Nhà nước và Pháp luật là hai khái niệm xuất hiện và song song tồn tại. Pháp luật ra đời cùng với Nhà nước, là công cụ sắc bén để thực hiện quyền lực nhà nước, duy trì địa vị và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Ngay từ khi ra đời, Pháp luật đã trở thành phương tiện đặc biệt quan trọng trong việc quản lý nhà nước và xã hội. Nhưng pháp luật chỉ có thể phát huy được hiệu lực dựa trên cơ sở vững chắc của bộ máy quyền lực nhà nước.Vì vậy, quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN, đồng thời coi trọng việc giáo dục nâng cao đạo đức là một yêu cầu khách quan trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
Trong lịch sử xã hội loài người, nhà nước thực hiện việc quản lý xã hội không thể chỉ bằng đạo đức, tập quán, tổ chức, thuyết phục, tuyên truyền mà trước hết, trong số những công cụ này, pháp luật bao giờ cũng là công cụ cơ bản nhất. Trong chế độ XHCN, việc tạo ra những điều kiện pháp lý cần thiết để nhân dân sử dụng đầy đủ các quyền và thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ công dân, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của nhà nước là một trong những yêu cầu của công cuộc cải cách hành chính và cải cách tư pháp hiện nay. Vì vậy, việc quan niệm đúng đắn, đầy đủ về bản chất nhà nước nói chung và nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam nói riêng là cơ sở để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nước ta trong bối cảnh hội nhập quốc tế, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.
8 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 8017 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng Nhà nước pháp quyền và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Nhà nước và Pháp luật là hai khái niệm xuất hiện và song song tồn tại. Pháp luật ra đời cùng với Nhà nước, là công cụ sắc bén để thực hiện quyền lực nhà nước, duy trì địa vị và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Ngay từ khi ra đời, Pháp luật đã trở thành phương tiện đặc biệt quan trọng trong việc quản lý nhà nước và xã hội. Nhưng pháp luật chỉ có thể phát huy được hiệu lực dựa trên cơ sở vững chắc của bộ máy quyền lực nhà nước.Vì vậy, quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN, đồng thời coi trọng việc giáo dục nâng cao đạo đức là một yêu cầu khách quan trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
Trong lịch sử xã hội loài người, nhà nước thực hiện việc quản lý xã hội không thể chỉ bằng đạo đức, tập quán, tổ chức, thuyết phục, tuyên truyền … mà trước hết, trong số những công cụ này, pháp luật bao giờ cũng là công cụ cơ bản nhất. Trong chế độ XHCN, việc tạo ra những điều kiện pháp lý cần thiết để nhân dân sử dụng đầy đủ các quyền và thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ công dân, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của nhà nước là một trong những yêu cầu của công cuộc cải cách hành chính và cải cách tư pháp hiện nay. Vì vậy, việc quan niệm đúng đắn, đầy đủ về bản chất nhà nước nói chung và nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam nói riêng là cơ sở để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nước ta trong bối cảnh hội nhập quốc tế, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, do kiến thức của bản thân cũng còn hạn chế, vì vậy không thể tránh khỏi những thiếu sót khi trình bày về các vấn đề nêu trên. Do vậy rất mong nhận được sự góp ý để tiểu luận được hoàn thiện hơn.
Để hoàn thành tiểu luận này, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến thầy giáo TS. Nguyễn Trọng Thóc và Ths Nguyễn Tiến Hóa - Đại Học Nha Trang đã tận tình giảng dạy và hướng dẫn về môn học này trong thời gian qua.
A / NHỮNG LUẬN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA
CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ NHÀ NƯỚC
I) Nguồn gốc và Bản chất của Nhà nước:
* Nhà nước là một phạm trù lịch sử, chỉ ra đời và tồn tại trong một giai đoạn phát triển nhất định của xã hội và sẽ mất đi khi cơ sở tồn tại của nó không còn nữa.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự ra đời của chế độ tư hữu. Đó là cơ sở kinh tế khách quan dẫn đến sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng và cuộc đấu tranh giai cấp không thể điều hòa được xuất hiện. Để các giai cấp không tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt luôn cả xã hội thì một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra đời. Đó là nhà nước do giai cấp nắm quyền thống trị về kinh tế lập ra. Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là nhà nước chiếm hữu nô lệ, sau đó là nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản.
