Phương pháp này thích hợp với các nước đang phát triển, trong đó khai
thác tài nguyên thiên nhiên là biện pháp quan trọng và phổ biến để phát triển
kinh tế - xã hội. Về nguyên tắc, phương pháp này là phương pháp đúng đắn, vì
cơ sở lựa chọn cuối cùng là thông số kinh tế. Hạn chế chính của phương pháp
này là không thể xét tất cả các ĐTM, nhất là những tác động mang tính lâu dài
hoặc gián tiếp. Việc sử dụng phương pháp này vào các dự án lớn có khó khăn do
số hạng mục cần phân tích và tính toán quá lớn.
Ngoài các phương pháp nêu trên, hiện nay người ta còn sử dụng các
phương pháp chập bản đồ, phương pháp sơ đồ mạng lưới để dánh giá tác động
môi trường đến các hoạt động kinh tế - xã hội.
80 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1444 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng môn học môi trường mỏ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHIỆP & XÂY DỰNG
BÀI GIẢNG MÔN HỌC
MÔI TRƯỜNG MỎ
Dùng cho hệ Cao đẳng chuyên nghiệp
(Lưu hành nội bộ)
Người biên soạn: Nguyễn Thu Thùy
Uông Bí, năm 2010
LỜI NÓI ĐẦU
Con người đang tồn tại trên Trái đất, trong một môi trường thiên nhiên tự
cân bằng và ổn định sau hàng tỷ năm phát triển, với một hệ thống các quần thể
liên quan chặt chẽ với nhau như không khí, nước, đất đai, các động vật, thực
vật,… Sự rối loạn của bất kỳ một bộ phận nào đó trong hệ thống cũng có thể gây
ra những hậu quả nghiêm trọng, hoặc nhanh chóng hoặc từ từ, đối với bộ phận
khác, đối với chính bản thân hoặc đối với toàn hệ thống.
Trong những năm cuối của thế kỷ XX, con người nhận được những tín
hiệu báo động từ môi trường: thời tiết thay đổi bất thường, thiên tai liên tục xảy
ra trên nhiều vùng của Trái đất, bệnh tật và nhiều hình thái ô nhiễm tấn công sức
khẻo của cộng đồng nhân loại,… Nguyên nhân chính là do bầu không khí ngày
càng bị ô nhiễm, lớp khí thải CO2 ngày càng dày đặc và đã tạo ra hiệu ứng nhà
kính làm Trái đất nòng lên, nguồn nước cũng bị ô nhiễm, cảnh quan thiên nhiên
bị biến dạng, rừng bị tàn phá nặng nề, sự đa dạng của sinh học ngày càng thu
hẹp….làm thay đổi địa hình bề mặt mà trong đó ảnh hưởng do các hoạt động
khai thác mỏ cũng không phải là nhỏ.
Sự phát triển của ngành mỏ trong những năm qua không chỉ nhờ vào sự
phát triển vượt bậc cảu khoa học kỹ thuật mà còn nhờ vào sự rộng lớn bao la của
bề mặt Trái đất. Ngaỳ nay, khi con người đã có ý thức cao hơn về bảo vệ môi
trường thì những hoạt động khai thác mỏ ngày càng bị ràng buộc bởi nhiều điều
kiện khắt khe không chỉ về kinh tế kỹ thuật mà còn về khía cạnh bảo vệ môi
trường.
Tuy các hoạt động khai thác mỏ không phải là tác nhân chính trong việc
làm suy giảm môi trường sinh thái, nhưng cũng có ảnh hưởng trực tiếp và đáng
kể đến sự thu hẹp diện tích đất đai canh tác và thảm thực vật, làm biến động
dòng chảy đầu nguồn cũng như chất lượng của nguồn nước ngầm và nước mặt,
gây ồn và bụi, gây chấn động nền móng công trình, phá vỡ cảnh quan thiên
nhiên… Bởi vậy đánh giá tác động môi trường do hoạt động khai thác mỏ là
thực sự cần thiết cho việc xây dựng những giải pháp công nghệ và kỹ thuật,
nhằm hạn chế và khắc phục những hậu quả làm suy giảm môi trường do hoạt
động động khai thác mỏ.
