Ngày nay, Internet trởnên gần gũi và quen thuộc với hàng triệu người ởViệt Nam, đặc biệt ở
khu vực thành thị, trong giới trí thức và giới trẻ. Sựtồn tại của Internet đã thay đổi cách thức làm
việc, trao đổi thông tin, kểcảcách học tập, nghiên cứu của nhiều người. Trên phạm vi toàn cầu,
Internet chứa một khối lượng thông tin khổng lồphân tán ởhàng chục ngàn mạng con thuộc hàng
trăm nước trên thếgiới. Các dịch vụInternet cũng ngày càng trởnên đa dạng và hữu ích hơn. Chính
vì thế, sựhiểu biết vềInternet và khảnăng sửdụng, khai thác thông tin trên Internet cũng ngày càng
trởnên quan trọng và thiết thực cho mỗi người.
Đểtriển khai đào tạo hệ đại học từxa qua mạng tin học- viễn thông, Học viện Công nghệ
Bưu chính Viễn thông đã xây dựng một hệthống đa dạng các bài giảng trên mạng, các bài giảng
điện tử đa phương tiện, và sửdụng Internet nhưmột trong các phương tiện chính đểtruyền tải và
tạo môi trường dạy và học cho bậc đại học từxa. Do đó, Internet đóng một vai trò quan trọng
trong quá trình việc cung cấp học liệu, bài giảng và tổchức hướng dẫn học tập, trao đổi qua mạng.
Chính vì vậy, việc biên soạn tập sách hướng dẫn học tập môn “Nhập môn Internet và ELearning” cho các sinh viên năm thứnhất nhằm trang bịcho sinh viên những kiến thức và kỹ
năng cơbản vềInternet, cách sửdụng các dịch vụcủa Internet đểphục vụcho quá trình tựhọc, tự
nghiên cứu và trao đổi kiến thức theo hình thức giáo dục từxa là một việc làm cần thiết. Tài liệu
cũng giới thiệu các kiến thức cơbản vềE-Learning, các khái niệm, các đặc điểm, cấu trúc của hệ
thống cũng nhưphương pháp và quy trình học E-Learning.
Tài liệu có cấu trúc gồm 3 chương. Chương 1 giới thiệu tổng quan vềInternet, các khái
niệm, định nghĩa, kiến trúc chung của mạng Internet. Chương 2 giới thiệu vềcác dịch vụtrên
Internet, hướng dẫn chi tiết cách sửdụng các dịch vụ. Chương cuối cùng giới thiệu tổng quan về
E-Learning giúp cho sinh viên nắm được các kiến thức vềcông nghệ đào tạo sửdụng E-learning
mà các cơsở đào tạo hiện đang sửdụng.
167 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 3009 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Nhập môn Internet và E-Learning, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI GIẢNG
NHẬP MÔN INTERNET
VÀ E-LEARNING
Biªn so¹n: Ths. NguyÔn Duy Ph−¬ng
Ths. D−¬ng TrÇn §øc
KS. §μo Quang chiÓu
KS. Ph¹m thÞ huÕ
KS. NguyÔn ThÞ Ngäc H©n
0 LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay, Internet trở nên gần gũi và quen thuộc với hàng triệu người ở Việt Nam, đặc biệt ở
khu vực thành thị, trong giới trí thức và giới trẻ. Sự tồn tại của Internet đã thay đổi cách thức làm
việc, trao đổi thông tin, kể cả cách học tập, nghiên cứu của nhiều người. Trên phạm vi toàn cầu,
Internet chứa một khối lượng thông tin khổng lồ phân tán ở hàng chục ngàn mạng con thuộc hàng
trăm nước trên thế giới. Các dịch vụ Internet cũng ngày càng trở nên đa dạng và hữu ích hơn. Chính
vì thế, sự hiểu biết về Internet và khả năng sử dụng, khai thác thông tin trên Internet cũng ngày càng
trở nên quan trọng và thiết thực cho mỗi người.
