lập với nhau mà quan
hệ tương tác với nhau; tính chất và nội dung của các mối quan hệ bản chất đó vừa thể hiện
bản chất của Nhà nước, vừa là cái phân biệt bản chất của các kiểu nhà nước, giữa kiểu nhà
nước bóc lột (nhà nước kiểu cũ) với nhà nước kiểu mới, nhà nước xã hội chủ nghĩa. Các nhà
nước cho dù là nhà nước nào cũng có tính (thuộc tính) giai cấp, tính xã hội, song trong nhà
nước kiểu cũ tính giai cấp và tính xã hội đối lập nhau; tính giai cấp càng sâu sắc thì tính xã
hội càng bị thu hẹp, nhà nước của thiểu số bóc lột ngày càng đối lập gay gắt với xã hội, với
đa số nhân dân. Ngược lại, trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, tính giai cấp công nhân càng sâu
sắc thì tính xã hội ngày càng rộng rãi, nhà nước do Đảng, đội tiên phong của giai cấp công
nhân lãnh đạo song là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tính dân tộc cũng là một thuộc tính của Nhà nước, bởi giai cấp thống trị nhà nước cũng là giai
cấp đại diện cho dân tộc trong quan hệ với các dân tộc khác, thông qua nhà nước để bảo vệ lợi
ích của dân tộc mà nó đại diện. Song, tính dân tộc của Nhà nước kiểu cũ luôn đối lập với tính
quốc tế. Nhà nước kiểu cũ trong khi đề cao lợi ích của dân tộc mà nó đại diện thì lại coi thường,
chà đạp lợi ích của dân tộc khác, trở thành nhà nước sô vanh, nhà nước bành trướng. Ngược lại,
nhà nước kiểu mới trong khi coi trọng, bảo vệ lợi ích của dân tộc mình thì luôn ủng hộ phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc, thực hiện đường lối đối ngoại tích cực trên cơ sở tôn trọng chủ
quyền, vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng có lợi giữa các dân tộc.
PGS.TS. LÊ VĂN HÒE – Học viện Chính trị – Hành chính Quốc gia
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ
Trích dẫn từ:
va-toan-cau-hoa
1. Nguyên nhân nào dẫn đến sự ra đời của Nhà nước?
2. Bản chất của Nhà nước được biểu hiện như thế nào?
3. Hình thức nhà nước, các yếu tố cấu thành hình thức nhà nước? Hình thức
nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam?
4. Quyền lực nhà nước là gì? Tại sao phải có quyền lực nhà nước?
Bài 1: Lý luận về Nhà nước
LAW101_Bai1_v2.0018105228
4
1.1. Nguồn gốc, bản chất và chức năng của Nhà nước
Khái niệm Nhà nước
Nhà nước là một hiện tượng xã hội đa dạng và phức tạp được nhiều ngành khoa học
nghiên cứu ở các góc độ, phạm vi khác nhau và cũng có nhiều quan niệm khác nhau về
Nhà nước.
Aristote cho rằng: Nhà nước là sự kết hợp của các gia đình. Một số tác giả khác lại cho
rằng: Nhà nước là một đơn vị chính trị độc lập, có một vũng lãnh thổ được công nhận là
dưới quyền thống trị của nó1. Nhà nước là một tổ chức quyền lực chính trị của xã hội có
giai cấp, có lãnh thổ, dân cư và chính quyền độc lập, có khả năng đặt ra và thực thi pháp
luật nhằm thiết lập trật tự xã hội nhất định trong phạm vi lãnh thổ của mình2. I Kant lại
cho rằng: Nhà nước là sự liên kết của nhiều người phục tùng pháp luật. Nhà nước là
trong tư tưởng là cái gì đó phải phù hợp với các nguyên tắc của pháp luật. Một số học
giả khác lại cho rằng: Nhà nước hiểu theo nghĩa rộng là một tập hợp các thể chế nắm giữ
phương tiện cưỡng chế hợp pháp, thi hành trên một vùng lãnh thổ được xác định và
người dân sinh sống trong xã hội đó được đề cập đến như một xã hội3.
