• Nhu cầu bảo mật thông tin có những thay đổi lớn trong thời gian gần đây
“We use computers for everything from banking and investing to shopping and communicating with others through email or chat programs. Although you may not consider your communications "top secret," you probably do not want strangers reading your email, using your computer to attack other systems, sending forged email from your computer, or examining personal information stored on your computer (such as financial statements).” - by CERT
31 trang |
Chia sẻ: mamamia | Lượt xem: 1781 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng mã hóa và an toàn mạng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN
KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
BÀI GIẢNG
MÃ HÓA VÀ AN TOÀN MẠNG
Biên Soạn NGUYỄN MINH NHẬT
ĐÀ NẴNG, 6/2006
Chương 1 TỔNG QUAN VỀ AN TÒAN MẠNG
Mở đầu
Nhu cầu bảo mật thông tin có những thay đổi lớn trong thời gian gần đây
“We use computers for everything from banking and investing to shopping and communicating with others through email or chat programs. Although you may not consider your communications "top secret," you probably do not want strangers reading your email, using your computer to attack other systems, sending forged email from your computer, or examining personal information stored on your computer (such as financial statements).” - by CERT
Biện pháp truyền thống là sử dụng các máy móc quản lý và các trang thiết bị hỗ trợ
Máy tính được sử dụng như một công cụ tự động hoá để bảo vệ dữ liệu và những những thông tin lưu trữ khác.
Việc sử dụng mạng và các kết nối giao tiếp đòi hỏi giải pháp để bảo vệ dữ liệu trong suốt quá trình truyền
Có một số các định nghĩa cần nắm rõ:
An toàn máy tính (Computer Security) – Là một tiến trình ngăn chặn và phát hiện sử dụng không hợp pháp vào máy tính của bạn bằng cách lựa chọn các công cụ thiết kế để bảo vệ dữ liệu và tấn công của hackers ( hầu hết là các
An toàn mạng (Network Security) – Là các phương pháp để bảo vệ dữ liệu trong suốt quá trình chuyển động của chúng.
An toàn Internet (Internet Security) – Là các phương pháp để bảo vệ dữ liệu trong suốt quá trình vận chuyển của chúng ra ngoài đến kết nối internet
Các tiêu điểm chính
Trọng tâm của bài giảng này về bảo mật mạng (Internet Security)
Bao gồm các giải pháp để ngăn chặn, phòng ngừa, phát hiện và hiệu chỉnh các vi phạm bảo mật mà có liên quan đến trao đổi thông tin.
Nguy cơ ảnh hưởng đến an toàn mạng
1.2.1. Nguy cơ và lỗ hổng
Sự an toàn thông tin được liên quan với 3 vấn đề chính :
Thông tin - bí mật : Thông tin chỉ cung cấp tới những người một cách chính đáng khi có sự truy nhập hợp pháp tới nó.
Thông tin - Toàn vẹn : Thông tin chỉ được điểu khiển (sửa đổi, thay thế v.v…) bởi những người được quyền ủy thác.
Thông tin - sẵn sàng : Thông tin có thể tiếp cận đối với những người mà cần nó khi có yêu cầu.
Những khái niệm này ứng dụng cho những người sử dụng Internet tại nhà hay ở bất kỳ tập đoàn mạng hay chính phủ nào. Thông thường, chúng ta không cho phép một người lạ mặt xuyên qua những tài liệu quan trọng của mình, muốn giữ những công việc của mình thực hiện trên máy tính một cách bí mật. Đồng thời, cần phải có bảo đảm rằng các thông tin trên máy tính của mình không bị sứt mẻ … và sẵn sàng khi bạn cần nó.
Một số nguy cơ an ninh xuất hiện từ khả năng :
Sự lạm dụng của máy tính của các bạn bởi những người làm phiền qua Internet.