Để triển khai đào tạo hệ đại học từ xa qua mạng tin học- viễn thông, Học viện Công nghệ
Bưu chính Viễn thông đã xây dựng một hệ thống đa dạng các bài giảng trên mạng, các bài giảng
điện tử đa phương tiện, và sử dụng Internet như một trong các phương tiện chính để truyền tải và
tạo môi trường dạy và học cho bậc đại học từ xa. Do đó, Internet đóng một vai trò quan trọng
trong quá trình việc cung cấp học liệu, bài giảng và tổ chức hướng dẫn học tập, trao đổi qua mạng.
Chính vì vậy, việc biên soạn tập sách hướng dẫn học tập môn “Nhập môn Internet và E-
Learning” cho các sinh viên năm thứ nhất nhằm trang bị cho sinh viên những kiến thức và kỹ
năng cơ bản về Internet, cách sử dụng các dịch vụ của Internet để phục vụ cho quá trình tự học, tự
nghiên cứu và trao đổi kiến thức theo hình thức giáo dục từ xa là một việc làm cần thiết. Tài liệu
cũng giới thiệu các kiến thức cơ bản về E-Learning, các khái niệm, các đặc điểm, cấu trúc của hệ
thống cũng như phương pháp và quy trình học E-Learning.
Tài liệu có cấu trúc gồm 3 chương. Chương 1 giới thiệu tổng quan về Internet, các khái
niệm, định nghĩa, kiến trúc chung của mạng Internet. Chương 2 giới thiệu về các dịch vụ trên
Internet, hướng dẫn chi tiết cách sử dụng các dịch vụ. Chương cuối cùng giới thiệu tổng quan về
E-Learning giúp cho sinh viên nắm được các kiến thức về công nghệ đào tạo sử dụng E-learning
mà các cơ sở đào tạo hiện đang sử dụng.
Cũng cần nhấn mạnh rằng, nội dung chính của tập tài liệu chỉ đề cập đến những vấn đề có
liên quan thiết thực nhất đến việc khai thác, sử dụng Internet cho việc học tập trong môi trường
giáo dục điện tử. Sinh viên có thể tham khảo, nghiên cứu sâu hơn về những nội dung có liên quan
ở những giáo trình, tài liệu và trang Web mà cuối mỗi chương nhóm tác giả đã liệt kê. Sinh viên
cũng có thể nghiên cứu những nội dung của môn học này thông qua việc sử dụng bộ bài giảng
điện tử được đóng gói trong đĩa CD-ROM do Học viện Công nghệ Bưu chính viễn thông
biên soạn.
Mặc dù các tác giả cũng đã có nhiều cố gắng, song do nhiều lý do các thiếu sót còn tồn tài
trong tập tài liệu là điều khó tránh khỏi. Nhóm tác giả xin chân thành chờ đón sự đóng góp ý kiến
của các bạn đồng nghiệp, sinh viên xa gần và xin cảm ơn về điều đó để tập tài liệu ngày càng hoàn
thiện hơn ở những lần xuất bản sau.
Nhóm tác giả
Chương 1: Tổng quan về Internet
0 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ INTERNET
GIỚI THIỆU
Vào những thập kỉ trước, rất ít người trong chúng ta biết về Internet. Cho tới năm 1997, khi
Internet chính thức được đưa vào cung cấp cho người sử dụng ở Việt Nam, thuật ngữ Internet bắt
đầu được nhiều người biết tới, và trở thành một dịch vụ truyền thông hữu ích cho nhiều người.
Ngày nay, Internet trở nên gần gũi và quen thuộc với hàng triệu người ở Việt Nam, đặc biệt
ở khu vực thành thị, trong giới trí thức và giới trẻ. Sự tồn tại của Internet đã thay đổi cách thức
làm việc, trao đổi thông tin, kể cả cách học tập, nghiên cứu của nhiều người. Trên phạm vi toàn
cầu, Internet chứa một khối lượng thông tin khổng lồ phân tán ở hàng chục ngàn mạng con thuộc
hàng trăm nước trên thế giới. Các dịch vụ Internet cũng ngày càng trở nên đa dạng và hữu ích
hơn. Chính vì thế, sự hiểu biết về Internet và khả năng sử dụng, khai thác thông tin trên Internet
cũng ngày càng trở nên quan trọng và thiết thực cho mỗi người.