Khi nghiên cứu về nguồn gốc nhà nước, Ăngghen đã đưa ra một số quan niệm về nhà
nước. Ông cho rằng: Nhà nước là sản phẩm của xã hội đã phát triển đến một giai đoạn
nhất định, khi xã hội đã phân chia thành giai cấp và mâu thuẫn giai cấp không thể điều
hòa được, Nhà nước là lực lượng nảy sinh từ xã hội nhưng lại đứng trên xã hội, có
nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và làm cho nó nằm trong vòng trật tự4.
Phát triển quan điểm của Ăngghen về nhà nước, Lênin cho rằng: Nhà nước bao giờ cũng
là một bộ máy nhất định, nó tự tách ra từ xã hội và gồm một nhóm người chỉ chuyên hay
chủ yếu chỉ chuyên làm công tác cai trị xã hội5.
Như vậy, có nhiều cách tiếp cận và nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm nhà nước.
Nhà nước là một hiện tượng đa dạng, phức tạp. Nhà nước là một hình thức tổ chức của
con người, nhà nước là một bộ phận của xã hội. Nhà nước được tổ chức ra để quản lý và
điều hành xã hội.
Từ đó có thể đưa ra khái niệm về nhà nước như sau: Nhà nước là tổ chức quyền lực đặc
biệt của xã hội, bao gồm một lớp người được tách ra từ xã hội để chuyên thực thi quyền
lực, nhằm tổ chức và quản lý xã hội, phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội cũng như lực
lượng cầm quyền trong xã hội6.
1.1.1. Nguồn gốc của Nhà nước
Lịch sử tư tưởng pháp lý của nhân loại đã có nhiều cách tiếp cận khác nhau và có các
cách lý giải không giống nhau về nguồn gốc của Nhà nước.
1 Nicholas Bates, Margaret Bates, Carolyn Walker, Legal studies for Victoria, Butterwoths – 1995, tr9
2 Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Từ điển Luật học, NXB Từ điển bách khoa – NXB Tư pháp, Hà Nội 2006, tr584
3 Ngân hàng thế giới: Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi, Báo cáo về tình hình thế giới năm 1997, NXB
Chính trị quốc gia, 1998, tr34
4 Mác- Ăngghen toàn tập, Tập 21, NXB Chính trị quốc gia, 2004, tr253
5 Lênin toà tập, tập 39, NXB Tiến bộ, 1976, tr84
6 Trường Đại học Luật hà Nội, Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, NXB Tư Pháp, 2016, tr 25
Bài 1: Lý luận về Nhà nước
LAW101_Bai1_v2.0018105228
5
Các nhà tư tưởng theo chủ nghĩa duy tâm cho rằng: Nhà nước là hiện thực của ý niệm
đạo đức, là hiện tượng lý tính, là sản phẩm của tư duy con người, do con người nghĩ ra
và đặt tên cho nó7.
Các nhà tư tưởng theo thuyết thần học đã cố giải thích về sự xuất hiện của Nhà nước
theo đó, Nhà nước như là một lực lượng siêu tự nhiên. Là sản phẩm do thượng đế tạo ra
để duy trì và ổn định trật tự xã hội, quyền lực của Nhà nước là bất biến, Nhà nước tồn tại
vĩnh cửu. Do đó, con người có nghĩa vụ phải phục tùng vô hạn đối với Nhà nước, bởi
phục tùng nhà nước chính là phục tùng thượng đế.
Các nhà tư tưởng theo thuyết gia trưởng lại cho rằng: Nhà nước là kế tục sự phát triển tự
nhiên của tổ chức gia đình trên bình diện xã hội. Đó chính là phương thức tổ chức đời
sống của con người. Do đó, Nhà nước là một hiện tượng khách quan tồn tại cùng với sự
phát triển của con người, là một hiện tượng tự nhiên của xã hội. Nhà nước có trong mọi
xã hội và quyền lực nhà nước cũng giống như quyền gia trưởng của người đứng đầu
gia đình.
