• Mọi hoạt động kinh tế, sản xuất của xã hội
loài người đều được tiến hành trên bề mặt
trái đất, nơi có cả thạch quyển, khí quyển,
thủy quyển và sinh quyển.
• Các quyển này tiếp xúc với nhau, tác động
tương tác với nhau trong một hệ thống
chung gọi là môi trường địa lý.
57 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2698 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Môn học Địa lý cảnh quan (Landscape), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Môn học Địa lý cảnh quan
(Landscape)
• Phụ trách: PGS.TS. Hà Quang Hải
• Bộ môn: Khoa học Môi trường,
Khoa Môi trường, trường ĐHKHTN,
Đại học Quốc gia-TP.HCM
• Email: hqhai@hcmuns.edu.vn
GIỚI THIỆU
• Mọi hoạt động kinh tế, sản xuất của xã hội
loài người đều được tiến hành trên bề mặt
trái đất, nơi có cả thạch quyển, khí quyển,
thủy quyển và sinh quyển.
• Các quyển này tiếp xúc với nhau, tác động
tương tác với nhau trong một hệ thống
chung gọi là môi trường địa lý.
• Sự tác động tương tác này tạo ra sự phân
hoá những lãnh thổ tự nhiên khác nhau
được gọi là những tổng thể lãnh thổ tự
nhiên.
• Trong phạm vi quan sát thông thường,
những lãnh thổ tự nhiên đó thường được
gọi một cách thông dụng là cảnh quan
(tiếng Đức - Landschaft, tiếng Anh
Landscape).
• Cảnh quan có ý nghĩa rất quan trọng đối với
việc qui hoạch và phát triển kinh tế cho từng
khu vực (nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư
nghiệp, đô thị...)
• Tìm hiểu cảnh quan để phục vụ cho qui
hoạch lãnh thổ phải dựa trên các luận cứ
khoa học đúng đắn, toàn diện, chính xác,
nghĩa là dựa vào các luận cứ khoa học để
trên những lãnh thổ nào đú có thể qui hoạch
các đề án phát triển sao cho có hiệu quả về
mặt kinh tế và bảo vệ môi trường bền vững
• Khoa học cảnh quan là khoa học địa lý tổng
hợp mang tính liên ngành
(multidisciplinary) đòi hỏi các nghiên cứu
theo các qui mô khác nhau (toàn cầu đến
các điểm địa lý) với việc áp dụng đồng bộ
các phương pháp cả truyền thồng và hiện
đại.
• 1.1 Nhận thức về vỏ cảnh quan và cảnh quan
• 1.1.1 Lớp vỏ cảnh quan
• Khái niệm
• X.V Kanexnik dựa vào hai dấu hiệu cơ bản để
xác định vỏ cảnh quan:
• 1) nền Vỏ cảnh quan là bề mặt vật lý của Trái
đất, vỏ cảnh quan xuất hiện đồng thời với vỏ
Trái đất và cũng được xem là lớp vỏ địa lý.
• 2) Vỏ cảnh quan bị chi phối bởi các nguồn lực
nội sinh và ngoại sinh và vì vậy chúng có sự
phân dị theo lãnh thổ, chúng xuất hiện trên
mặt đất thành các cảnh – các tổng thể tự
nhiên (còn gọi là địa tổng thể).
1.1 Một số quan điểm về cảnh quan
Ranh giới trên
Đa số các nhà nghiên cứu vạch ranh giới trên
của Vỏ cảnh quan đi theo đường đỉnh của tầng
đối lưu (Ermolaev 1967), nghĩa là lớp phân chia
ranh giới giữa tầng đối lưu và tầng bình lưu, bởi
vì lên đến giới hạn đó còn có tác dụng nhiệt của
mặt đất tới các quá trình khí quyển như:
• Sự tác động qua lại giữa quyển đá và quyển
nước gây nên sự phân bố nhiệt độ, các dòng
thăng của không khí và toàn bộ hoàn lưu của
các khối khí.