Trong chương này, chúng ta sẽ cùng từng bước nghiên cứu, tìm hiểu những nội dung cơ bản
nhất, cũng như ứng dụng Internet trong đời sống và công việc, đặc biệt là việc sử dụng Internet
trong trao đổi thông tin, nghiên cứu và học tập.
Nội dung chương này sẽ đề cập đến bao gồm
• Các kiến thức tổng quan về Internet, lịch sử phát triển
• Cấu trúc của Internet, các giao thức trên Internet, v.v…
• Các khái niệm và định nghĩa có liên quan đến Internet, các cách kết nối, các khái niệm
về địa chỉ IP, tên miền, ...
Để nắm được nội dung của chương này một cách tốt nhất, người đọc cần có một số vốn từ
tiếng Anh cũng như đã biết các thao tác sử dụng máy tính đơn giản.
Cuối chương, người đọc có thể tự đánh giá những kiến thức đã thu lượm được của mình
bằng cách trả lời các câu hỏi và làm một số bài tập.
1.1. KHÁI QUÁT
1.1.1. Lịch sử phát triển
Internet được hình thành từ cuối thập kỉ 60 của thế kỷ trước, từ một dự án nghiên cứu của
Bộ quốc phòng Mỹ. Tháng 7 năm 1968, Cơ quan quản lý dự án nghiên cứu cấp cao của Bộ Quốc
phòng Mỹ (ARPA-Advanced Research Project Agency) đã đề nghị liên kết 4 địa điểm: Viện
Nghiên cứu Standford, Trường Đại học tổng hợp California ở LosAngeles, UC - Santa Barbara và
Trường Đại học tổng hợp Utah. Bốn điểm trên được nối thành mạng vào năm 1969 đã đánh dấu
sự ra đời của Internet ngày nay. Mạng này được biết đến dưới cái tên ARPANET.
5
Chương 1: Tổng quan về Internet
ARPANET là một mạng thử nghiệm phục vụ các nghiên cứu quốc phòng. Một trong những
mục đích của nó là xây dựng một mạng máy tính có khả năng khắc phục các sự cố. Mạng máy
tính này có những đặc trưng sau :
• Có thể tiếp tục hoạt động ngay khi có nhiều kết nối bị hư hỏng.
• Phải đảm bảo các máy tính với các phần cứng khác nhau đều có thể sử dụng mạng.
• Có khả năng tự động điều chỉnh hướng truyền thông tin, bỏ qua những phần bị
hư hỏng.
• Có đặc tính là mạng của các mạng máy tính, nghĩa là có khả năng mở rộng liên kết
dễ dàng.
Ban đầu, máy tính và đường liên lạc có khả năng xử lý rất chậm, với đường dây dài thì tốc
độ chuyển tín hiệu nhanh nhất là 50 kbits/giây. Số lượng máy tính nối vào mạng rất ít (chỉ 200
máy chủ vào năm 1981).
ARPANET càng phát triển khi có nhiều máy nối vào - rất nhiều trong số này là từ các cơ
quan của Bộ quốc phòng Mỹ hoặc những trường đại học nghiên cứu với các đầu nối vào Bộ quốc
phòng. Đây là những giao điểm trên mạng. Trong khi ARPANET đang cố gắng chiếm lĩnh mạng
quốc gia thì một nghiên cứu tại Trung tâm nghiên cứu Palo Alto của công ty Xerox đã phát triển
một kỹ thuật được sử dụng trong mạng cục bộ là Ethernet.
Theo thời gian, Ethernet trở thành một trong những chuẩn quan trọng để kết nối trong các
mạng cục bộ. Cũng trong thời gian này, DARPA (đặt lại tên từ ARPA) chuyển sang hợp nhất
TCP/IP (giao thức được sử dụng trong việc truyền thông trên Internet) vào phiên bản hệ điều hành
UNIX của trường đại học tổng hợp California ở Berkeley. Với sự hợp nhất như vậy, những trạm
làm việc độc lập sử dụng UNIX đã tạo nên một thế mạnh trên thị trường, TCP/IP cũng có thể dễ
dàng tích hợp vào phần mềm hệ điều hành. TCP/IP trên Ethernet đã trở thành một cách thức thông
dụng để trạm làm việc nối đến trạm khác.