Đối mặt thường xuyên khi làm việc trên Internet
Sự ngẫu nhiên do khi cài đặt các phần mềm hay sử dụng các dịch vụ không chính thống v.v…
Chính các nguy cơ này làm bộc lỗ những điểm trong các hệ thống máy tính ( chẳng hạn như các lỗ hỗng) mà kẻ xấu có thể lợi dụng để truy cập bất hợp pháp hoặc hợp pháp vào máy tính của bạn. Các lỗ hỗng này trên mạng là các yếu điểm quan trọng mà người dùng, hacker dựa đó để tấn công vào mạng. Các hiện tượng sinh ra trên mạng do các lỗ hổng này mang lại thường là : sự ngưng trệ của dịch vụ, cấp thêm quyền đối với các user hoặc cho phép truy nhập không hợp pháp vào hệ thống.
Hiện nay trên thế giới có nhiều cách phân lọai khác nhau về lỗ hổng của hệ thống mạng. Dưới đây là cách phân loại sau đây được sử dụng phổ biến theo mức độ tác hại hệ thống, do Bộ quốc phòng Mỹ công bố năm 1994.
a. Các lỗ hổng loại C
Các lỗ hổng loại này cho phép thực hiện các phương thức tấn công theo DoS (Denial of Services - Từ chối dịch vụ). Mức độ nguy hiểm thấp, chỉ ảnh hưởng tới chất lượng dịch vụ, có thể làm ngưng trệ, gián đoạn hệ thống; không làm phá hỏng dữ liệu hoặc đạt được quyền truy nhập bất hợp pháp
DoS là hình thức tấn công sử dụng các giao thức ở tầng Internet trong bộ giao thức TCP/IP để làm hệ thống ngưng trệ dẫn đến tình trạng từ chối người sử dụng hợp pháp truy nhập hay sử dụng hệ thống. Một số lượng lớn các gói tin được gửi tới server trong khoảng thời gian liên tục làm cho hệ thống trở nên quá tải, kết quả là server đáp ứng chậm hoặc không thể đáp ứng các yêu cầu từ client gửi tới.Một ví dụ điển hình của phương thức tấn công DoS là vào một số Web Site lớn làm ngưng trệ hoạt động của web site này: như www.google.com, www.ebay.com, www.yahoo.com v.v…
Tuy nhiên, mức độ nguy hiểm của các lỗ hổng loại này được xếp loại C; ít nguy hiểm vì chúng chỉ làm gián đoạn cung cấp dịch vụ của hệ thống trong một thời gian mà không làm nguy hại đến dữ liệu và những kẻ tấn công cũng không đạt được quyền truy nhập bất hợp pháp vào hệ thống.
b. Các lỗ hổng loại B
Các lỗ hổng cho phép người sử dụng có thêm các quyền trên hệ thống mà không cần thực hiện kiểm tra tính hợp lệ. Đối với dạng lỗ hổng này, mức độ nguy hiểm ở mức độ trung bình. Những lỗ hổng này thường có trong các ứng dụng trên hệ thống; có thể dẫn đến mất hoặc lộ thông tin yêu cầu bảo mật.
Các lỗ hổng loại B có mức độ nguy hiểm hơn lỗ hổng loại C, cho phép người sử dụng nội bộ có thể chiếm được quyền cao hơn hoặc truy nhập không hợp pháp. Những lỗ hổng loại này thường xuất hiện trong các dịch vụ trên hệ thống. Người sử dụng cục bộ được hiểu là người đã có quyền truy nhập vào hệ thống với một số quyền hạn nhất định.
Một số lỗ hổng loại B thường xuất hiện trong các ứng dụng như lỗ hổng của trình SendMail trong hệ điều hành Unix, Linux... hay lỗi tràn bộ đệm trong các chương trình viết bằng C. Những chương trình viết bằng C thường sử dụng một vùng đệm, là một vùng trong bộ nhớ sử dụng để lưu dữ liệu trước khi xử lý. Những người lập trình thường sử dụng vùng đệm trong bộ nhớ trước khi gán một khoảng không gian bộ nhớ cho từng khối dữ liệu. Ví dụ, người sử dụng viết chương trình nhập trường tên người sử dụng; qui định trường này dài 20 ký tự.