• Trạng thái chứa hơi nước và tuần hoàn khí ẩm
• Sự tồn tại của các hạt rắn (bụi, muối).
Ranh giới dưới
Ranh giới dưới của Vỏ cảnh quan còn có
một số ý kiến khác nhau, trong giáo
trình này chúng tôi sử dụng khái niệm
ranh giới dưới của Vỏ cảnh quan trùng
với mặt đáy của vỏ Trái đất:
• Dưới các dẫy núi trên đất nổi ranh giới
này phân bố ở độ sâu 60-80km
• Dưới các vùng trũng đại dương là 5-
8km.
• Nguồn gốc phát sinh
D.L Armand (1975) cho rằng Vỏ cảnh
quan là một á hệ của Trái đất mà vật chất
trong nó do ba trạng thái rắn, lỏng và khí
hợp thành.
Nghĩa là Vỏ cảnh quan đã xuất hiện trước
khi có sinh quyển và chỉ gồm ba thành
phần: thạch quyển, thủy quyển và khí
quyển.
Trái đất có tuổi 4.55 tỉ năm, các đại dương
lớn và các lục địa nhỏ đã tồn tại cách nay
3.9 tỉ năm
Khái niệm của các nhà địa lý Liên Xô
1) V.V Docursaev
V.V Docursaev đề xướng học thuyết về cảnh
quan vào cuối thế kỷ 19 (1882-1898). Từ
những nghiên cứu thổ nhưỡng, ông đã đi tới
những quan niệm về tổng hợp thể địa lý:
“Nghiên cứu toàn bộ thiên nhiên thống nhất
toàn vẹn không chia cắt, không tách rời chúng
ra thành từng phần”,
1.1.2 Cảnh quan
V.V Docursaev cũng là người đầu tiên thực hiện
nguyên tắc tổng hợp nghiên cứu các điều kiện
tự nhiên ở các địa phương cụ thể, khởi xướng
học thuyết về đới tự nhiên. Ông và những
người kế tục đề xuất cơ sở đánh giá đất đai
nông nghiệp một cách khoa học, đồng thời đề
ra biện pháp trồng trọt, cải tạo, tổ chức hợp lý
lãnh thổ.
2) L.X Berg (1913)
Cảnh quan là một miền, trong đó đặc điểm địa hình, khí
hậu, thực vật và lớp phủ thổ nhưỡng hợp nhất với nhau
thành một thể toàn vẹn, cân đối và lặp lại một cách điển
hình trong phạm vi đới ấy trên trái đất.
Năm 1947 L. X Berg đã đặt nền móng cho nghiên cứu
cảnh quan ở Liên Xô:
“Cảnh quan là tập hợp các đối tượng và hiện tượng mà
trong đó các đặc tính của địa hình, khí hậu, thủy văn, lớp
phủ thổ nhưỡng – thực vật, giới động vật và ở một chừng
mực nhất định, của cả kết quả tác động của con người, đã
hình thành một thể thống nhất hoàn chỉnh, được lặp lại
một cách điển hình trên một đới nhất định nào đó của trái
đất”.
3) N.A Xontxev
N.A Xontxev (1962) xem cảnh quan là tổng hợp
thể tự nhiên với định nghĩa:
“Cảnh quan là một tổng hợp thể tự nhiên đồng
nhất về mặt phát sinh, có một nền địa chất đồng
nhất, một kiểu địa hình, một khí hậu giống nhau
và bao gồm một tập hợp các cảnh dạng chính và
phụ quan hệ với nhau về mặt động lực và lặp lại
một cách có qui luật trong không gian, tập hợp
này chỉ thuộc riêng cho cảnh quan đó”.
4) G. Ixatsenko
G. Ixatsenko (1965) đưa ra khái niệm về
tính địa đới và phi địa đới trong cảnh
quan, bổ sung định nghĩa cho cảnh quan
đồng bằng và miền núi.
• Đối với đồng bằng “Cảnh quan là một bộ
phận được tách ra trong quá trình phát
sinh của một miền, của một đới địa lý và
nói chung của bất kỳ một đơn vị lãnh thổ
nào lớn hơn, có đặc điểm là đồng nhất cả
về mặt địa đới cũng như phi địa đới và có
một cấu trúc riêng và cấu tạo hình thái
riêng”.