Trong thập kỷ 1980, máy tính cá nhân được sử dụng rộng rãi trong các công ty và trường
Đại học trên thế giới. Mạng Ethernet kết nối các máy tính cá nhân (PC) trở thành phổ biến. Các
nhà sản xuất phần mềm thương mại cũng đưa ra những chương trình cho phép các máy PC và
máy UNIX giao tiếp cùng một ngôn ngữ trên mạng.
Vào giữa thập kỷ 1980, giao thức TCP/IP được dùng trong một số kết nối khu vực-khu vực
(liên khu vực) và cũng được sử dụng cho các mạng cục bộ và mạng liên khu vực.
Thuật ngữ "Internet" xuất hiện lần đầu vào khoảng 1974 trong khi mạng vẫn được gọi là
ARPANET. Vào thời điểm này, ARPANET (hay Internet) còn ở qui mô rất nhỏ.
Mốc lịch sử quan trọng của Internet được chọn vào giữa thập kỷ 1980, khi Quỹ khoa học
quốc gia Mỹ NSF (National Science Foundation) thành lập mạng liên kết các trung tâm máy tính
lớn với nhau gọi là NSFNET. Mạng này chính là mạng Internet. Điểm quan trọng của NSFNET là
cho phép mọi người cùng sử dụng. Trước NSFNET, chỉ các nhà khoa học, chuyên gia máy tính và
nhân viên các cơ quan chính phủ được kết nối Internet.
Nhiều doanh nghiệp đã chuyển từ ARPANET sang NSFNET. Chính vì vậy, sau gần 20 năm
ARPANET trở nên không còn hiệu quả và đã ngừng hoạt động vào khoảng năm 1990.
6
Chương 1: Tổng quan về Internet
Ngày nay, mạng Internet phát triển mạnh mẽ hơn các phương tiện truyền thông truyền
thống khác như phát thanh và truyền hình, do sự cải tiến và phát triển không ngừng. Các công
nghệ đang áp dụng trên Internet giúp cho Internet trở thành mạng liên kết vô số kho thông tin toàn
cầu, có dịch vụ phong phú về nội dung, hình thức. Đó cũng chính là điều thúc đẩy chúng ta nên
bắt đầu ngay với hành trình khám phá thế giới mới - thế giới Internet.
11 triệu máy tính kết nối
NSFNET thay thế ARPANET
ARPANET sử dụng bộ giao thức TCP/IP
ARPANET được thành lập
1969 1983 1986 1996
Hình 1.1: Sơ đồ lịch sử phát triển Internet
2004
800 triệu máy tính
kết nối
1.1.2. Internet là gì ?
Internet (Inter-network) là một mạng máy tính rất rộng lớn kết nối các mạng máy tính khác
nhau nằm rải rộng khắp toàn cầu. Một mạng (Network) là một nhóm máy tính kết nối nhau, các
mạng này lại liên kết với nhau bằng nhiều loại phương tiện, tốc độ truyền tin khác nhau. Do vậy
có thể nói Internet là mạng của các mạng máy tính. Các mạng liên kết với nhau dựa trên bộ giao
thức (như là ngôn ngữ giao tiếp) TCP/IP (Transmision Control Protocol - Internet Protocol): Giao
thức điều khiển truyền dẫn- giao thức Internet. Bộ giao thức này cho phép mọi máy tính liên kết,
giao tiếp với nhau theo một ngôn ngữ máy tính thống nhất giống như một ngôn ngữ quốc tế (ví dụ
như Tiếng Anh) mà mọi người sử dụng để giao tiếp.
Mạng Internet không chỉ cho phép chuyển tải thông tin nhanh chóng mà còn giúp cung cấp
thông tin. Nó cũng là diễn đàn trao đổi và là thư viện toàn cầu đầu tiên.