Các nhà tư tưởng theo thuyết bạo lực thì cho rằng: Nhà nước xuất hiện trực tiếp từ việc
sử dụng bạo lực của thị tộc này đối với thị tộc khác mà kết quả là thị tộc chiến thắng lập
ra một hệ thống cơ quan đặc biệt gọi là Nhà nước để nô dịch kẻ chiến bại. Bởi xã hội là
tập hợp của những cá nhân riêng lẻ, không giống nhau và thường xuyên có xung đột về
lợi ích, quyền lực, điều đó dẫn đến các cuộc chiến tranh giữa các thị tộc. Kẻ chiến thắng
trong cuộc chiến tranh đó lập ra Nhà nước để đảm bảo sự cân bằng xã hội.
Các nhà tư tưởng tư sản đã lý giải về nguồn gốc của Nhà nước không phụ thuộc vào các
quan điểm tôn giáo mà cho rằng: Nhà nước là kết quả hay khế ước (hợp đồng) xã hội.
Đây là sự thỏa thuận giữa những con người sống trong trạng thái tự nhiên của xã hội
(vốn có các quyền được sống, tự do, bình đẳng, sở hữu tài sản,... là các quyền tự nhiên,
thiêng liêng và bất khả xâm phạm) với tổ chức được giao quyền lực công gọi là Nhà
nước để thay mặt họ quản lý xã hội. Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, vì lợi ích
của nhân dân. Trong trường hợp nhà nước không giữ được vai trò của mình thì khế ước
sẽ mất hiệu lực, nhân dân có quyền lật đổ nhà nước và thiết lập khế ước mới.
Trong xã hội tư bản, các học giả tư sản đã cố gắng tìm kiếm và lý giải về nguồn gốc của
Nhà nước. Tuy nhiên, cách lý giải về nguồn gốc nhà nước còn thể hiện sự phiến diện,
thiếu khách quan, do chưa đề cập đến bản chất giai cấp vốn có của Nhà nước. Dẫn đến
các lý giải về nguồn gốc của Nhà nước thiếu cơ sở khoa học và độ tin cậy.
Theo học thuyết Mác – Lênin, Nhà nước không phải là hiện tượng xã hội vĩnh cửu, bất
biến. Nhà nước không phải là lực lượng do con người tự nghĩ ra hay được áp đặt từ bên
ngoài vào xã hội. Nhà nước là một lực lượng xuất hiện một cách khách quan do nhu cầu
của xã hội và khi xã hội đã phát triển đến một giai đoạn nhất định. Nhà nước là một
phạm trù lịch sử, có quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong. Nhà nước là sản phẩm
của xã hội, nó xuất hiện khi xã hội phát triển đến một trình độ nhất định với những
nguyên nhân khách quan. Nhà nước sẽ diệt vong khi những nguyên nhân khách quan ấy
không còn nữa.
• Chế độ cộng sản nguyên thủy
7Heghen, Các nguyên lý của triết học pháp quyền, Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải, NXB Tri thức trẻ, 2010, tr285.
Bài 1: Lý luận về Nhà nước
LAW101_Bai1_v2.0018105228
6
Chế độ cộng sản nguyên thủy là tổ chức xã hội đầu tiên của loài người, xuất hiện trên
cơ sở con người tiến hóa từ động vật bậc cao qua lao động và ngôn ngữ.