Chương I
NHỮNG KHÁI NIỆM VỀ HỆ SINH THÁI VÀ MÔI TRƯỜNG
1.1. Khái niệm về hệ sinh thái
1.1.1. Khái niệm
Sinh vật và thế giới vô sinh xung quanh có quan hệ mật thiết với nhau,
thường xuyên có tác động qua lại và được đặc trưng bằng các dòng năng lượng
tạo nên cấu trúc dinh dưỡng xác định. Sự đa dạng về loài và chu trình tuần hoàn
vật chất trong một hệ thống gọi là hệ sinh thái.
Như vậy, hệ sinh thái là một hệ chức năng bao gồm quần xã của cơ thể
sống và môi trường của chúng
1.1.2. Thành phần của hệ sinh thái
Về cơ cấu hệ sinh thái có 6 thành phần và chia làm hai nhóm sau:
- Thành phần vô sinh: bao gồm các chất vô cơ ( C, N, CO2, H2O, O2) thamgia vào chu trình tuần hoàn vật chất, các chất hữu cơ ( protein, gluxit, lipit,
mùn…), chế độ khí hậu ( nhiệt đới ánh sáng, độ ẩm và các yếu tố vật lý khác).
- Thành phần hữu sinh: bao gồm các sinh vật sản xuất (cây xanh), sinh vật
lớn tiêu thụ hoặc sinh vật ăn sinh vật, sinh vật bé tiêu thụ hoặc các sinh vật hoại
sinh (chủ yếu là vi khuẩn và nấm).
1.1.3. Cấu trúc hệ sinh thái
Cấu trúc dinh dưỡng của hệ sinh thái nó được đặc trưng bởi xích thức ăn
trong hệ. Các xích thức ăn kết hợp với nhau tạo thành mạng lưới thức ăn. Ví dụ:
Cây xanh là bậc dinh dưỡng đầu tiên (sơ cấp) động vật ăn cỏ là bậc dinh
dưỡng thứ cấp động vật ăn thịt sẽ ăn các động vật ăn cỏ là bậc dinh dưỡng
thứ ba v.v. sinh vật hoại sinh là bậc phân hủy cuối cùng.
1.1.4. Các quá trình chính trong hệ sinh thái
Hệ sinh thái là đơn vị chức năng của sinh thái học, vì nó bao gồm cả sinh
vật và môi trường vô sinh (hình 1.1).
Trong hệ sinh thái thường xuyên có vòng tuần hoàn vật chất đi từ môi
trường ngoài vào cơ thể các sinh vật, từ sinh vật này sang sinh vật khác, rồi lại
từ sinh vật ra môi trường bên ngoài. Vòng tuần hoàn này được gọi là vòng sinh
địa hóa. Có vô số vòng tuần hoàn vật chất, trên các hình 1.2, hình 1.3 và hình
1.4 giới thiệu một số vòng tuần hoàn vật chất của các nguyên tố C, P, N.
Dòng năng lượng xảy ra đồng thời với vòng tuần hoàn vật chất ở hệ sinh
thái, năng lượng cung cấp cho tất cả các hệ sinh thái trên trái đất là năng lượng
mặt trời. Khác với vòng tuần hoàn vật chất, năng lượng không được tái sử dụng
mà phát tán, mất đi dưới dạng nhiệt. Vòng tuần hoàn của vật chất là vòng kín
còn dòng năng lượng là vòng hở.