• Đối với miền núi: “cảnh quan là một bộ
phận của tầng cảnh quan, trong phạm vi
một hệ thống đai cao riêng (địa phương),
đồng nhất về phương diện cấu trúc, nham
thạch và địa mạo”.
• Năm 1991 trong cuốn sách “ Cảnh quan
và phân vùng địa lý tự nhiên” quan điểm
về cảnh quan đã được ông làm sáng tỏ
hơn. Ông coi cảnh quan là một địa hệ, là
một tổng thể lãnh thổ tự nhiên của cấp
lãnh thổ địa phương.
D.L Armand
D.L Armand đại diện cho quan điểm coi
cảnh quan là một danh từ chung cho tất
cả tổng thể lãnh thổ tự nhiên từ nhỏ đến
lớn (cả cỡ hành tinh là lớp vỏ cảnh quan).
Định nghĩa cảnh quan cũng là định nghĩa
của tổng thể tự nhiên. Năm 1975 ông
viết:
“Tổng thể lãnh thổ tự nhiên (hay cảnh quan –
địa tổng thể) là phần lãnh thổ hay khu vực được
phân chia một cách ước lệ bằng các ranh giới
thẳng đứng theo nguyên tắc đồng nhất tương
đối và ranh giới nằm ngang theo nguyên tắc
mất dần ảnh hưởng của nhân tố mà theo đó
tổng thể trên được định ra”.
Như vậy, cảnh quan là từ đồng nghĩa với tổng thể
lãnh thổ (hoặc khu vực) tự nhiên. Từ “cảnh
quan” không những có thể dùng cho bất kỳ một
đơn vị phân loại nào, ví dụ nói: cảnh quan
khoảng trống giữa rừng, cảnh quan bán đảo Cà
Mau, cảnh quan núi lửa, mà còn dùng theo ý
nghĩa chung, giống như khái niệm “đất đai”, “khí
hậu” v.v., ”
• Hình 1.1 Địa hệ (I) và
tổng thể lãnh thổ tự
nhiên (II) của khối
núi.
• 1. Giới hạn của địa hệ
và địa tổng thể; 2. bốc
hơi; 3. chuyển ẩm
trong địa hệ; 4. giáng
thủy; 5. dòng chảy
sông trong địa hệ; 6.
vận chuyển ẩm từ tổng
thể đồng bằng A vào
tổng thể núi B; 7.
chuyển dòng chảy
nước và dòng chảy rắn
theo sông từ tổng thể
núi B vào tổng thể
đồng bằng C.
Khái niệm của các nhà địa lý Việt Nam
Nghiên cứu cảnh quan của Việt Nam phải
kể đển các công trình của Vũ Tự Lập với
các công trình xuất bản năm 1976, 1999.
Vũ Tự Lập (1976) trong công trình “Cảnh
quan miền Bằc Việt Nam) đã định nghĩa
cảnh địa lý (cảnh quan) như sau:
• “Cảnh địa lý là một địa tổng thể, được
phân hóa ra trong phạm vi một phân đới
ngang ở đồng bằng và một đai cao miền
núi, có một cấu trúc thẳng đứng đồng
nhất về nền địa chất, về kiểu địa hình,
kiểu khí hậu, kiểu thủy văn, về đại tổ hợp
thổ nhưỡng, đại tổ hợp thực vật và bao
gồm một tập hợp có qui luật của những
dạng địa lý và những đơn vị cấu tạo nhỏ
khác theo một cấu trúc ngang đồng nhất”.
