I. Khái niệm
Ngoại khoa thú y là một môn khoa học chuyên nghiên cứu những nguyên tắc và
phương pháp chung thực hiện các phẫu thuật ngoại khoa và các bệnh ngoại khoa xảy
ra ở vật nuôi. Là tổng hợp những tác động cơ giới vào một tổ chức, cơ quan của động
vật để thực hiện mục đích nào đấy.
Ví dụ: Thực hiện các phẫu thuật trong chấn thương, nhiễm trùng, tổn thương,
hoại tử, hoại thư, hecnia.
Theo tiếng latinh ngoại khoa được gọi là Chirurgie, được kết hợp từ 2 từ Chiros
và Urgos. Chiros: có nghĩa là ngón tay và Urgos: có nghĩa là nhanh chóng, cấp tốc.
Tức là phẫu thuật cần đến sự nhanh chóng và khéo léo để chữa lành vết thương.
158 trang |
Chia sẻ: hoang10 | Lượt xem: 1280 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng môn Ngoại khoa thú y, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
- 1 -
BÀI MỞ ĐẦU
I. Khái niệm
Ngoại khoa thú y là một môn khoa học chuyên nghiên cứu những nguyên tắc và
phương pháp chung thực hiện các phẫu thuật ngoại khoa và các bệnh ngoại khoa xảy
ra ở vật nuôi. Là tổng hợp những tác động cơ giới vào một tổ chức, cơ quan của động
vật để thực hiện mục đích nào đấy.
Ví dụ: Thực hiện các phẫu thuật trong chấn thương, nhiễm trùng, tổn thương,
hoại tử, hoại thư, hecnia..
Theo tiếng latinh ngoại khoa được gọi là Chirurgie, được kết hợp từ 2 từ Chiros
và Urgos. Chiros: có nghĩa là ngón tay và Urgos: có nghĩa là nhanh chóng, cấp tốc.
Tức là phẫu thuật cần đến sự nhanh chóng và khéo léo để chữa lành vết thương.
II. Vị trí môn học ngoại khoa trong phòng và chữa bênh vật nuôi
Ngoại khoa thú y là môn học chuyên khoa quan trọng trong hệ thống kiến thức
thú y. Cùng với các môn học chuyên khoa khác như : Bệnh học nội khoa, Truyền
nhiễm, Ký sinh trùng, Sản khoa,... môn học ngoại khoa khoa thú y góp phần hoàn
thiện kiến thức chuyên môn cho người học nghề và hành nghề thú y
- Nhiều bệnh hoặc nhiều kỹ thuật xử lý vật nuôi không thể dùng thuốc để can
thiệp mà phải có phẫu thuật ngoại khoa mới giải quyết được.
Ví dụ : Nối ruột, Cắt bỏ khối u, mổ áp xe, mổ đẻ, mổ Hernia, nối gân,
- Thực hiện các quy trình công nghệ chăn nuôi bình thường phải nhờ các phẫu
thuật ngoại khoa giải quyết.
Ví dụ: Triệt sản để vỗ béo gia súc, cắt sừng hươu, nai hàng năm, lấy nhung, cắt
bỏ răng nanh lợn con...
- Phẫu thuật ngoại khoa chỉnh hình
Ví dụ: vá mũi trâu, bò bị sứt, phẫu thuật bắt chéo dương vật để làm đực thí tình
Từ những ví dụ trên cho thấy môn ngoại khoa có liên quan rất nhiều đến môn học
khác và người bác sỹ ngoại khoa có một vai trò quan trọng để chứng minh kết quả
chẩn đoán của bác sĩ nội, sản khoa là chính xác và bằng lưỡi dao mổ họ sẽ hoàn tất
việc điều trị bệnh.
III. Mối quan hệ với môn học khác
Môn ngoại khoa gia súc là một môn học có quan hệ với nhiều môn học khác. Do
vậy, muốn nắm chắc được môn ngoại khoa và ứng dụng vào điều kiện sản xuất, chúng
ta cần biết mối liên quan giữa môn học này với các môn học khác. Sự liên quan này
được thể hiện chặt chẽ và logic với một số môn học sau:
- Giải phẫu học: Không thể mổ tốt nếu không có kiến thức tốt về giải phẫu định
khu các vùng mổ. Ví dụ: Không thể mổ đẻ tốt, nếu không có kiến thức giải phẫu về
cơ, mạch máu, thần kinh,....ở vùng bụng, ở cơ quan tử cung.