Các yếu tố vô sinh
( Đất, nước, chất vô cơ, chất hữu cơ, khí hậu …)
Dòng vật chất
Dòng năng lượng
CO2
Vi sinh vật hóa tổng hợp Hô hấp và lên men
Thực vật xanh (SV tự
dưỡng)
Sự cháy
Động vật (SV dị dưỡng)
Than đá
Dầu lửa
Hình 1.2- Vòng tuần hoàn Cacbon
Thực vật
Động vật
Vi khuẩn
Khoáng hóa do vi khuẩn
Phốt phát hòa tan PO4
Quang hợp
chất hữu cơ
Trầm tích
đáy biển
Cá
Chim
Phân
chim
Đá trầm tích
Hóa thạch
Hình 1.3- Vòng tuần hoàn Phôt pho
N2
Không khí
Phân chim
Chim
Cá
Thực vật nổi
Động vật
Chất hữu
cơ chết
Hợp chất
tồn đọng
NO3
Thực vật
Hệ sinh thái có thể phân chia theo nhiều tiêu chuẩn khác nhau, cụ thể là:
- Theo quy mô: Hệ sinh thái nhỏ ( ví dụ một bể nuôi cá cảnh, một phòng
thí nghiệm…); hệ sinh thái trung bình ( một thị trấn, một cái hồ, một khu rừng,
…); hệ sinh thái lớn ( ví dụ như một đại dương, một thành phố lớn, ….).
- Theo bản chất hình thành: hệ sinh thái tự nhiên ( ví dụ như ao, hồ, đồng
cỏ, …) và hệ sinh thái nhân tạo ( ví dụ như làng xóm, thành phố, công viên, …)
- Theo điều kiện môi trường: hệ sinh thái tự nhiên và hệ sinh thái nhân văn.
Hệ sinh thái tự nhiên bao gồm 3 môi trường và tài nguyên chính: đất đai,
nước lục địa và biển, biển ven bờ.
Hệ sinh thái nhân văn bao gồm 2 môi trường chính: môi trường đô thị và
môi trường nông thôn.
1.1.5. Sự cân bằng của hệ sinh thái
Các thành phần của hệ sinh thái luôn luôn bị tác động của các yếu tố môi
trường, được gọi là các yếu tố sinh thái. Các yếu tố này được chia làm ba loại:
các yếu tố vô sinh, các yếu tố sinh vật và các yếu tố nhân tạo.
Các yếu tố vô sinh ( nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, áp suất, khí quyển, v.v ...)
tạo nên điều kiện sống cho sinh vật và ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự
tồn tại và phát triển của chúng.
Các yếu tố sinh vật đặc trưng bằng các dạng quan hệ hoặc tác động qua lại
giữa các sinh vật.
Các yếu tố nhân tạo là các hoạt động của con người (trong công nghiệp,
trong nông nghiệp, v.v…) tác động trực tiếp lên hoạt động sống của sinh vật
hoặc làm thay đổi điều kiện sống của chúng.
Cân bằng sinh thái là trạng thái ổn định trong đó các thành phần sinh thái ở
điều kiện cân bằng tương đối và cấu trúc toàn hệ không bị thay đổi. Dười tác
động của các yếu tố sinh thái, mức độ ổn định này có thể thay đổi.
Các hệ sinh thái tự nhiên đều có khả năng tự điều chỉnh riêng. Nhờ đó các
hệ sinh thái tự nhiên giữ được ổn định mỗi khi chịu tác động của nhân tố ngoại
cảnh. Tuy nhiên, sự tự điều chỉnh của hệ sinh thái có giới hạn nhất định. Nếu
thay đổi vượt quá gới hạn này, hệ sinh thái sẽ mất khả năng tự điều chỉnh và hậu
quả là chúng bị phá hủy.
Ô nhiễm môi trường là một hiện tượng xảy ra do hoạt động của con người
dẫn đến sự thay đổi các yếu tố sinh thái vượt quá giới hạn sinh thái của cá thể,
quần thể và quần xã, …
Xử lý ô nhiễm có nghĩa là đưa các yếu tố sinh thái trở về giới hạn sinh thái
của cá thể, quần thể và quần xã. Muốn xử lý được ô nhiễm cần phải biết được
cấu trúc và chức năng của hệ sinh thái và các nguyên nhân làm cho các yếu tố
sinh thái vượt quá giới hạn thích ứng. Đây là nguyên lý cơ bản được vận dụng
vào việc bảo vệ môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên.