• Năm 1999 trong công trình “Địa lý tự
nhiên Việt Nam” ông sử dụng thuật ngữ
“hệ địa - sinh thái-Geo-ecosystem” thay
cho địa tổng thể và có một vài điều chỉnh
về chỉ tiêu của cảnh quan:
• “Cảnh quan địa lý là một hệ địa - sinh
thái, được phân hóa ra trong phạm vi
một đới ngang ở đồng bằng hay một đai
cao miền núi, có một cấu trúc thẳng
đứng đồng nhất về nền địa chất, về kiểu
địa hình, kiểu khí hậu, kiểu thủy văn, về
đại tổ hợp thổ nhưỡng-thực vật và có
một cấu trúc ngang bao gồm những dạng
và diện địa lý đặc trưng cho cảnh”
Khái niệm của các nhà địa lý Tây Âu và Mỹ
1) G. Bertrand
• Năm 1968 G. Bertrand định nghĩa: cảnh
quan là sự phối hợp cơ động, bất ổn định
của các yếu tố địa lý khác nhau: vật lý,
sinh học, nhân tác. Chúng tác động lên
nhau một cách biện chứng và làm cho
cảnh quan trở thành một “thể tổng hợp
địa lý”.
• G. Bertrand phân ra ba bậc kế tiếp nhau:
1) Môi trường tự nhiên, 2) Các hệ sinh
thái, 3) Tác động con người, đồng thời
phân 3 cấp cảnh quan:
• Geotope: là đơn vị cơ sở, rộng vài mét
vuông, có vi khí hậu, có khi là một vũng
bùn trên cao nguyên, một hốc lõm trên
vách đá, một hố karst, nó chứa một quần
xã sinh cảnh (biocénose) đặc trưng.
• Géofacies: Đồng nhất trên vài trăm hoặc
vài ngàn mét. Có khi là chỗ trũng ngập
lụt trong đồng bằng phù sa hoặc một
mảnh sườn núi có hướng phơi riêng biệt,
một dải hẹp của cao nguyên, một quả
đồi. Về thạch học và đất nó có thể không
đồng nhất.
• Geosystème (địa hệ): Rộng lớn hơn, từ
hàng chục đến hàng 100 km2. Chẳng hạn
miền núi, nó là một vành đai có khí hậu,
địa hình và thạch học đồng nhất. Nó gồm
nhiều géofaciès khác nhau. Ví dụ sườn
nắng và sườn khuất nắng được khai thác
khác nhau.
Có thể so sánh các cấp cảnh quan của
G.Bertrand với các cấp cảnh quan của
các nhà khoa học Liên Xô:
• Geosystème tương đương với cảnh quan
• Géofacies tương đương với dạng cảnh
quan
• Geotope tương đương với diện cảnh
quan.
2) R. Forman và M. Godron
• Trong công trình Sinh thái cảnh quan xuất
bản năm 1986, R. Forman và M. Godron
trích dẫn khái niệm cảnh quan từ các từ
điển Webster (1963), Oxford (1933).
Cảnh quan bao gồm:
• 1) Một bức tranh mô tả phong cảnh nội
địa tự nhiên như: thảo nguyên, khu rừng,
dẫy núi v.v…
• 2) Các dạng địa hình khu vực trong một
tổng thể
• 3) Một phần đất hoặc phần mở rộng của
phong cảnh tự nhiên khi được nhìn theo
một hướng.
• Lưu ý rằng, trong hình 1.2 và 1.3 nhìn các
dạng địa hình từ một điểm sẽ khác nếu
như người quan sát đứng giữa các đụn
cát.
• Hình 1.2 Đụn cát Eureka và dãy núi
Chan ở Công Viên Thung lũng Chết,
California, nhìn vào buổi chiều tối.
Hình 1.3 Các sóng đụn cát Mesquite ở Công Viên Thung
lũng Chết, California, nhìn vào buổi sáng sớm.
Về mặt sản phẩm có những nhận thức
khác nhau về cảnh quan, nhưng hầu hết
mọi người phân loại cảnh quan hoặc là
dạng địa hình vật lý, văn hóa, mỹ quan
hoặc là nghệ thuật chụp ảnh. Về mặt
không gian, các nhận thức cảnh quan có
qui mô rộng, từ “cảnh quan Bắc Mỹ” đến
cảnh quan của khu bảo tồn động vật.