1.1.2.1. Cấu trúc mạng Internet
Internet là một liên mạng, tức là mạng của các mạng con. Để kết nối hai mạng con với
nhau, có hai vấn đề cần giải quyết :
- Vấn đề thứ nhất: Về mặt vật lý, hai mạng con chỉ có thể kết nối với nhau khi có một thiết
bị có thể kết nối với cả hai mạng này. Việc kết nối đơn thuần về vật lý chưa thể làm cho hai mạng
con có thể trao đổi thông tin với nhau.
- Vấn đề thứ hai: Thiết bị kết nối được về mặt vật lý với hai mạng con phải hiểu được cả hai
giao thức truyền tin được sử dụng trên hai mạng con này và các gói thông tin của hai mạng con sẽ
được gửi qua nhau thông qua thiết bị đó. Thiết bị này được gọi là cổng nối Internet (Internet
Gateway) hay Bộ định tuyến (Router).
7
Chương 1: Tổng quan về Internet
Hình 1.2: Hai mạng Net 1 và Net 2 kết nối thông qua Router R.
Khi kết nối mạng đã trở nên phức tạp hơn, các Router cần phải biết về sơ đồ kiến trúc của
các mạng kết nối.
Ví dụ trong hình sau đây cho thấy nhiều mạng được kết nối bằng 2 Router.
Hình 1.3: 3 Mạng kết nối với nhau thông qua 2 router
Như vậy, Router R1 phải chuyển tất cả các gói thông tin đến một máy nằm ở mạng Net 2
hoặc Net 3. Với kích thước lớn như mạng Internet, việc các Router quyết định chuyển các gói
thông tin cho các máy trong các mạng sẽ trở nên phức tạp hơn.
Để các Router có thể thực hiện được công việc chuyển một số lớn các gói thông tin thuộc
các mạng khác nhau, người ta đề ra quy tắc là: các Router chuyển các gói thông tin dựa trên địa
chỉ mạng nơi đến, chứ không phải dựa trên địa chỉ của máy nhận. Như vậy, dựa trên địa chỉ mạng
nên tổng số thông tin mà Router phải lưu giữ về sơ đồ kiến trúc mạng sẽ tuân theo số mạng trên
Internet chứ không phải là số máy trên Internet.
Trên Internet, tất cả các mạng đều có quyền bình đẳng cho dù chúng có tổ chức hay số
lượng máy có sự khác nhau. Bộ giao thức TCP/IP của Internet hoạt động tuân theo quan điểm sau:
tất các các mạng con trong Internet như là Ethernet, một mạng diện rộng như NSFNET Backbone
hay một liên kết điểm-điểm giữa hai máy duy nhất đều được coi như là một mạng. Điều này xuất
phát từ quan điểm đầu tiên khi thiết kế giao thức TCP/IP là có thể liên kết giữa các mạng có kiến
trúc hoàn toàn khác nhau. Khái niệm "mạng" đối với TCP/IP bị ẩn đi phần kiến trúc vật lý của
mạng. Đây chính là điểm giúp cho TCP/IP trở lên rất mạnh. Như vậy, người dùng trong Internet
hình dung Internet là một mạng thống nhất và bất kỳ hai máy nào trên Internet đều được nối với
nhau thông qua một mạng duy nhất.
Hình sau mô tả kiến trúc tổng thể của Internet.
8
Chương 1: Tổng quan về Internet
Các máy được nối với nhau thông qua một mạng duy nhất.
(a) Mạng Internet dưới con mắt người sử dụng.
Máy
chủ
Mạng
vật lý
Máy
chủ
(b) Kiến trúc tổng quát của mạng Internet.
Các RRouter cung cấp các kết nối giữa các mạng.
Hình 1.4: Kiến trúc tổng thể của Internet
9
Chương 1: Tổng quan về Internet
1.1.2.2. Giới thiệu các giao thức kết nối mạng
a) Đặc điểm một số bộ giao thức kết nối mạng :
¾ NetBEUI
- Bộ giao thức nhỏ, nhanh và hiệu quả được cung cấp theo các sản phẩm của hãng IBM,
cũng như sự hỗ trợ của Microsoft.
- Bất lợi chính của bộ giao thức này là không hỗ trợ định tuyến và sử dụng giới hạn ở mạng
dựa vào Microsoft.