1.2. Môi trường
1.2.1. Các định nghĩa
- Định nghĩa 1: Môi trường là tập hợp các thành phần vật chất vô cơ, sinh
vật và con người cùng tồn tại và phát triển trong một không gian và thời gian
nhất định. Giữa chúng có sự tương tác với nhau theo nhiều chiều mà tổng hòa
các mối tương tác đó sẽ quyết định lên chiều hướng phát triển của toàn bộ hệ
môi trường.
- Định nghĩa 2 ( Theo luật môi trường của Việt Nam năm 1994 ): Môi
trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và các yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật
thiết với nhau bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống sản xuất, sự tồn
tại, phát triển của con người và thiên nhiên.
- Định nghĩa 3 ( Luật sửa đổi năm 2005): Môi trường bao gồm các yếu tố
tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống
sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật.
- Định nghĩa 4 ( Theo Hội đồng Quốc tế Pháp ngữ): Môi trường là một tập
hợp ở một thời điểm đã cho các nhân tố vật lý, hóa học, sinh học và các nhân tố
xã hội có thể có một hậu quả trực tiếp hay gián tiếp, trước mắt hay lâu dài đối
với các sinh vật sống hoặc các hoạt động của con người.
- Định nghĩa 5: Môi trường là tất cả những gì ảnh hưởng đến mỗi sinh vật
trong thời gian sống của nó.
- Định nghĩa 6 (TS. Nguyễn Khắc Cường – ĐH kỹ thuật Tp Hồ Chí Minh):
Môi trường là tập hợp các điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng đến sự tồn tại hay
phát triển của một sinh vật hay một cộng đồng.
- Định nghĩa 7 (Unesco): Môi trường của con người bao gồm toàn bộ các
hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra. Trong đó con người sống
và lao động, họ khai thác tài nguyên thiên nhiên và nhân tạo nhằm thỏa mãn
nhu cầu của mình.
1.2.2. Phân loại về môi trường
* Theo tác nhân
- Môi trường tự nhiên: Là môi trường có sẵn do thiên nhiên tạo ra ( động
Phong Nha, rừng Cúc Phương,…)
- Môi trường Nhân tạo: Là môi trường do con người tạo ra ( làng xã, khu
vui chơi giải trí, …)
* Theo sự sống
- Môi trường vật lý: Môi trường vô sinh: Môi trường đất, nước, không khí
- Môi trường sinh học: Là môi trường có sự sống .
* Theo quyển
- Thạch quyển
- Khí quyển
- Thủy quyển
- Sinh quyển
1.2.3. Các thành phần cơ bản của môi trường
Trong môi trường sống luôn có sự tồn tại và tương tác giữa các thành phần
vô sinh và hữu sinh.
Về mặt vật lý Trái đất được chia thành 3 quyển vô sinh: khí quyển, thủy
quyển và địa quyển; chúng được cấu thành bởi các nguyên tố vật chất và chứa
đựng năng lượng dưới các dạng khác nhau: quang năng, thế năng, cơ năng, điện
năng, hóa năng…
Về mặt sinh học Trái đất có sinh quyển bao gồm các cơ thể sống và những
bộ phận của thành phần vô sinh tạo nên môi trường sống của các cơ thể này.
- Thạch quyển (môi trường đất):
Là lớp vỏ Trái đất có độ dày 60-70 km trên phần lục địa và 2-8 km dưới
đáy đại dương. Tính chất vật lý và thành phần hóa học của thạch quyên tương
đối ổn định, có ảnh hưởng to lớn đến sự sống trên Trái đất.
- Thủy quyển (môi trường nước):
Là phần nước của Trái đất bao gồm đại dương, sông, hồ, ao, suối, nước
ngầm, băng tuyết và hơi nước … Tổng lượng nước 1.454,7x106 km3, lượng
nước này nếu phủ lên bề mặt Trái đất sẽ tạo nên một lớp nước dày 0,3-0,4 m bao
gồm nước mặn, nước ngọt và nước lợ. Thủy quyển đóng một vai trò cực kỳ quan
trọng, không thể thiếu được trong việc duy trì sự sống của con người, sinh vật và
cân bằng khí hậu toàn cầu.