Do đó họ sẽ khai báo:
char first_name [20];
Với khai báo này, cho phép người sử dụng nhập vào tối đa 20 ký tự. Khi nhập dữ liệu, trước tiên dữ liệu được lưu ở vùng đệm; nếu người sử dụng nhập vào 35 ký tự; sẽ xảy ra hiện tượng tràn vùng đệm và kết quả 15 ký tự dư thừa sẽ nằm ở một vị trí không kiểm soát được trong bộ nhớ. Đối với những kẻ tấn công, có thể lợi dụng lỗ hổng này để nhập vào những ký tự đặc biệt, để thực thi một số lệnh đặc biệt trên hệ thống. Thông thường, lỗ hổng này thường được lợi dụng bởi những người sử dụng trên hệ thống để đạt được quyền root không hợp lệ.
Việc kiểm soát chặt chẽ cấu hình hệ thống và các chương trình sẽ hạn chế được các lỗ hổng loại B.
c. Các lỗ hổng loại A
Các lỗ hổng này cho phép người sử dụng ở ngoài có thể truy nhập vào hệ thống bất hợp pháp. Lỗ hổng này rất nguy hiểm, có thể làm phá hủy toàn bộ hệ thống. Các lỗ hổng loại A có mức độ rất nguy hiểm; đe dọa tính toàn vẹn và bảo mật của hệ thống. Các lỗ hổng loại này thường xuất hiện ở những hệ thống quản trị yếu kém hoặc không kiểm soát được cấu hình mạng.
Những lỗ hổng loại này hết sức nguy hiểm vì nó đã tồn tại sẵn có trên phần mềm sử dụng; người quản trị nếu không hiểu sâu về dịch vụ và phần mềm sử dụng sẽ có thể bỏ qua những điểm yếu này.
Đối với những hệ thống cũ, thường xuyên phải kiểm tra các thông báo của các nhóm tin về bảo mật trên mạng để phát hiện những lỗ hổng loại này. Một loạt các chương trình phiên bản cũ thường sử dụng có những lỗ hổng loại A như: FTP, Gopher, Telnet, Sendmail, ARP, finger...
Ảnh hưởng của các lỗ hổng bảo mật trên mạng Internet
Phần trên chúng ta đã phân tích một số trường hợp có những lỗ hổng bảo mật, những kẻ tấn công có thể lợi dụng những lỗ hổng này để tạo ra những lỗ hổng khác tạo thành một chuỗi mắt xích những lỗ hổng. Ví dụ, một kẻ phá hoại muốn xâm nhập vào hệ thống mà anh ta không có tài khoản truy nhập hợp lệ trên hệ thống đó. Trong trường hợp này, trước tiên kẻ phá hoại sẽ tìm ra các điểm yếu trên hệ thống, hoặc từ các chính sách bảo mật, hoặc sử dụng các công cụ dò xét thông tin (như SATAN, ISS) trên hệ thống đó để đạt được quyền truy nhập vào hệ thống. Sau khi mục tiêu thứ nhất đã đạt được; kẻ phá hoại có thể tiếp tục tìm hiểu các dịch vụ trên hệ thống, nắm bắt được các điểm yếu và thực hiện các hành động phá hoại tinh vi hơn.
Tuy nhiên, không phải bất kỳ lỗ hổng bảo mật nào cùng nguy hiểm đến hệ thống. Có rất nhiều thông báo liên quan đến lỗ hổng bảo mật trên mạng Internet, hầu hết trong số đó là các lỗ hổng loại C, và không đặc biệt nguy hiểm đối với hệ thống. Ví dụ, khi những lỗ hổng về sendmail được thông báo trên mạng, không phải ngay lập tức ảnh hưởng trên toàn bộ hệ thống. Khi những thông báo về lỗ hổng được khẳng định chắc chắn, các nhóm tin sẽ đưa ra một số phương pháp để khắc phục hệ thống.