Như vậy, sự ra đời của nhà nước là một tất yếu khách quan của lịch sử.
* Bản chất nhà nước là nền chuyên chính của một giai cấp này đối với giai cấp khác và đối với toàn xã hội. Bản chất đó được thể hiện ở chức năng và đặc trưng của nhà nước. “Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác.”( Ph. Ăngghen )
II) Đặc trưng và Chức năng cơ bản của Nhà nước:
Bất kỳ nhà nước (NN) nào cũng gồm có 3 đặc trưng cơ bản sau:
NN quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định, có quyền lực với mọi thành viên.
NN có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp bao gồm bộ máy quản lý hành chính và các lực lượng vũ trang đặc biệt (quân đội, cảnh sát, nhà tù...), mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội.
NN hình thành hệ thống thuế khóa để duy trì và tăng cường bộ máy cai trị.
Và có chức năng cơ bản : Chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội. Dưới góc độ phạm vi tác động của quyền lực, nhà nước có chức năng đối nội và đối ngoại.
III) Các kiểu và hình thức Nhà nước:
Tương ứng với ba chế độ xã hội có đối kháng giai cấp trong lịch sử là ba kiểu nhà nước. Mỗi kiểu nhà nước có thể được tổ chức theo hình thức khác nhau:
Nhà nước chiếm hữu nô lệ : Có hình thức Quân chủ và Cộng hòa.
Nhà nước phong kiến : Có hình thức Phân quyền và Tập quyền.
Nhà nước tư sản : Có hình thức Cộng hòa và Quân chủ lập hiến.
B / QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN Ở VIỆT NAM
I. Cơ sở lý luận về nhà nước pháp quyền:
1) Nhà nước pháp quyền:(NNPQ)
Nhìn chung, quan điểm về NNPQ của các nhà lý luận trên thế giới cũng có một số điểm không thống nhất. Tuy nhiên, bước đầu có thể đưa ra khái niệm sau đây : “ NNPQ là một hình thức tổ chức nhà nước đặc biệt mà ở đó có sự ngự trị cao nhất của pháp luật, với nội dung thực hiện quyền lực của dân"
NNPQ có những đặc trưng tiêu biểu : Pháp luật là trên hết; Quyền lực nhà nước thể hiện được lợi ích và ý chí của đại đa số nhân dân; Có mối quan hệ hữu cơ về quyền và trách nhiệm giữa nhà nước và nhân dân.
Tuy nhiên, vấn đề là : Quyền lực nhà nước có thật sự thuộc về nhân dân lao động hay không ?
2) Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam:
Đó là Nhà nước của dân, do dân và vì dân , nhằm đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và tổ chức hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Vấn đề đặt ra hiện nay là phải xây dựng được một hệ thống lý luận về NNPQ XHCN Việt Nam. NNPQ XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân của Việt Nam là một nhà nước vừa phải thể hiện được các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền đã được xác định trong lý luận và thực tiễn của một chế độ dân chủ hiện đại, vừa khẳng định được bản sắc, đặc điểm của riêng mình.