- Khí quyển (môi trường không khí):
Là lớp không khí bao quanh Trái đất. Khí quyển đóng vai trò cực kỳ quan
trọng trong việc duy trì sự sống và quyết định tính chất khí hậu thời tiết trên Trái
đất.
- Sinh quyển:
Bao gồm các cơ thể sống, thạch quyển, thủy quyển và khí quyển tạo nên
môi trường sống của sinh vật. Hay nói một cách khác sinh quyển là thành phần
môi trường có tồn tại sự sống. Sinh quyển gồm các thành phần hữu sinh (có sự
sống) và thành phần vô sinh có quan hệ chặt chẽ, tương tác phức tạp với nhau.
Khác với các quyển vật lý vô sinh, sinh quyển ngoài vật chất và năng lượng còn
chứa thông tin sinh học với tác dụng duy trì cấu trúc và cơ chế tồn tại, phát triển
của các vật sống. Dạng thông tin phức tạp và phát triển cao nhất là trí tuệ con
người có tác động ngày càng mạnh mẽ đến sự tồn tại và phát triển của Trái đất.
Những biến đổi sâu rộng, mạnh mẽ trên Trái đất cũng như những hoạt
động ban đầu của con người ở trong vũ trụ đều do trí tuệ con người tạo nên. Từ
nhậ thức đó hình thành khái niệm trí quyển. Trí quyển bao gồm các bộ phận của
Trái đất, tại đó có tác động của trí tuệ con người. Trí quyển chính là nơi xảy ra
những tác động to lớn về môi trường mà khoa học môi trường cần đi sâu nghiên
cứu.
1.3. Các tác động đối với môi trường
Trong suốt chiều dài lịch sử trên một triệu năm qua, kể từ khi con người
xuất hiện trên Trái đất, con người đã tác động vào môi trường xung quanh để
sống, song tác động đó chẳng đáng kể là bao. Con người đã trở thành kẻ độc tôn
chiếm đoạt nguồn lương thực và tài nguyên có thể khai thác được, đã làm chủ
toàn bộ hành tinh, sinh sống ở những hệ sinh thái rất khác nhau về điều kiện tự
nhiên.
Trong tiến trình của cách mạng khoa học kỹ thuật, của quá trình công
nghiệp và đô thị hóa nhanh chóng, tác động của xã hội loài người đối với môi
trường đạt đến một cường độ và một quy mô chưa từng thấy, với xu hướng ngày
càng mạnh mẽ, những hoạt động phá hoại môi trường không kiểm soát được và
tác hại rất nguy hiểm đến các điều kiện sống của loài người.
Trong những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, tình hình môi trường ở
trên thế giới đã chịu tác động của các đặc điểm sau:
1.3.1. Tăng trưởng dân số nhanh
Mặc dù đã có những cố gắng lớn về kế hoạch hóa dân số tại tất cả các nước
trên thế giới, dân số thế giới tiếp tục tăng. Dân số thế giới đã lên tới 5,769 tỷ
người và sẽ tiếp tục tăng tới 8,5 tỷ trong 3 thập kỷ tới. Trong số đó là 83,4% là
dân các nước đang phát triển. Sau năm 2025, tốc độ tăng dân số sẽ chậm lại và
lên tới 10 tỷ người vào năm 2050. Tốc độ tăng trưởng dân số toàn thế giới là
1,68% trong thời gian 1990-1995, giảm xuống 1,43% trong thời gian 2000-
2005.
Những vấn đề về môi trường mà tăng dân số đang đặt ra là:
- Lương thực
- Nhà ở và các nhu cầu về vệ sinh, sức khỏe và dịch vụ
- Chất lượng môi trường
1.3.2. Suy giảm tài nguyên đất
Hậu quả môi trường gắn liền trực tiếp với gia tăng dân số là suy giảm tài
nguyên đất.