Dựa vào kẻ hở của các lỗ hỗng này, kẻ xấu sẽ xây dựng các hình thức tấn công khác nhau nhằm không chế và nắm quyền kiểm soát trên mạng. Cho đến nay, các hacker đã nghĩ ra không biết bao nhiêu kiểu tấn công từ xa qua mạng khác nhau. Mỗi cuộc tấn công thường mở đầu bằng việc trực tiếp hoặc gián tiếp chui vào một hoặc nhiều máy tính đang nối mạng của người khác. Sau khi đã vào được hệ thống mạng, hacker có thể đi đến các bước khác như xem trộm, lấy cắp, thay đổi và thậm chí phá huỷ dữ liệu hoặc làm treo các hoạt động của một hệ thống thông tin điện tử.Các hacker cũng có thể gài bẫy những người sử dụng thiếu cảnh giác hoặc đánh lừa những hệ thống thông tin kém phòng bị. Chẳng hạn, chúng sưu tầm các địa chỉ email và gửi thư kèm virus đến đó hoặc làm nghẽn tắc mạng bằng cách gửi thật nhiều các bức thư điện tử đến cùng một địa chỉ. Đôi khi các hacker xâm nhập vào một mạng máy tính nào mà nó phát hiện ra lỗi và để lại thông báo cho người quản trị mạng, tệ hơn nữa là chúng cài virus hoặc phần mềm nào đó để theo dõi và lấy đi những thông tin nội bộ. Dưới đây là một số kỹ thuật tấn công mạng chủ yếu đã được sử dụng nhiều trên thực tế.
1.2.2. Các kỹ thuật tấn công trên mạng
a.Virus
Virus tin học là một phần mềm máy tính mang tính lây lan (ký sinh) và có thể phá hoại dữ liệu. Tính lây lan của Virus là khả năng tự sao chép của Virus từ đối tượng bị nhiễm sang đối tượng khác và làm cho nó nhân bản nhanh chóng. Đối tượng bị nhiễm là các tệp ( như chương trình, dữ liệu, thư điện tử, văn bản, macro…) và môi trường lan truyền bao gồm mạng, đường truyền và các loại bộ nhớ (RAM, đĩa cứng, đĩa mềm, băng từ, đĩa CD, đĩa ZIP, đĩa ĐV, đĩa Flash…).Virus có nhiều cách lây lan và tất nhiên cũng có nhiều cách phá hoại khác nhau. Virus máy tính có nhiều chủng họ, chẳng hạn như Boot, File, Macro, Trojan, Worm, Polymorphic, Hoaxes.
Tấn công mạng sử dụng Virus là một phương pháp tấn công khá phổ biến hiện nay. Mọi loại hệ điều hành đều thường xuyên bị tấn công bởi virus và tác hại gây ra bởi virus là rất lớn và thật khó lường.
b.Treo cứng hệ thống
Kỹ thuật này làm treo cứng hệ thống của nạn nhân bằng cách tấn công qua những giao thức tiêu chuẩn, chẳng hạn "dội bom thư" (mail bombing) qua giao thức SMTP, hoặc tấn công "ngập lụt" (flooding) qua giao thức TCP. Trong đó, tấn công "ngập lụt" là kiểu tấn công phổ biến.