¾ IPX/SPX
- Đây là bộ giao thức sử dụng trong mạng Novell.
- Ưu thế: nhỏ, nhanh và hiệu quả trên các mạng cục bộ đồng thời hỗ trợ khả năng định
tuyến.
¾ DECnet
- Đây là bộ giao thức độc quyền của hãng Digtal Equipment Corpration.
- DECnet định nghĩa mô tả truyền thông qua mạng cục bộ LAN, mạng MAN (mạng đô thị),
WAN (mạng diện rộng). Giao thức này có khả năng hỗ trợ định tuyến.
¾ TCP/IP
- Ưu thế chính của bộ giao thức này là khả năng liên kết hoạt động của nhiều loại máy tính
khác nhau.
- TCP/IP đã trở thành tiêu chuẩn thực tế cho kết nối liên mạng cũng như kết nối Internet
toàn cầu.
Hiện nay, TCP/IP được sử dụng rộng rãi trong các mạng cục bộ cũng như trên mạng
Internet. Vì vậy chúng ta sẽ tìm hiểu tổng quan về bộ giao thức TCP/IP.
b) TCP/IP- ( Transmission Control Protocol / Internet Protocol): Là một tập hợp các giao
thức kết nối sử dụng cho việc truyền thông tin từ máy tính này sang máy tính khác và từ mạng
máy tính này sang mạng máy tính khác.
Một máy tính tương tác với thế giới thông qua một hoặc nhiều ứng dụng. Những ứng dụng
này thực hiện các nhiệm vụ cụ thể và quản lý dữ liệu vào-ra. Nếu máy tính đó là một phần của hệ
thống mạng thì một trong số các ứng dụng trên sẽ có thể giao tiếp với các ứng dụng trên các máy
tính khác thuộc cùng hệ thống mạng. Bộ giao thức mạng là một hệ thống các quy định chung giúp
xác định quá trình truyền dữ liệu phức tạp. Dữ liệu đi từ ứng dụng trên máy này, qua phần cứng
về mạng của máy, tới bộ phận trung gian và đến nơi nhận, thông qua phần cứng của máy tính đích
rồi tới ứng dụng.
Các giao thức TCP/IP có vai trò xác định quá trình liên lạc trong mạng và quan trọng hơn
cả là định nghĩa “hình dáng” của một đơn vị dữ liệu và những thông tin chứa trong nó để máy tính
đích có thể dịch thông tin một cách chính xác. TCP/IP và các giao thức liên quan tạo ra một hệ
10
Chương 1: Tổng quan về Internet
thống hoàn chỉnh giúp quản lý quá trình dữ liệu được xử lý, chuyển và nhận trên một mạng
sử dụng TCP/IP. Một hệ thống các giao thức liên quan, chẳng hạn như TCP/IP, được gọi là bộ
giao thức.
Thực tế của quá trình định dạng và xử lý dữ liệu bằng TCP/IP được thực hiện bằng bộ lọc
của các hãng sản xuất. Ví dụ, Microsoft TCP/IP là một phần mềm cho phép Windows NT xử lý
các dữ liệu được định dạng (format) theo TCP/IP và vì thế có thể hoà vào mạng TCP/IP. Tuy
nhiên có sự khác biệt giữa các chuẩn TCP/IP như sau :
• Một chuẩn TCP/IP là một hệ thống các quy định quản lý việc trao đổi trên các mạng
TCP/IP.
• Bộ lọc TCP/IP là một phần mềm có chức năng cho phép một máy tính hoà vào mạng
TCP/IP.
• Mục đích của các chuẩn TCP/IP là nhằm đảm bảo tính tương thích của tất cả bộ lọc
TCP/IP thuộc bất kỳ phiên bản nào hoặc của bất kỳ hãng sản xuất nào.