Về mặt kinh tế, nền kinh tế tự nhiên nguyên thủy rất thấp kém, dựa trên cơ sở chế độ
sở hữu chung của cộng đồng về tư liệu sản xuất. Công cụ lao động chủ yếu là những
thứ do tự nhiên mang lại như gỗ, đá. Chế độ sở hữu của xã hội cộng sản nguyên thủy
đã quyết định đối với đặc điểm quá trình lao động của người nguyên thủy hoàn toàn
mang tính tự nhiên, chưa có yếu tố phân công lao động xã hội. Các thành viên trong
cộng đồng cùng lao động thông qua các hoạt động săn bắn, hái lượm một cách tự
giác, phụ thuộc vào năng lực của mỗi người. Con người nguyên thủy sống hoàn toàn
dựa vào tự nhiên. Với phương thức lao động đó nên nguyên tắc phân phối sản phẩm
tương ứng giữa các thành viên là hoàn toàn bình đẳng, các thành viên cùng lao động
và cùng hưởng thụ những thành quả lao động của cộng đồng.
Về mặt xã hội, tổ chức xã hội của người nguyên thủy là tàn dư của lối sống quần cư,
huyết thống, hoang dã, mông muội, chưa có giai cấp, chưa có nhà nước và pháp luật.
Để chống chọi với tự nhiên và tồn tại, con người phải liên kết và nương tựa vào
nhau. Do vậy, mối quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng nguyên thủy có tính
chất bền vững. Các thành viên xã hội không có sự khác biệt nhau về lợi ích kinh tế,
địa vị xã hội. Sự bình đẳng tuyệt đối về mọi mặt của các thành viên trong xã hội
nguyên thủy được thể hiện rất rõ nét. Đơn vị cơ sở tổ chức xã hội là thị tộc, bào tộc
và bộ lạc.
Thị tộc là nhóm người chung sống cùng nhau dựa trên cơ sở huyết thống. Trong thị
tộc có các trưởng lão, thủ lĩnh quân sự và tù trưởng. Các thành viên trong thị tộc hợp
lại thành Hội đồng thị tộc. Hội đồng thị tộc quyết định những vấn đề quan trọng của
thị tộc, là cơ quan quyền lực cao nhất của thị tộc, mặc dù thế, hội đồng thị tộc cũng
không tách khỏi cộng đồng hay đứng trên cộng đồng. Hội đồng bào tộc là cơ quan
quyền lực cao nhất, bao gồm các trưởng lão, thủ lĩnh quân sự, tù trưởng của các thị
tộc trong bào tộc. Hội đồng bào tộc quyết định những vấn đề quan trọng của bào tộc.
Bộ lạc là đơn vị xã hội lớn nhất của người nguyên thủy. Bộ lạc có lãnh địa riêng và
thậm chí có cả thổ ngữ riêng, mặc dù tính bầy đàn trong lối sống của người nguyên
thủy vẫn phổ biến.
Về mặt quyền lực, trong xã hội nguyên thủy, quyền lực xã hội là quyền lực chung
của cộng đồng, phục vụ cho các mục đích chung của cả cộng đồng. Quyền lực trong
xã hội nguyên thủy không thuộc về cá nhân hay nhóm cá nhân nào mà hòa nhập vào
cộng đồng. Mọi thành viên trong các đơn vị xã hội nguyên thủy đều có quyền và lợi
ích ngang nhau, không ai có bất kỳ đặc quyền, đặc lợi nào so với các chủ thể khác.
Xã hội nguyên thủy với những đặc trưng vốn có chưa hội tụ đủ các yếu tố để nhà
nước ra đời. Theo Lênin: Khi đó không có Nhà nước, không có bộ máy đặc biệt để
dùng bạo lực một cách có hệ thống và bắt buộc người ta phải dùng bạo lực8. Nhà
nước chỉ ra đời khi xã hội đã phát triển đến một giai đoạn nhất định.
• Sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy và sự xuất hiện nhà nước
8 V.I. Lê nin toàn tập, tập 39, NXB Tiến Bộ. 1977, tr80
Bài 1: Lý luận về Nhà nước
LAW101_Bai1_v2.0018105228
7
Xã hội nguyên thủy dần tiến hóa do nhận thức của con người nguyên thủy ngày một
phát triển. Xã hội nguyên thủy trải qua 3 lần phân công lao động xã hội lớn:
o Lần phân công lao động xã hội thứ nhất: Nghề chăn nuôi tách khỏi trồng trọt, đây
là cơ sở để xuất hiện mầm mống của chế độ tư hữu do con người nguyên thủy đã
chủ động hơn trong việc tạo ra nguồn lương thực phục vụ nhu cầu sống của mình
mà không sống hoàn toàn lệ thuộc vào tự nhiên như trước đó nữa. Do xã hội đã
xuất hiện những sản phẩm dư thừa, đồng thời cũng xuát hiện nhu cầu chiếm giữ
sản phẩm dư thừa đó. Hiện tượng đó đã làm cho xã hội phân chia thành kẻ giàu,
người nghèo, quan hệ xã hội dần biến đổi, chế độc chiếm hữu nô lệ dần xuất hiện.
Chế độ hôn nhân quần hôn, cận huyết dần được thay thế bằng chế độ hôn nhân
một vợ một chồng. Gia đình cá thể đã trở thành lực lượng đang đe dọa thị tộc9.
o Lần phân công lao động xã hội thứ hai, thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp do
sự kiện con người tìm ra kim loại và biết sử dụng kim loại để chế tạo công cụ lao
động, năng suất lao động xã hội ngày một tăng lên. Sau lần phân công lao động xã
hội thứ hai, quá trình phân hóa xã hội diễn ra ngày một mạnh mẽ. Nô lệ đã trở
thành một lực lượng xã hội với số lượng ngày càng lớn, sự phân biệt giữa kẻ giàu,
người nghèo ngày càng sâu sắc, đối kháng giai cấp ngày càng gia tăng.
o Lần phân công lao động xã hội thứ ba, nền sản xuất hàng hóa và tiền tệ ra đời,
thương mại phát triển, tầng lớp thương nhân xuất hiện làm cho quá trình tích tụ và
tập trung của cải vật chất vào tay một số người giàu có diễn ra nhanh chóng. Điều
đó thúc đẩy sự bần cùng hóa và sự tăng nhanh của số lượng người nghèo. Số
lượng nô lệ ngày càng tăng mạnh cùng với đó là sự cưỡng bức, bóc lột ngày càng
nặng nề của giai cấp chủ nô.
Như vậy, sau ba lần phân công lao động xã hội, nhiều yếu tố mới xuất hiện đã làm
đảo lộn đời sống thị tộc, chế độ thị tộc đã tỏ ra bất lực. Đứng trước sự biến đổi lớn
của xã hội với khối đông dân cư không thuần nhất đó, những cộng đồng thị tộc vốn dĩ
là những tổ chức khép kín không thể đứng vững được. Bởi tổ chức thị tộc sinh ra từ
xã hội không biết đến mâu thuẫn nội tại, chỉ thích hợp với kiểu xã hội đó thì nay, khi
xã hội mới xuất hiện – xã hội mà ở đó đã phân chia thành các giai cấp đối kháng
nhau, luôn mâu thuẫn và đấu tranh gay gắt với nhau để bảo vệ lợi ích của giai cấp
mình, tổ chức thị tộc bất lực, không thể phù hợp được nữa. Thực trạng của xã hội đó
đòi hỏi phải có một tổ chức mới đủ sức sức mạnh để dập tắt cuộc xung đột công khai
giữa các giai cấp đối kháng, làm cho cuộc đấu tranh của các giai cấp đó diễn ra trong
lĩnh vực kinh tế, dưới hình thức hợp pháp. Tổ chức đó là Nhà nước.
Như vậy, Nhà nước chỉ xuất hiện trong xã hội đã có các giai cấp đối kháng, làm dịu
bớt sự xung đột giai cấp, giữa cho sự xung đột đó nằm trong vòng trật tự. Nhà nước
xuất hiện bởi những đòi hỏi khách quan của đời sống xã hội.
Như vậy, nguyên nhân trực tiếp của sự xuất hiện nhà nước là mâu thuẫn giai cấp không
thể điều hòa được. V.I.Lênin nhận định: Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những
mâu thuẫn