- 2 -
- Sinh lý, Bệnh lý, Dược lý, Vi sinh vật: sẽ không thành công với bất kỳ một ca
phẫu thuật nào nếu người phẫu thuật không có kiến thức tốt về những môn học này,
đặc biệt môn Dược lý và Vi sinh vật học. Kiến thức hai môn học này góp phần quyết
định sự thành công của của điều trị ngoại khoa.
- Chẩn đoán bệnh: giúp người thầy thuốc thú y xác định và phân biệt chính xác
các bệnh ngoại khoa với các bệnh khác, để lựa chọn phương án điều trị tối ưu.
- Vệ sinh gia súc: Trong lĩnh vực thú y nói chung và ngoại khoa thú y nói riêng,
ta không chữa bệnh bằng mọi giá, phải có quan điểm kinh tế rõ ràng, toàn diện. Nếu
sau phẫu thuật con vật không khôi phục được khả năng làm việc, không nâng cao khả
năng sản xuất thì tốt nhất nên loại thải, không điều trị. Quá trình phẫu thuật điều trị
ngoại khoa thú y phải luôn diễn ra trong môi trường vệ sinh sạch sẽ, ngược lại phẫu
thuật điều trị sạch sẽ (tiêu độc khử trùng tốt) sẽ góp phần đảm bảo môi trường an toàn,
bền vững.
- Luật Chăn nuôi thú y : Moị việc làm phải xuất phát từ lợi ích xã hội, lợi ích của
người chăn nuôi, của cộng đồng.
Ví dụ: Các thao tác chọn lọc rò túi mật để chữa các bệnh về gan, mật là đúng, là
tốt: nhưng chọc dò túi mật nhằm thu gom mật (mật gấu) một cách tàn nhẫn, tràn lan làm
tổn hại đến quần thể vật nuôi quý hiếm cần được bảo vệ lại là có “tội’’, trái pháp luật.
Tóm lại, môn học ngoại khoa thú y có liên quan trực tiếp đến rất nhiều các môn
học khác, ngành học khác, người học nghề cần phải quán triệt đủ và thực thi cho tốt.
IV. Nội dung chính của môn học ngoại khoa thú y
Bao gồm hai phần chính yếu:
4.1. Ngoại khoa thú y thực hành (phẫu thuật ngoại khoa)
Trong phần này đề cập đến những nguyên tắc, phương pháp chung để thực hiện
những phẫu thuật ngoại khoa. Trang bị cho người học những kỹ thật cơ bản như :
Phương pháp khử trùng tiêu độc trước, trong và sau phẫu thuật, kỹ thuật gây mê, gây
tê, phương pháp rạch mổ, bóc tách tổ chức, phương pháp cầm màu trước, trong và sau
phẫu thuật, phương pháp khâu vết mổ, kỹ thuật chăm sóc hậu phẫu...
Người thầy thuốc ngoại khoa phải là người rất khéo tay trong thao tác, linh hoạt
chuẩn xác trong xử lý tình huống phẫu thuật, nhằm đảm bảo mỗi ca phẫu thuật phải
đạt được yêu cầu: sạch, đẹp, nhanh, vô trùng chính xác và thành công
4.2. Bệnh học ngoại khoa
Tại phần này cung cấp kiến thức về bệnh ngoại khoa thú y, chia làm hai nội dung
cơ bản.
- 3 -
- Ngoại khoa đại cương: Phần này đề cập đến những khái niệm chung, những
dạng bệnh lý chung: Chấn thương, nhiễm trùng ngoại khoa, vết thương, tổn thương vật
lý, hoá học
- Ngoại khoa chuyên khoa: Đề cập đến những bệnh ngoại khoa cụ thể của cơ thể như:
bệnh ở xương, bệnh về khớp, bệnh tại cơ, bệnh của mắt, bệnh ở cơ quan sinh dục...