II. Tính tất yếu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam:
Đối với Việt Nam, vấn đề xây dựng NNPQ đang được đặt ra như một tất yếu lịch sử và tất yếu khách quan
1) Tính tất yếu lịch sử :
Bắt nguồn từ chính lịch sử xây dựng và phát triển của Nhà nước ta. Ngay từ khi thành lập và trong quá trình phát triển, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã và luôn là một nhà nước hợp hiến, hợp pháp và luôn vận hành trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Các đạo luật tổ chức Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và các đạo luật về chính quyền địa phương được xây dựng trên cơ sở các Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980 và năm 1992. Những lần Hiến pháp được sửa đổi và thông qua là những bước củng cố cơ sở pháp luật cho tổ chức và hoạt động của bản thân các cơ quan nhà nước. Vì vậy, có thể nói, quá trình xây dựng NNPQ ở Việt Nam là một quá trình lịch sử được bắt đầu ngay từ Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và Hiến pháp năm 1946. Quá trình này đã trải qua hơn nửa thế kỷ với nhiều giai đoạn phát triển đặc thù. Ngày nay, quá trình này đang được tiếp tục ở một tầng cao phát triển mới với nhiều đòi hỏi và nhu cầu cải cách mới.
2) Tính tất yếu khách quan:
Xuất phát từ định hướng XHCN mà mục tiêu cơ bản là xây dựng một chế độ xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để xây dựng được một chế độ xã hội có tính mục tiêu như vậy, công cụ, phương tiện cơ bản chỉ có thể là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và một NNPQ XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tính tất yếu khách quan ấy còn xuất phát từ đặc điểm của thời đại với xu thế toàn cầu hóa. Nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách nhà nước, cải cách pháp luật, bảo đảm cho Nhà nước không ngừng vững mạnh, có hiệu lực để giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, thực hành dân chủ, củng cố độc lập, tự chủ và hội nhập vững chắc vào đời sống quốc tế.
Cơ sở kinh tế của NNPQ XHCN Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Cơ sở chính trị của NNPQ XHCN Việt Nam là nền dân chủ XHCN.
Cơ sở xã hội của NNPQ XHCN Việt Nam là khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Như vậy, những đặc trưng và nguyên tắc cơ bản của NNPQ XHCN Việt Nam được thể hiện qua : “ Đảng lãnh đạo – Nhà nước quản lý – Nhân dân làm chủ “
III. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam:
1) Đường lối chỉ đạo của Đảng:
Trong thời gian gần đây, các nghị quyết của Đảng đã phác thảo ra những hướng chung nhất về xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam. Cụ thể như sau:
Trong Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc khoá VII (năm 1991) của Đảng đã đưa ra thuật ngữ “xây dựng NNPQ của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”.
Sau đó, tại Văn kiện Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) đã nhấn mạnh: “Tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng NNPQ Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời, coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức”.
Đại hội IX của Đảng (năm 2001) đặt vấn đề tiếp tục “xây dựng NNPQ XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng”.
Nhà nước XHCN mà chúng ta đang xây dựng trước tiên và cơ bản phải là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Và giá trị này sẽ trở thành những nhân tố quan trọng trong sự nghiệp xây dựng nhà nước XHCN ở nước ta. Vì vậy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đặc biệt là trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta rất coi trọng việc xây dựng NNPQ Việt Nam. Đây là một trong những nhiệm vụ cơ bản để phát triển đất nước.
2) Xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam:
Đảng ta đã vận dụng một cách sáng tạo và linh hoạt thuyết “tam quyền phân lập” vào bối cảnh chính trị một đảng cầm quyền đặc biệt ở Việt Nam.
Nội dung này khác với học thuyết “ tam quyền phân lập” là không có sự phân lập giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, mà chỉ có sự phân nhiệm trong nội bộ các cơ quan nhà nước để đảm nhiệm chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp. Có thể tóm lược những điểm chính của học thuyết như sau:
a/ Quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công giữa các cơ quan nhà nước để thực hiện chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp.
b/ Nhà nước quản lý đất nước và xã hội theo pháp luật do Quốc hội ban hành, trong đó hiến pháp và luật pháp là kết quả của sự thể chế hóa đường lối, quan điểm, chủ trương và chính sách của Đảng.
c/ Thẩm quyền của Chính phủ được xác định trên cơ sở phân định những loại việc Chính phủ chủ động quyết định với những loại việc Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư trực tiếp quyết định hoặc cho ý kiến định hướng. Cũng tương tự như vậy, thẩm quyền của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định những loại việc do hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân chủ động quyết định với những loại việc ban chấp hành và ban thường vụ đảng bộ quyết định hoặc cho ý kiến để hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân thực hiện.
d/ Hoạt động tư pháp, kể cả việc đào tạo, quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ tư pháp, do Đảng lãnh đạo thông qua vai trò của cấp ủy và ban cán sự đảng ở các cơ quan tư pháp căn cứ quy định của Đảng.