3) Từ điển Wikipedia có đưa ra định nghĩa
về cảnh quan như sau:
• Cảnh quan bao gồm các đặc điểm trong
tầm mắt về một khu đất, gồm có các yếu
tố vật lý như các dạng địa hình, các môi
trường sống của động vật và thực vật, các
yếu tố trìu tượng như ánh sáng và các
điều kiện thời tiết, và các yếu tố nhân
sinh, ví dụ hoạt động của con người hoặc
môi trường xây dựng. Cảnh quan cũng có
thể biểu thị các đối tượng xung quanh
một tòa nhà.
Nhìn chung ở các nước Tây Âu, Mỹ khái
niệm cảnh quan thường được sử dụng
linh động hơn.
Ngày nay các đơn vị cảnh quan
(Landscape Units), sinh thái cảnh quan
(Landscape Ecology), kiến trúc cảnh quan
(Landscape architecture), cảnh quan
nhân sinh (Anthropic Landscape), cảnh
quan văn hóa (Cultural Landscape) đồng
nghĩa với quan niệm cảnh quan chung.
Nhận xét
Phân tích các định nghĩa trên chúng ta
nhận thấy có ba quan niệm chính về cảnh
quan mà sau đó được áp dụng để chỉ các
hình thức cảnh quan khác nhau phụ thuộc
vào các quan niệm của người nghiên cứu:
• 1) Cảnh quan là tổng thể lãnh thổ tự
nhiên (địa tổng thể) có qui mô không lớn,
có sự lặp lại trong không gian, là một cấp
phân vị cơ bản trong các cấp phân vị của
phân vùng địa lý tự nhiên.
•
• 2) Quan niệm cũng như trên, nhưng
nhấn mạnh cảnh quan là cá thể riêng
biệt không lặp lại, ở bên trong có những
sự giống nhau về một số yếu tố hợp
phần tự nhiên nào đó, nên chúng có tính
kiểu loại, lập lại trong không gian và
phân loại chúng theo sự giống nhau đó.
• 3) Cảnh quan là khái niệm chung để chỉ
các tổng thể lãnh thổ tự nhiên của bất kỳ
qui mô nào có sự đồng nhất tương đối về
một số hợp phần tự nhiên nào đó, chúng
mang tính kiểu loại theo các chỉ tiêu (dấu
hiệu) của sự đồng nhất tương đối đó.
• Cả ba quan điểm đều giống nhau ở một
điểm là coi cảnh quan như là một tổng thể
tự nhiên, còn sự khác biệt là ở chỗ nên coi
cảnh quan là đơn vị thuộc cấp phân vị
nào. Phần lớn các tác giả tán thành quan
điểm của L. S. Berg (coi cảnh quan là một
trong những đơn vị cấp thấp-cấp cơ bản
của phân vùng địa lý tự nhiên).
• Hai quan niệm đầu được các nhà nghiên
cứu chuyên ngành cảnh quan sử dụng,
trong đó phổ biến là quan niệm kiểu loại
thường được dùng trong nghiên cứu cảnh
quan của một số tác giả.
• Quan niệm cảnh quan là một đơn vị phân
hóa chung như một địa hệ tự nhiên bất kỳ
nào đó được sử dụng nhiều không chỉ
trong lĩnh vực cảnh quan học thuần túy,
mà ở cả các lĩnh vực khác, các ngành khác
khi có động đến sự phân dị lãnh thổ.
• Từ các quan điểm trên chúng ta nhận
thấy trong các hợp phần cấu tạo nên cảnh
quan, địa hình (landforms) có vị trí trung
tâm, địa hình gắn liền với tên gọi của một
cảnh quan: Cảnh quan đồng bằng trước
núi, cảnh quan thung lũng sông…Địa hình
được sử dụng như một chỉ tiêu chính
trong phân loại cảnh quan.
• Diện tích cảnh quan tương ứng với cấp
trung địa hình, từ 100 km2 đến hàng
ngàn km2. Chúng tôi đề nghị diện tích
cảnh quan tương ứng với đơn vị kiến
trúc hình thái cấp 4 (khoảng 100-
1000km2).