V. Yêu cầu khi hành nghề ngoại khoa thú y
5.1. Về kiến thức
Phải có kiến thức tốt về Chẩn đoán, Giải phẫu, Vi sinh vật và kỹ thuật vô trùng,
kiến thức về Dược học, Bệnh lý học,...
Phải hiểu được các quá trình bệnh lý, các triệu chứng lâm sàng,... của các Bệnh
ngoại khoa thú y.
Phải biết cách Chẩn đoán, điều trị các bệnh ngoại khoa thú y thông thường nhất,
phổ biến nhất trong chăn nuôi thú y ở Vệt Nam.
Phải hiểu biết về kiến thức xã hội, kinh tế, luật pháp có liên quan đến ngành nghề
thú y.
5.2. Về kỹ năng
Biết làm và tiến tới thành thạo các phẫu thuật ngoại khoa cơ sở như: tiêm, mổ,
kỹ thuật cầm máu, kỹ thuật khâu, kỹ thuật băng bó, kỹ thuật vô trùng,...
Biết tiến hành chẩn đoán đúng và điều trị chính xác các bệnh ngoại khoa thú y.
Về yêu cầu này, tuỳ trình độ đào tạo trung cấp thú y, cao đẳng thú y hay thú y cơ sở
mà xác định cho tương thích.
5.3. Về thái độ
Phải thường xuyên học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực ngành nghề.
Học trong sách vở, học trong thực tế.
Chống mọi biểu hiện qua loa đại khái, tắc trách khi hành nghề. Phải làm việc cẩn
trọng, chính xác, hiệu quả.
Có ý thức bảo vệ mình đối với những rủi ro nghề nghiệp có thể xảy ra (lây nhễm
bệnh từ vật nuôi mắc bệnh).
Có tình thương yêu con bệnh, hạn chế tối đa đau đớn gây ra cho con vật. Phải gây
mê, gây tê đúng chỉ định trong mọi phẫu thuật. Thực hiện nghiêm túc vệ sinh tiêu độc
trước, trong và sau phẫu thuật.
Quan tâm, phối hợp tốt với chủ bệnh súc để chăm sóc, hộ lý tốt đối với con bệnh
sau phẫu thuật, để con bệnh mau lành bệnh, nâng cao uy tín chuyên môn cho bản thân
mình. Đây chính là một phần y đức của người thầy thuốc thú y.
- 4 -
* Phân loại phẫu thuật
.Căn cứ vào mục đích phẫu thuật:
- Phẫu thuật chẩn đoán, điều trị
- Phẫu thuật kinh tế
- Phẫu thuật nghiên cứu, thí nghiệm
- Phẫu thuật thẩm mỹ
Tuy nhiên phẫu thuật ngoại khoa được tiến hành khi các phương pháp điều trị
khác không đạt được mục đích. Khi tiến hành một ca phẫu thuật cần phải cân nhắc tới
tính kinh tế. Ngoại trừ các trường hợp đối với thú quý hiếm hay vật nuôi yêu thích.
.Căn cứ vào qui mô của phẫu thuật:
- Đại phẫu thuật: cần nhiều thời gian và nhiều người tham gia
- Tiểu phẫu thuật: cần vài phút đến vài chục phút và có 2-3 người tham gia.
.Căn cứ vào tính chất của phẫu thuật:
- Phẫu thuật vô trùng: thực hiện ở những vết thương, vết mổ vô trùng. Từ khâu
chuẩn bị, phẫu thuật tới hộ lý, chăm sóc đều đảm bảo nguyên tắc vô trùng.
- Phẫu thuật nhiễm trùng: là những phẫu thuật tiến hành trên vết thương, vết
mổ nhiễm trùng (mổ áp xe, lỗ rò,). Những trường hợp này sau khi phẫu thuật xong
phải điều trị như vết thương nhiễm trùng. ứng dụng, yêu cầu phải có những hiểu biết
sâu sắc về kỹ thuật mổ xẻ và am hiểu tận
Như vậy: Phẫu thuật ngoại khoa là một khoa học về cấu tạo cơ thể gia súc
nhưng đồng thời cũng đòi hỏi ở người thực hiện phẫu thuật một kỹ năng nhất định
nhằm đạt được sự chính xác và nhanh chóng. Để có được điều này, người phẫu thuật
cần có sự luyện tập thường xuyên.