Như vậy, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp, quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước và giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của nhà nước.
Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, đó là chấp hành Hiến pháp, các đạo luật và Nghị quyết do Quốc hội ban hành và báo cáo công tác trước Quốc hội, chịu sự chất vấn và giám sát của Quốc hội. Ðồng thời Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, đứng đầu hệ thống cơ quan hành pháp.
Vì quyền lực nhà nước tập trung và không phân lập nên Quốc hội và Tòa án chỉ là hai bộ phận của hệ thống cơ quan nhà nước thống nhất, chứ không độc lập tuyệt đối như cách tổ chức chính thể ở các nước khác. Học thuyết NNPQ XHCN khẳng định toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân trên cơ sở xác lập vai trò đại diện mặc nhiên của Đảng đối với nhân dân nhằm thực thi và bảo vệ quyền lực đó. Toàn bộ hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp tập trung vào việc bảo đảm và củng cố vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.
Đối với hoạt động quản lý hành chính từ trung ương đến địa phương, Học thuyết NNPQ XHCN đề xuất một sự phân định thẩm quyền cụ thể và tương ứng giữa chính quyền và các tổ chức Đảng cấp trung ương và địa phương. Như vậy, có hai hệ thống cùng tồn tại để điều hành và cai trị quốc gia, đó là chính quyền và Đảng, trong đó Đảng vừa lãnh đạo, vừa trực tiếp quyết định.
Hoạt động của các cơ quan tư pháp, tức là tòa án, được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng trên cơ sở quy định của Ðảng. Cấp ủy Đảng ở địa phương đảm nhiệm việc lựa chọn để giới thiệu bổ nhiệm thẩm phán cho tòa án các cấp. Thẩm phán do vậy vừa là đảng viên vừa là công chức trong bộ máy nhà nước. Vì lẽ đó, việc xét xử của thẩm phán không chỉ dựa vào luật và các bản văn lập pháp khác, mà còn dựa vào các bản văn lập quy của Chính phủ, Bộ và Ủy ban nhân dân địa phương.
Với sự công bố minh bạch và dứt khoát nội dung của Học thuyết NNPQ XHCN như đã nêu trên, vị trí và vai trò của Đảng và Nhà nước trong chính thể hiện tại được xác lập rõ ràng, giúp tránh tình trạng can thiệp hoặc chồng lấn công việc giữa hai thiết chế như từ trước đến nay.
Với nhận thức đó, nội dung xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, trước hết là xây dựng một Quốc hội thực thi đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo luật định, xứng đáng với vị trí và vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân; cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Ðiều đó đòi hỏi phải xây dựng Quốc hội mạnh về lập pháp, quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước và giám sát tối cao. Vai trò của đại biểu Quốc hội phải được tăng cường bằng cách phát huy bản lĩnh, trí tuệ chuyên sâu, chuyên trách và trách nhiệm của người đại biểu trước nhân dân.