Diện tích đất tự nhiên của nước ta là 33.618.900 ha, chưa kể các quần đảo
Trường Sa và Hoàng Sa. Về tổng diện tích nước ta đứng thứ 55 trên 200 nước.
Diện tích đất bình quân đầu người thấp. Diện tích đất nông nghiệp bình quân
đầu người rất thấp.Đất canh tác thực chỉ chiếm khoảng 80% đất nông nghiệp.
Do hiệu quả đầu tư một số đất nông nghiệp phải bỏ hóa. Tỷ lệ này có khả năng
tăng lên trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa.
1.3.3. Đô thị hóa mạnh mẽ
Số dân đô thị tăng lên nhanh chóng với tốc độ là 3% hàng năm cho toàn
Thế giới và 3 – 6,5% cho khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Dự báo đến năm
2020, tại các nước đang phát triển trong khu vực 50% dân số sống ở đô thị và tại
các nước phát triển là tỷ lệ này là 75%.
1.3.4. Hình thành các siêu đô thị
Xu thế đô thị hóa này sẽ dẫn đến sự hình thành các siêu đô thị với dân số
trên 4 triệu người. Tới năm 2000 trên thế giới có 20 siêu đô thị với số dân trên
10 triệu người, trong đó 11 ở Châu Á, 7 ở Châu Mỹ và 2 ở Châu Phi. Ở khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương hiện có 18 thành phố trên 4 triệu dân, con số này sẽ
tăng lên 52 vào năm 2025. Thành phố Hồ Chí Minh sẽ là một trong các siêu đô
thị này.
Sự hình thành các siêu đô thị tại tất cả các nước đều gây nên những vấn đề
khó khăn và phức tạp về chất lượng môi trường sống: ô nhiễm do công nghiệp,
giao thông vận tải, tiêu tốn nhiều vật liệu, năng lượng, xử lý rác thải, các vấn đề
xã hội
1.3.5. Mất cân đối dân số đô thị và nông thôn
Dân số đô thị toàn thế giới hiện nay dang tăng nhanh với tốc độ 1%. Tại
khu vực Châu Á – Thái Bình Dương tốc độ này là 1 – 1,25%. Với xu thế này, sự
phân bố cư dân đô thị và nông thôn ngày càng mất cân bằng. Một mặt lực lượng
lao động trẻ sẽ bị thu hút vào đô thị, gây thêm những căng thẳng về chất lượng
môi trường, mặt khác tại nông thôn do thiếu lực lượng lao động trẻ, khỏe, công
tác hồi phục suy thoái vì vậy sẽ gặp nhiều khó khăn.
1.3.6. Tăng trưởng kinh tế và thu nhập không đồng đều
Có thể nói rằng trong thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20, tất cả các quốc gia,
trừ những quốc gia đang bị nội chiến tàn phá, đều có những cố gắng vượt bậc để
phát triển kinh tế và đã đạt được những kết quả to lớn, tuy nhiên sự không đồng
đều về kinh tế, thu nhập và mức sống vật chất giữa các quốc gia ngày càng tăng.
1.3.7. Nhu cầu năng lượng tăng nhanh
Trong lĩnh vực năng lượng có các vấn đề môi trường quan trọng sau: ô
nhiễm và tàn phá tài nguyên do khai thác than, ô nhiễm do các nhà máy nhiệt
điện, các lò hơi và các lò đốt, ô nhiễm do khai thác, chuyển và chế biến dầu khí,
các tác động tiêu cực của các hồ chứa và nạn phá rừng khai thác chất đốt.
1.3.8. Sản xuất lương thực tăng chậm
Trong các hoạt động của con người, tới nay sản xuất nông nghiệp được
xem là loại hình hoạt động có tác động mạnh mẽ, nhiều mặt tới môi trường. Với
việc cải tiến kỹ thuật, công nghệ, mở rộng diện tích trồng trọt, con người về cơ
bản đã thỏa mãn nhu cầu lương thực cho mình. Tới giữa thế kỷ XXI, dân số sẽ
lên tới 10 tỷ, để nuôi sống đủ số người này cần tăng sản lượng lương thực hiện
nay lên 2,5 – 3 lần.