Kiểu tấn công "ngập lụt " (flooding) hay còn gọi là ngăn cản đồng bộ kết nối (SYN Defender) có thể được mô tả như sau. Hai máy tính nối mạng IP muốn làm việc với nhau theo giao thức TCP thì thủ tục đầu tiên là phải "bắt tay" (handshaking). Giả sử A là máy nói trước, nó sẽ đưa ra yêu cầu đồng bộ tới B (SYN). B nhận được yêu cầu thì sẽ đáp ứng lại bằng câu trả lời "SYN/ACK" và cấp phát tài nguyên để đối thoại với A. Đến lượt A khi thấy B đáp lại thì phải khẳng định một lần nữa là thực sự muốn làm việc (trả lời đồng ý bằng "ACK"). Chỉ sau khi A đồng ý như vậy thì phiên làm việc mới bắt đầu.
Các Hacker đã tìm ra kẻ hở bên trong thủ tục "bắt tay" trên và lợi dụng để tấn công "ngập lụt". Một cuộc tấn công "ngập lụt" được tiến hành như sau:
- Máy tính của tin tặc sẽ đóng vai trò của A, còn máy tính bị tấn công là B. A sẽ gửi yêu cầu "SYN" muốn đối thoại với B, nhưng nó sẽ tự xưng là A' chứ không phải là A, trong đó, A' là một địa chỉ giả không tồn tại trong thực tế.
- B nhận được yêu cầu thì đáp lại bằng câu trả lời "SYN/ACK". Tuy nhiên, câu trả lời này sẽ dẫn đến địa chỉ A' chứ không phải A ( do B hoàn toàn không biết địa chỉ A đã bị tin tặc mạo danh là A' ở trên". Vì A' lại là một địa chỉ không tồn tại trong thực tế nên sẽ không có thể có "ACK" như lẽ ra phải trả lời theo qui định từ A' đến B.
- Không có trả lời, nhưng theo thủ tục thì máy B vẫn phải chờ đợi, đó chính là một kẻ hở của hệ thống. Nếu A cứ gửi liên tiếp những yêu cầu giả mạo như vậy thì B sẽ phải dành hết tài nguyên này đến tài nguyên khác của mình ra để đối thoại, cuối cùng, B sẽ hết sạch tài nguyên và không thể đáp ứng được các yêu cầu khác nữa, nghĩa là B bị "ngập lụt" bởi các yêu cầu đồng bộ và phải "từ chối phục vụ" chỉ vì bận "bắt tay".
c. Từ chối phục vụ (Denial of Service-DoS)
Kỹ thuật "từ chối phục vụ" làm cho hệ thống máy chủ bị nhận quá nhiều yêu cầu giả và không thể đáp ứng được nữa. Kỹ thuật này còn được cải tiến thành "từ chối phục vụ phân tán" ( Distributed DoS- DDoS) khi các cuộc tấn công đồng loạt xuất phát từ nhiều nơi trên mạng và được hứa hẹn trước vào cùng một thời điểm nên rất khó chống đỡ.
Đặc điểm lớn nhất của tấn công kiểu DoS là nó không lấy cắp thông tin, mà thường chỉ làm cho hệ thống dịch vụ của nơi bị tấn công không thể hoạt động được nữa, thậm chí còn gây sai lệch hoặc phá huỷ thông tin có trên hệ thống. Việc ngừng hoạt động trong một thời gian nhất định của các hệ thống đó thường gây thiệt hại không thể tính chính xác ( tiền bạc, uy tín của nhà cung cấp dịch vụ và thiệt hại gián tiếp đối với khách hàng sử dụng dịch vụ). Đôi khi tấn công DoS không làm tê liệt hệ thống nhưng làm chậm hoặc giảm khả năng phục vụ của hệ thống và do đó, cũng dẫn đến thiệt hại đáng kể.
Có hai thủ thuật tấn công DoS phổ biến dựa trên nguyên lý hoạt động hoặc các kẽ hở của những hệ thống Web. Thứ nhất là gây quá tải Web, khiến cho hệ thống mất khả năng phục vụ người dùng. Thứ hai là dựa vào một vài kẻ hở riêng của phần mềm hoặc sai sót về an ninh dữ liệu để từ đó làm cho hệ thống bị tê liệt.