1. 2 Các khái niệm liên quan
1.2.1 Sự phân hóa
Trên lục địa
• Sự phân hóa mãnh liệt nhất được thấy ở
bề mặt lục địa. Trong mỗi tuyến lộ trình
chúng ta có thể quan sát sự khác biệt về
đặc trưng của địa hình, về thực vật, các
đặc điểm của lớp phủ đất...
• Trên lục địa, địa hình phân hóa liên
tục và được phân loại thành ba nhóm
chính: đồng bằng - đồi – núi. Ở mỗi
nhóm này tùy theo mức độ biến động
về độ cao và hình thái các nhà địa
mạo lại chia ra các kiểu khác nhau
như: đồng bằng thấp-lượn sóng-phân
cắt yếu; đồng bằng cao-phân cắt
mạnh-nhiều khe rãnh.
• Đáy đại dương
• Trên đáy các đại dương địa hình cũng
có sự phân hóa rõ rệt. Địa hình đáy
đại dương là sản phẩm trực tiếp của
các hoạt động kiến tạo mới nhất.
• Tính từ tâm tách giãn về hai phía lục
địa là các dải núi giữa đại dương, đáy
đại dương, núi và các sơn nguyên
ngầm, vực biển, các cung đảo. Địa
hình này không thể không ảnh hưởng
đến dòng chảy, tới sinh vật đáy và
sinh vật phù du.
• Người ta có thể xác định địa hình đáy biển
khá chính xác theo đặc trưng của sóng,
theo màu sắc nước biển, v.v... Những dao
động nhỏ nhất như nhiệt độ và độ mặn
của biển cũng tác động mạnh mẽ tới động
vât biển, lôi kéo hoặc xua đuổi chúng.
Địa hình của đại dương
Vòng cung
đảo
Vực biển
Sơn nguyên ngầm
Sống núi ngầm
Núi ngầm Thung lũng ngầm
Thềm lục địa
Mặc dù mức độ phân hóa giảm dần về phía
trên và phía dưới, các hợp phần nham
thạch và khối khí biến đổi ít hơn trong
không gian so với mặt đất, lại ảnh hưởng
không nhỏ đến các thành phần của mặt
đất.
Mỗi một cảnh quan chỉ giữ được cá tính
của mình trong điều kiện tồn tại các kiểu
lớp vỏ trái đất và khí quyển dưới và trên
nó không đổi
Nhận xét
Phân chia cảnh quan quyển theo 3 dấu hiệu: theo
loại cảnh quan, theo địa quyển và theo các hợp
phần
Hình 2.2
Sơ đồ phân hóa cảnh quan
quyển.
Các từ “đồng bằng, núi,
v.v…” không những chỉ
hiểu về địa hình và còn
toàn bộ đặc trưng tổng thể
thiên nhiên của chúng
• Phân chia theo loại cảnh
quan là sự phân chia
tổng hợp và có tính chất
lãnh thổ,
• Phân chia theo địa quyển
là sự phân chia không
tổng hợp nhưng có tính
chất lãnh thổ
• Phân chia theo các hợp
phần vừa không tổng
hợp vừa không có tính
chất lãnh thổ.
Mặt cắt 2 chủ yếu
được các khoa học địa lý
chuyên ngành nghiên cứu
vì tính tổng hợp của nó
tồn tại dưới ưu thế rõ rệt
của một hợp phần cơ bản
đối với địa quyển nào đó.