- 5 -
Phần 1
THỰC HÀNH NGOẠI KHOA THÚ Y
Chương 1. KỸ THUẬT CƠ BẢN CỦA NGOẠI KHOA THÚ Y
I. PHƯƠNG PHÁP CỐ ĐỊNH GIA SÚC
Khi phẫu thuật gia súc, dù phẫu thuật lớn hay nhỏ nhất thiết phải cố định gia
súc chắc chắn. Cố định gia súc là việc làm cần thiết, trước tiên của một ca phẫu thuật.
Cố định gia súc giúp ngăn ngừa việc chống cự, tấn công của gia súc; tránh được những
tai nạn đáng tiếc cho cả người và gia súc; tạo điều kiện thuận lợi, rút ngắn được thời
gian thực hiện, giảm nguy cơ nhiễm trùng vết mổ và tránh việc mất máu nhiều khi
phẫu thuật.
1.1. Một số điểm cần lưu ý khi cố định gia súc
Khi tiếp xúc với gia súc phải có thái độ ôn hòa, thân mật nhất là đối với loài có
tính hưng phấn cao. Cần tránh có những động tác thô bạo, thái độ nóng nảy làm cho
gia súc sợ hãi gây khó khăn cho việc cố định.
Trước khi thực hiện cố định gia súc cần kiểm tra kỹ lưỡng dụng cụ cố định (dây
thừng, rọ mõm, giá cố định).
Nơi cố định phải được dọn vệ sinh sạch sẽ, đặc biệt không có vật cứng (gạch
đá, đinh thép, dây thép gai, mảnh sành,...) nhằm tránh những tổn thương cho gia súc
khi cố định.
Khi gia súc ăn quá no, cần tránh việc vật ngã một cách thô bạo. Đối với gia súc
mang thai cần thận trọng khi cố định.
Các thao tác cố định phải được tiến hành nhanh, chính xác. Các nút buộc cần
đơn giản mà chắc chắn, dễ giải thoát cho vật nuôi khi có các tai biến. Trong phẫu thuật
ngoại khoa khi cố định cần sử dụng các nút thắt “sống” để dễ dàng giải thoát gia súc
khi có tai biến xảy ra.
Tùy theo vị trí phẫu thuật, loài gia súc mà có các cách cố định cho hợp lý. Tư
thế của con vật sau khi cố định phải thuận lợi cho người thực hiện phẫu thuật.
1.2. Phương pháp cố định
1.2.1. Phương pháp cố định trâu, bò
* Xoắn tai
Để xoắn tai người ta dùng dây xoắn tai. Dây xoắn tai là nguyên nhân gây đau
đớn cho bò, làm lệch sự chú ý khi có tác nhân gây đau đớn ở những phần khác trên cơ
thể. Đây là phương pháp có hiệu quả nhưng cần chú ý tránh gây hư hại cho lớp sụn
của tai.
- 6 -
* Cố định một chân trước
Một vòng dây được buộc vào cổ chân, đầu còn lại vòng qua u vai, đưa ra phía
trước và được giữ chặt. Nó sẽ được bỏ ra khi bò bắt đầu ngã.
* Cố định một chân sau
Cố định một chân sau của trâu, bò khó khăn hơn nhiều so với cố định chân
trước vì trâu, bò rất khỏe. Muốn thực hiện được, chúng ta phải dùng dây thừng buộc
vào đốt ngón chân của chúng rồi kéo lên. Đầu dây thừng tự do vắt qua người con vật
hoặc thanh dọc của gióng cố định.
* Cố định đứng trong giá
Gía cố định được làm với 4 cột trụ chôn chặt xuống đất hoặc có bộ giá bằng sắt
hay xi măng cốt thép. Kết nối giữa bốn trụ là các gióng dọc và ngang trải đều 2 tầng
trên và dưới. Có các dây thừng và chão để buộc giữ; ghìm đầu, đỡ bụng, chằng ngang
lưng, khóa hai chân sau hoăc cả bốn chân. Cố định trâu, bò đứng trong giá bốn trụ
dùng để thực hiện các ca phẫu thuật phức tạp có thời gian kéo dài.