Với thủ thuật thứ nhất, việc gây quá tải Web có thể thực hiện được nếu như tin tặc gửi nhiều yêu cầu giống như có quá đông người sử dụng đang yêu cầu những dịch vụ thực sự của hệ thống. Để giải quyết một yêu cầu dịch vụ, hệ thống phải tốn một phần tài nguyên của mình (CPU, bộ nhớ, đường truyền…). Mỗi hệ thống dịch vụ được thiết kế với một số lượng tài nguyên có giới hạn. Khi nhận được quá nhiều yêu cầu của tin tặc, hệ thống sẽ sử dụng hết toàn bộ tài nguyên của mình để đáp ứng những yêu cầu đó và không còn gì để đáp ứng yêu cầu của người dùng thật sự, làm cho họ không thể truy cập tiếp. Hình thức phổ biến nhất của thủ thuật gây quá tải gọi là phân tán tấn công; nó tạo ra các yêu cầu dịch vụ từ nhiều địa chỉ máy tính khác nhau, sao cho nhà quản trị hệ thống không phân biệt được đó có phải là một cuộc tấn công kiểu DoS hay không. Tuy nhiên, để thực hiện được vụ tấn công kiểu này, tin tặc phải có khả năng đầy đủ về tài nguyên riêng, đặc biệt khi muốn tấn công các hệ thống dịch vụ có tài nguyên mạnh và được thiết kế để chịu tải lớn.
Thủ thuật tấn cộng kiểu DoS thứ hai khác với kiểu thứ nhất. Tin tặc sẽ lợi dụng một số kẻ hở an ninh dữ liệu của hệ thống, gửi các yêu cầu hoặc gói tin bất hợp lệ (không đúng theo qui định) một cách có chủ ý khiến cho hệ thống bị tấn công khi nhận được những yêu cầu hay gói tin đó sẽ xử lý không đúng hoặc không theo trình tự đã được thiết kế, dẫn đến sự sụp đổ cho chính hệ thống đó. Phần lớn những kẻ hở này xuất phát từ các sai sót của phần mềm, nhà sản xuất phần mềm đã không thể lường trước được hết các tình huống sẽ xảy ra. Do đó, khi tin tặc gửi những thứ nằm ngoài các trường hợp đã dự tính, phần mềm dễ bị lúng túng và gây tắc. Ngoài ra, còn có các kẻ hở trong các giao thức hoạt động của hệ thống, đặc biệt là giao thức TCP/IP. Điển hình của kiểu lợi dụng này là tấn công "gây lụt".
Đọc thêm ở :
d. Lợi dụng chương trình
Kỹ thuật "lợi dụng" (exploit) khai thác các điểm yếu hoặc các lỗi có sẵn trong trong một số phần mềm quen biết trên máy của nạn nhân hoặc máy chủ. Phần lớn các phiên bản hệ điều hành đều có nhiều kẻ hở và thường bị lợi dụng.
e. Giả mạo IP
Kỹ thuật "giả dạng" ( masquerade) hay còn gọi là "giả mạo IP" (IP spoofing) cho phép hacker gửi vào một máy tính những gói dữ liệu có vẻ đi đến từ một địa chỉ IP khác với địa chỉ của hacker nhằm che đậy dấu vết. Kỹ thuật này kết hợp với các kiểu tấn công chủ động khác như lặp lại hoặc thay đổi các thông điệp.
f. Bẫy cửa sập (trapdoor)
Kỹ thuật " bẫy cửa sập" là gài mới một cửa hậu (backdoor) hoặc lợi dụng kẽ hở có sẵn trong hệ thống của nạn nhân mà chui vào, đợi thời cơ để khai thác.Backdoor trong một phần mềm là "cổng hậu" để đi tắt không qua cổng chính, nơi có thể kiểm tra hay xác thực nhân thân của người muốn truy cập vào hệ thống. Trong thực tiễn, nó có thể là một chương trình máy tính được gài lén lút vào hệ thống hoặc là một chương trình hợp lệ nhưng bị sửa đổi lại. Thậm chí tin tặc có thể thay đổi một chương trình biên dịch (compiler) để gài backdoor khi người lập trình trót sử dụng phải compiler này.