Mặt cắt 3 có tính chất ước
lệ, được thấy ở địa vật lý
học và sinh vật học, và chỉ
một phần nhỏ ở các khoa
học địa lý chuyên ngành
Trong số 3 mặt cắt biểu diễn
ở hình 2.2 Mặt cắt 1 là quan
trọng hơn cả đối với địa lý tự
nhiên tổng hợp
• Không phải ngẫu nhiên mà cảnh quan là
tổng thể của các hợp phần “địa hệ”. Sự thay
đổi của nó từ nơi này đến nơi khác bao giờ
cũng bắt đầu từ sự thay đổi một hợp phần
nào đó. Sau đó, do tính chất dính líu của các
quan hệ tương hỗ, các hợp phần khác cũng
thay đổi
Ví dụ: do hoạt động nâng kiến tạo, một phần lớp vỏ
trái đất nào đó ở đới thảo nguyên đựơc nâng lên
khoảng 100-200m so với địa hình xung quanh,
khi đĩ địa hình sẽ rơi vào lớp khí quyển lạnh hơn,
ở đó sẽ bắt đầu có mưa địa hình, dòng chảy phát
sinh, các khe rãnh có các cánh rừng thung lũng,
vùng phân thủy có các thảm thực vật đa dạng hơn
thay thế thảo nguyên cĩ thảm cỏ thuần túy, điều
đó thu hút các loại động vật có guốc và gặm
nhấm, xuất hiện các côn trùng ưa ẩm,v.v
• Nghĩa là tính chất của một vật thể hoặc hệ thống
nào đó cấu tạo từ các phần riêng biệt phân biệt
rõ ràng với nhau
Ví dụ:
Ranh giới giữa địa tổng thể nước và địa tổng thể
lục địa
Chân vách đá vôi với bề mặt đồng bằng
Theo thời gian: các mùa trong năm
Sự rời rạc – sự đứt đoạn
Tính liên tục của cảnh quan bắt nguồn từ nguồn
gốc vật chất thống nhất của nó. Tính liên tục của
địa lý quyển khiến cho từ thành phần này sang
thành phần khác có những cầu qua lại, có những
thành tạo trung gian mà khi phân loại khó xếp
vào đâu
Ví dụ: mặt cắt vỏ phong hóa
Thổ nhưỡng giữa giới vô cơ và hữu cơ…
Sự liên tục
• Có thể kết luận là trong quyển cảnh quan tính
rời rạc hòa với tính liên tục. Chú ý rằng các sự
chuyển tiếp dần dần nhiều hơn hẳn các sự
chuyển tiếp đột.
• Như vậy: Quyển cảnh quan là liên tục, nhưng có
chứa các thành phần riêng biệt đứt đoạn.
• Hình 2.3 Liên tục và đứt đoạn không gian
A: đứt đoạn
B: liên tục có thành phần đứt đoạn (d)
C: liên tục
S: không gian
Q. bản chất bất kỳ của cảnh quan
A và C với dạng tuyệt đối không có trong không gian
1.3 Sự phát triển
• Cảnh quan phát triển như là một hệ thống vật chất
thống nhất, nhưng tốc độ phát triển của các thành
phần cấu tạo lẫn các đơn vị hình thái không phù
hợp với nhau.
Diện cảnh quan có thể biến đổi một cách nhanh
chóng, dạng cảnh quan chậm hơn, còn cảnh quan
thì biến đổi chậm hơn nữa
Trong số các thành phần cấu tạo thì thực vật – và
theo nó là động vật – là đồng nhất, thổ nhưỡng biến
đổi chậm hơn một ít, khí hậu và đặc biệt là địa hình
biến đổi chậm hơn cả.
• Chú ý rằng cảnh quan phát triển một cách liên
tục, điều đó có nghĩa rằng trong mỗi cảnh quan
hiện đại phải có những nét thuộc về quá khứ,
những nét hiện đại và những nét tiến bộ quyết
định sự phát triển của nó trong tương lai.
• Thí dụ: cảnh quan trũng Đồng Tháp Mười là
cảnh quan hiện đại, bản thân bồn trũng là yếu tố
di lưu do quá trình hình thành châu thổ sông
Cửu Long để lại, các bụi cây và thực vật thủy
sinh khác hiện mọc trong đồng trũng là những
yếu tố tiến bộ của đồng trũng, biến nó dần dần
thành đồng bằng
• Sự phát triển của cảnh quan không đều đặn do có
thể có những tác động mạnh từ bên ngoài, làm
cảnh quan có thể đột ngột thay đổi một cách cơ
bản