Ðối với Chính phủ, một Quốc hội mạnh luôn gắn liền với một Chính phủ mạnh. Vì thế phải xây dựng một Chính phủ mạnh đứng đầu hệ thống hành pháp, hoạt động thông suốt, có hiệu lực và hiệu quả, đáp ứng nhiệm vụ quản lý đất nước trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng hợp tác quốc tế. Chính phủ phải có cơ cấu tổ chức đa ngành, gọn nhẹ, đa năng, hiệu lực và hiệu quả. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Chính phủ phải tập trung vào nhiệm vụ quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế quốc dân, không can thiệp cụ thể vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh, cung ứng dịch vụ. Chính phủ là người "cầm lái" chứ không trực tiếp "bơi chèo". Ðó là những vấn đề có tính nguyên tắc, trong việc xây dựng Chính phủ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Bên cạnh đó, xây dựng con người là yếu tố không thể để phù hợp với cách thức tổ chức và hoạt động của bộ máy NNPQ. Sự phát tiển của nền kinh tế tri thức đã khẳng thêm vài trò của con người trong sự phát triển của một đất nước. Đó đã làm thay đổi quan niệm về giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân lúc này đã là giai cấp tri thức, có đầy đủ nền tảng về tri thức khoa học, về lý luận.
Trong thực tế hiện nay, so với những yêu cầu của công cuộc đổi mới đặt ra, việc xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam còn nhiều khó khăn vì các nguyên do sau:
+ Hệ thống pháp lý chưa hoàn chỉnh và đồng bộ. Bộ máy nhà nước hiện nay vừa bất cập về trình độ, năng lực quản lý, vừa có một bộ phận cán bộ thiếu trong sạch, gây phiền hà nhũng nhiễu nhân dân. Vì vậy hiệu lực quản lý điều hành chưa nghiêm, kỷ cương xã hội bị buông lỏng. Vẫn còn tình trạng thiếu dân chủ, thiếu kỷ cương dẫn đến quyền làm chủ của nhân dân bị vi phạm. Vẫn còn tình trạng tham ô, lãng phí, quan liêu, cửa quyền, làm trái pháp luật chưa bị ngăn chặn.
+ Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ công chức làm công tác pháp lý còn nhiều bất cập, việc thi hành công vụ còn nhiều hạn chế. Chưa coi trọng đúng mức việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong cán bộ và nhân dân.
+ Công tác kiểm tra, giám sát và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật chưa thật sự chặt chẽ, nghiêm minh và kịp thời. Việc thi hành pháp luật còn mang nặng tính chủ quan, xử theo tình cảm “Nhất thân – Nhì quen “. Sự lãnh đạo của Đảng tại địa phương nhiều nơi chưa được tăng cường đúng mức, nhiều cấp lãnh đạo trình độ kiến thức và năng lực còn hạn chế.
+ Điều chúng ta hiện nay thiếu là một công cụ hiến định giúp thanh lọc một số phần tử lợi dụng pháp luật vừa bất tài vừa tham nhũng.
NHẬN ĐỊNH VÀ KẾT LUẬN
Trong công cuộc đổi mới của đất nước, việc xây dựng NNPQ của dân, do dân, vì dân là yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, trong đường lối lãnh đạo của mình, Đảng ta đặc biệt coi trọng việc đề ra đường lối xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước – đây là yếu tố trung tâm của hệ thống chính trị. Để thực hiện mục tiêu đó, cần phải tăng cường hiệu lực của bộ máy nhà nước, mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý nhà nước, đồng thời tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trên mọi lĩnh vực. Ngày nay, sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước diễn ra trong bối cảnh khoa học công nghệ phát triển, tình hình thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp. Trong điều kiện đó, việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện NNPQ là đòi hỏi khách quan và phù hợp với xu hướng chung của thời đại.
Để nhà nước ta thực sự là NNPQ của dân, do dân, vì dân, trong giai đoạn trước mắt chúng ta phải thực hiện đồng bộ một loạt nhiệm vụ : Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác lập pháp và giám sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước; cải cách nền hành chính nhà nước, bao gồm cải cách thể chế hành chính, tổ chức bộ máy và kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách tổ chức và hoạt động tư pháp. Đồng thời, chúng ta phải đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống bệnh quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước. Mặt khác, cũng cần phải kết hợp những biện pháp cấp bách với những giải pháp có tầm chiến lược để vừa hoàn thiện cơ chế, chính sách, vừa xử lý nghiêm, kịp thời mọi vi phạm, tội phạm.