Hình 1. Cố định bò trong gióng 4 trụ Hình 2. Phương pháp cố định bò
* Phương pháp vật trâu bò
+ Vật bò:
- Cách thứ nhất: dùng một sợi dây thừng bền chắc, dài 5-6 m. Một đầu dây buộc
cố định vào hai gốc sừng con vật. Đầu kia luồn thành hai vòng; một vòng quanh ngực,
một vòng quanh bụng sao cho tạo thành hai vòng nút. Đoạn dây còn lại được kéo dọc
thân con vật. Khi vật, một người vặn đầu con vật ở tư thế: một tay ghìm sừng xuống,
một tay cầm mõm hất lên; một người cầm đuôi kéo về phía định cho con vật ngã; một
số người khác kéo đầu dây tự do. Nếu có đủ người thì cả 2 đầu dây được thả tự do,
chia số người ra làm 2 tốp kéo về 2 phía ngược chiều nhau, dọc thân con vật. Phải có
sự hiệp đồng chặt chẽ giữa những người tham gia. Con vật nằm xuống, nhanh chóng
ghìm sừng, đè đầu và cột 4 chân lại. Đây là động tác quan trọng nhất khi vật bò; nếu
để đầu nó cất lên thì con vật lập tức đứng dậy.
- 7 -
- Cách thứ 2: dùng dây thừng có độ dài từ 4-5m. Một đầu buộc chặt vào hai
gốc sừng; đầu còn lại luồn qua vòng dây buộc quanh bụng tại vị trí tiếp giáp giữa các
đốt sống hông – khum. Khi vật: một người vặn đầu, kéo đuôi, những người khác kéo
đầu dây tự do. Con vật ngã, nhanh chóng ghì đầu rồi chói chặt 4 chân lại. Phương pháp
này thường dùng để vật những con bò gầy yếu, bò béo khỏe thường rất khó vật.
Đối với bê ta có thể áp dụng phương pháp sau: người vật vòng người qua lưng
bê, nắm chặt 2 chân (chân trước và chân sau ở cùng một bên) rồi nhấc lên. Bê ngã, lập
tức dùng đầu gối đè lên vai và phần sau, lấy dây thừng cột 4 chân lại.
Hình 3. Phương pháp vật bê Hình 4. Phương pháp vật trâu
+ Vật trâu
Dùng dây thừng bền chắc, luồn thành các nút số 8 ở hai chân trước và hai chân
sau. Buộc sao cho các nút thắt lại được khi kéo mà không bị tuột ra (đoạn dây tự do
phải nằm phía dưới vòng nút). Khi vật, một người khỏe ghìm giữ đầu; một người kéo
đuôi; số còn lại chia làm 2 tốp kéo cùng về 1 phía. Khi kéo, các vòng của nút số 8 thiết
chặt dần; hai chân phải, hai chân trái sát lại gần nhau; con vật mất khả năng trụ và đổ vật
xuống. Tương tự như vật bò, nhanh chóng ghìm đầu, dùng dây thừng buộc chặt 4 chân.
1.2.2. Phương pháp cố định ngựa
* Xoắn mũi
Dùng để cố định ngựa ở tư thế đứng. Phương pháp này chỉ nên áp dụng trong
các trường hợp thăm khám, điều trị mang tính chất đơn giản.
Nguyên tắc: lợi dụng ngựa có môi
trên với gương mũi dài và mỏng, tập trung
nhiều đầu mút dây thần kinh. Khi xoắn
mũi, con vật đau đớn và tập trung sự chú
ý vào vùng mũi mà hoàn toàn không để ý
tới người khác đang ở phía sau thực hiện
thao tác khám bệnh hay điều trị.