Trong những năm qua đường lối chính sách “đổi mới” kết hợp với các tiến
bộ khoa học và công nghệ về trồng trọt, chăn nuôi, khai thác thủy sản đã đem lại
cho nước ta những thành tựu tốt đẹp về sản lượng lương thực và thực phẩm.
1.3.9. Gia tăng sử dụng phân bón hóa học và thuốc trừ sâu
Nhìn chung trên toàn thế giới, lượng phân bón hóa học và thuốc trừ sâu
diệt cỏ vào sử dụng nông nghiệp đang tiếp tục tăng thêm, tại một số nơi tăng lên
theo cấp số nhân. Trong những năm gần đây, các tổ chức Quốc tế như: Tổ chức
nông lương (FAO), Tổ chức y tế thế giới (WHO), Chương trình phát triển của
liên hợp quốc và nhiều tổ chức môi trường đã cố gắng việc hạn chế việc sử dụng
các hóa chất nhân tạo vào nông nghiệp đã thu được những kết quả bước đầu.
Tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương là nơi đã và đang có gia tăng
mạnh mẽ về sử dụng thuốc trừ sâu. Hiện nay đất nông nghiệp hàng năm đang
giảm đi 0,255, nhu cầu lương thực lại đang tăng lên nên có thể dự báo rằng việc
sử dụng phân bón hóa hcoj và thuốc trừ sâu trong nông nghiệp sẽ tiếp tục tăng
lên. Thuốc trừ sâu gây tác hại sâu sắc đến chất lượng môi trường và sức khỏe
con người. WHO đã ước lượng rằng mỗi năm có 3% nhân lực lao động nông
nghiệp ở các nước đang phát triển bị nhiễm độc thuốc trừ sâu.
1.3.10. Gia tăng sa mạc hóa
Sa mạc hóa là nguy cơ hết sức to lớn hủy diệt môi trường đang xảy ra trên
toàn thế giới. Chỉ trừ Châu Âu và Bắc Mỹ là không có sa mạc. Châu Phi, Châu
Á, Châu Úc, Nam Mỹ và Trung Mỹ đều có sa mạc.
Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương có 860 triệu ha trước đây là đất nông
nghiệp, hiện nay đã bị sa mạc hóa. Với tình hình phá rừng và kỹ thuật canh tác
không hợp lý, trong các thập kỷ tới một diện tích quan trong đất tại các vùng
khô cằn và bán khô cằn trong khu vực sẽ tiếp tục bị sa mạc hóa.
Ở nước ta hiện nay, không có hiện tượng sa mạc hóa một cách rõ rệt trên
phạm vi rộng. Tuy nhiên, tại Nam Trung Bộ, ven biển miền Trung hiện tượng
khô cằn của một số vùng, kể cả những vùng bãi ven sông trở thành một vấn đề
môi trường trầm trọng trong các tháng mùa khô.
1.3.11. Mất rừng
Việc bành chướng đất nông nghiệp, khai thác gỗ củi, xuất khẩu gỗ tròn,
sản xuất bột giấy là những nguyên nhân chính của phá rừng.
Tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương hàng năm bị mất khoảng 5 triệu
ha. Củi đốt chiếm 80% cây rừng bị chặt hạ. Mất rừng kéo theo giảm sút chất
lượng đất, cạn kiệt nguồn nước, suy thoái đa dạng sinh học, năng suất nông
nghiệp, thủy sản đều bị ảnh hưởng.
1.3.12. Suy giảm lượng thủy sản
Trong khoảng 10 năm qua, lượng đánh bắt hải sản tại một số vùng biển
trên thế giới đã giảm sút nhiều. Tuy nhiên, tại Thái Bình Dương và Ấn Độ
Dương lượng này đã tăng lên gần 70%, làm cho lượng hải sản đánh bắt trên toàn
thế giới vẫn tăng 25%. Trong 7/15 ngư trường lớn cá đã b