g. Lặp lại thông điệp (message replay)
Kỹ thuật "lặp lại thông điệp" sử dụng việc tái lập một phần hoặc toàn bộ một thông điệp nhằm gây ra hiệu ứng khác với ý định của chính chủ nhân.
h. Thay đổi thông điệp (message modification)
Kỹ thuật "thay đổi thông điệp" là chỉnh sửa một phần hoặc thay đổi hoàn toàn nội dụng của một thông điệp sao cho việc này không bị phát hiện.
i. Scanner
Scanner là một chương trình tự động rà soát và phát hiện những điểm yếu về bảo mật trên một trạm làm việc tại cục bộ hoặc trên một trạm ở xa. Với chức năng này, một kẻ phá hoại sử dụng chương trình Scanner có thể phát hiện ra những lỗ hổng về bảo mật trên một server ở xa.
Các chương trình scanner thường có một cơ chế chung là rà soát và phát hiện những cổng TCP/UDP được sử dụng trên một hệ thống cần tấn công; từ đó phát hiện những dịch vụ sử dụng trên hệ thống đó; sau đó các chương trình scanner ghi lại những đáp ứng trên hệ thống ở xa tương ứng với các dịch vụ mà nó phát hiện ra. Dựa vào những thông tin này, những kẻ tấn công có thể tìm ra những điểm yếu trên hệ thống.
Những yếu tố để một chương trình Scanner có thể hoạt động
- Yêu cầu về thiết bị và hệ thống: Một chương trình Scanner có thể hoạt động được nếu môi trường đó có hỗ trợ TCP/IP (bất kể hệ thống là UNIX, máy tính tương thích với IBM, hoặc dòng máy Macintosh)
- Hệ thống đó phải kết nối vào mạng Internet.
- Tuy nhiên không phải đơn giản để xây dựng một chương trình Scanner, những kẻ phá hoại cần có kiến thức sâu về TCP/IP, những kiến thức về lập trình C, PERL và một số ngôn ngữ lập trình Shell. Ngoài ra người lập trình (hoặc người sử dụng) cần có kiến thức là lập trình socket, phương thức hoạt động của các ứng dụng client/server.
- Hiện nay có nhiều chương trình Scanner (cả miễn phí và thương phẩm) có giá trị trên thị trường. Một số địa chỉ Web site hướng dẫn tạo các chương trình scannner:
Các chương trình Scanner có vai trò quan trọng trong một hệ thống bảo mật, vì chúng có khả năng phát hiện ra những điểm yếu kém trên một hệ thống mạng. Đối với người quản trị mạng những thông tin này là hết sức hữu ích và cần thiết; đối với những kẻ phá hoại những thông tin này sẽ hết sức nguy hiểm.
k. Password Cracker
Một chương trinh bẻ khoá password là chương trình có khả năng giải mã một mật khẩu đã được mã hoá hoặc có thể vô hiệu hoá chức năng bảo vệ mật khẩu của một hệ thống.
Hầu hết việc mã hoá các mật khẩu được tạo ra từ một phương thức mã hoá. Các chương trình mã hoá sử dụng các thuật toán mã hoá để mã hoá mật khẩu.
l. Đánh hơi gói tin (Packet Sniffer)
Sniffer theo nghĩa đen là đánh hơi, ngửi. Đối với bảo mật hệ thống sniffer được hiểu là các công cụ (có thể là phần cứng hoặc phần mềm) "bắt" các thông tin lưu chuyển trên mạng; từ các thông tin "bắt" được đó để "đánh hơi" lấy được những thông tin có giá trị trao đổi trên mạng. Hoạt động của sniffer cũng giống như c