Hình 5. Dụng cụ xoắn mũi
- 8 -
Cách tiến hành: một tay giữ cương, một tay nắm lấy mũi con vật xoay nửa
vòng. Xoay sao cho vừa đủ sự thu hút tập trung của con vật, không nên xoay quá
mạnh. Nếu tay không nắm chặt được thì dùng một vòng dây vòng vào vùng môi trên,
lồng vào đó một chiếc que sau đó cầm que xoắn dây lại hoặc dùng dụng cụ xoắn mũi
chuyên dụng. Chú ý những thao tác xoắn mũi khi thực hiện không gây ra sự hoảng
loạn và ít đau đớn. Nếu đau đớn quá con vật sẽ hoảng loạn, giẫy giụa nhằm thoát khỏi
sự cố định.
* Giữ dây cương hàm thiếc
Để điều khiển ngựa, người ta dùng dây cương và hàm thiếc. Hàm thiếc làm
bằng kim loại, cho vào miệng ngựa để đè lưỡi xuống nhằm tránh cắn vào lưỡi khi làm
việc, vận động mạnh. Dây thừng buộc vào hàm thiếc để điều khiển ngựa gọi là dây
cương. Khi muốn khám bệnh, tiêm hay cho uống thuốc chỉ cần giữ dây cương tại
nơi tiếp xúc với hàm thiếc, con vật tạm thời đứng yên tại chỗ (bốn chân vẫn rậm rịch)
nếu việc làm của chúng ta không gây sợ hãi cho con vật.
* Cố định bằng khung càng xe ngựa kéo
Đối với ngựa kéo xe, khó cố định bằng xoắn mũi hay giữ dây cương hàm thiếc
ta có thể cho vào trong khung càng xe kéo (như là mắc xe cho chúng đi làm). Xe ngựa
kéo có hai càng khỏe, do đó khi cố định bằng phương pháp này cũng gần như đạt được
sự chắc chắn như cố định trong giá bốn trụ.
* Cố định một chân
Vật nuôi 4 chân khi bị cố định một chân bằng cách bắt chân co lên thì sự di
chuyển của nó trở nên khó khăn rất nhiều. Lợi dụng đặc điểm này, chúng ta có thể cố
định vật nuôi đứng tạm thời bằng cách bắt chúng co một chân lên; việc bắt gia súc co
chân trái hay phải, trước hay sau là tùy thuộc vào vị trí cần kiểm tra.
* Cố định một chân trước
Cố định một chân trước ở ngựa có thể dùng tay hoặc dùng dây thừng
Cố định bằng tay: người cố định quay mặt
về phía đuôi ngựa. Khi cố định chân trái thì dùng
tay phải và ngược lại. Tay phải vuốt nhẹ từ cổ
xuống vai, đến cổ chân thì nắm chặt; tay trái tỳ
lên vùng gáy con vật đồng thời hơi đẩy sang bên
kia rồi nhấc chân trái lên; tay phải đẩy chân trái
con vật về phía sau rồi nhấc lên, dùng hai tay nắm
chắc cổ chân con vật. Hình 6. Cố định một chân trước
- 9 -
Cố định bằng dây thừng: dùng một đầu dây thừng buộc thành nút sống ở cổ chân
ngựa, dùng tay đẩy nhẹ vai đồng thời cầm dây kéo chân con vật lên. Sau đó, vắt đầu
dây thừng còn lại qua vai, luồn qua nách con vật đồng thời quấn đầu dây thừng về phía
sau, một người giữ đầu dây thừng.
* Cố định một chân sau
Cố định một chân sau của ngựa cũng có thể dùng tay hoặc dây thừng.
Cố định bằng tay: Người cố định mặt quay về phía đuôi, dùng tay trái để giữ
chân phải con vật và ngược lại. Muốn cố định chân phải của ngựa thì tay phải tỳ nhẹ
lên khớp xương cánh chậu của con vật, tay trái vuốt nhẹ từ mông xuống đùi đến cổ
chân thì nắm chặt rồi nhấc lên và đưa về phía sau đồng thời chân trái người cố định
bước lên một bước rồi tỳ cổ chân con vật lên đầu gối mình hay kẹp chân của nó giữa 2
đùi của người cố định và dùng 2 tay giữ chặt.
Cố định bằng dây thừng: sử dụng dây thừng dài 3 – 4m buộc đoạn giữa vào
đuôi ngựa hai đầu dây tự do, vòng qua mặt trước ngón chân rồi kéo về 2 phía nhấc lên.
Hình 7. Cố định một chân sau bằng tay Hình 8. Cố định một chân sau bằng dây thừng
* Cố định 2 chân sau
Phương pháp này được sử dụng để tránh trường hợp ngựa đá, ứng dụng trong
các trường hợp khám bệnh hay phẫu thuật ở trực tràng hay âm đạo.
Trước hết buộc một vòng dây ở cổ, hai đầu của sợi dây đưa về phía sau và nằm
ở giữa 2 chân trước. Sau đó buộc một vòng ở mỗi chân sau. Hoặc có thể sử dụng một
vòng đeo cổ bằng vải để thay thế cho vòng dây và 2 vòng tròn nhượng để thay thế cho
mối cột ở trên 2 khớp nhượng.
Hình 9. Cố định hai chân sau Hình 10. Phương pháp vật ngựa
- 10 -
* Vật ngựa
Có nhiều phương pháp vật ngựa, thông thường hay sử dụng phương pháp sau:
- Dùng sợi dây thừng dài khoảng 4-5m, một đầu dây buộc cố định vào cổ ngựa.
Nếu muốn ngựa ngã về bên nào thì dùng đầu dây thừng còn lại kéo về phía sau bên ấy
rồi vòng qua mông con vật, luồn dây thừng vào vòng dây buộc ở cổ rồi kéo xuống
buộc ở cổ chân sau bên định cho ngựa ngã. Một người giữ chặt đầu ngựa, một người
giữ chặt đầu dây còn lại được vắt qua vai ngựa. Đồng thời kéo mạnh làm cho 2 chân
sau tiến về phía trước, một chân sau của ngựa bị nhấc lên gây mất thăng bằng, nó sẽ
nằm xuống theo tư thế chó nằm. Sau khi ngựa nằm xuống cần có người ghì đầu ngựa
xuống đất, đồng thời nhanh chóng trói hai chân sau và hai chân trước lại.
- Dùng 4 vòng cổ chân, đeo vào chân ngựa. Các vòng này được nối với nhau
bằng sợi dây thừng chừng 5m. Một người nắm đuôi nhằm đỡ con vật khi ngã. Kéo
mạnh sợi dây, 4 chân ngựa gom lại gây mất thăng bằng làm ngựa ngã xuống. Tiếp theo
dùng dây buộc một đầu vào trên khớp nhượng của chân sau phía trên, phần còn lại
luồn qua 2 chân trước, choàng qua vai bên kia và quấn 1 vòng vào cổ chân sau để nhấc
lên. Phương pháp cố định này thường dùng để thiến ngựa. Hình 11,12.
Hình 11. Phương pháp vật ngựa Hình 12. Phương pháp cố định ngựa khi ngã
1.2.3. Phương pháp cố định lợn
Khi thực hiện phẫu thuật ở những con nhỏ việc cố định rất đơn giản nhưng khi
tiến hành ở những con vật lớn thường rất khó vì chúng béo lẳn và trơn.
* Cố định lợn để thiến
Đối với lợn nhỏ có thể cố định bằng cách xách ngược hai chân sau lên,
mặt bụng quay ra ngoài. Người cố định dùng hai đầu gối để kẹp phần dưới của
lợn lại. Đây là cách đơn giản để tiêm tiêm cho lợn.
Nếu để thiến lợn đực thì phần lưng của lợn quay ra phía ngoài và phần đầu của
nó nằm giữa hai chân sau của người cố định.
- 11 -
Hình 13. phương pháp giữ lợn Hình 14. Phương pháp cố định lợn nằm ngửa
* Cách cố định để cho lợn uống thuốc
Người cố định nắm hai chân trước của lợn và để ở tư thế tựa mông trên mặt đất.
Dùng hai đầu gối kẹp vào hai bên vai để ghìm giữ lợn.
* Cố định lợn ở tư thế nằm ngửa
Phương pháp cố định này thường dùng trong trường hợp phẫu thuật vùng bụng.
Dùng một máng ăn, bên dưới được lót bằng bao bố, đặt