• Một hệ thống giao thức như TCP/IP phải đảm bảo khả năng thực hiện những công việc
sau:
o Cắt thông tin thành những gói dữ liệu để có thể dễ dàng đi qua bộ phận truyền
tải trung gian.
o Tương tác với phần cứng của card mạng.
o Xác định địa chỉ nguồn và đích: máy tính gửi thông tin đi phải có thể xác định
được nơi gửi đến. Máy tính đích phải nhận ra đâu là thông tin gửi cho mình.
o Định tuyến: hệ thống phải có khả năng hướng dữ liệu tới các mạng con, cho
dù mạng con nguồn và đích khác nhau về mặt vật lý.
o Kiểm tra lỗi, kiểm soát đường truyền và xác nhận: đối với một phương tiện
truyền thông tin cậy, máy tính gửi và nhận phải xác định và có thể sửa chữa
lỗi trong quá trình vận chuyển dữ liệu.
o Chấp nhận dữ liệu từ ứng dụng và truyền nó tới mạng đích. Để có thể thực
hiện các công việc trên, những người sáng tạo ra TCP/IP đã chia nó thành
những phần riêng biệt, hoạt động độc lập với nhau. Mỗi thành phần đảm
nhiệm một chức năng riêng biệt trong hệ thống mạng.
TCP/IP bao gồm bốn tầng như sau :
• Tầng truy cập mạng (Network Access Layer)- Là tầng thấp nhất trong mô hình
TCP/IP, bao gồm các thiết bị giao tiếp mạng và chương trình cung cấp các thông tin cần thiết để
có thể hoạt động, truy cập đường truyền vật lý qua thiết bị giao tiếp mạng đó.
• Tầng liên mạng (Internet Layer)- Cung cấp địa chỉ logic, độc lập với phần cứng, để dữ
liệu có thể lướt qua các mạng con có cấu trúc vật lý khác nhau. Cung cấp chức năng định tuyến để
giảm lưu lượng giao thông và hỗ trợ việc vận chuyển liên mạng. Thuật ngữ liên mạng được dùng
11
Chương 1: Tổng quan về Internet
để đề cập đến các mạng rộng lớn hơn, kết nối từ nhiều LAN. Tạo sự gắn kết giữa địa chỉ vật lý và
địa chỉ logic. Các giao thức của tầng này bao gồm: IP (Internet Protocol), ICMP (Internet Coltrol
Message Protocol), IGMP (Internet Group Message Protocol).
• Tầng giao vận (Transport Layer) - Giúp kiểm soát luồng dữ liệu, kiểm tra lỗi và xác
nhận các dịch vụ cho liên mạng. Tầng này đóng vai trò giao diện cho các ứng dụng mạng. Tầng
này có hai giao thức chính: TCP (Transmisson Control Protocol) và UDP (User Datagram
Protocol).
• Tầng ứng dụng (Application Layer) - Là tầng trên cùng của mô hình TCP/IP. Cung
cấp các ứng dụng để giải quyết sự cố mạng, vận chuyển file, điều khiển từ xa, và các hoạt động
Internet, đồng thời hỗ trợ Giao diện Lập trình Ứng dụng (API) mạng, cho phép các chương trình
được thiết kế cho một hệ điều hành nào đó có thể truy cập mạng.
c) Mô hình OSI (Open Systems Interconnection): là tập hợp các đặc điểm kỹ thuật mô tả
kiến trúc mạng dành cho việc kết nối các thiết bị không cùng chủng loại. Mô hình được chia thành
7 tầng. Mỗi tầng bao gồm những hoạt động, thiết bị và giao thức mạng khác nhau.
Chức năng chính của bảy tầng trong mô hình OSI như sau:
• Tầng vật lý (Physical Layer) Chuyển đổi dữ liệu sang các dòng xung điện, đi qua bộ
phận truyền tải trung gian và giám sát quá trình truyền dữ liệu.
• Tầng liên kết dữ liệu (Data Link Layer) Cung cấp giao diện cho bộ điều hợp mạng,
duy trì kết nối logic cho mạng con.
• Tầng mạng (Network Layer) Hỗ trợ địa chỉ logic và định tuyến.
• Tầng giao vận (Transport Layer) Kiểm tra lỗi và kiểm soát việc lưu chuyển liên mạng.
• Tầng phiên (Session Layer) Thiết lập các khu vực cho các ứng dụng tương tác giữa các
máy tính.
• Tầng trình diễn (Presentation Layer) Dịch dữ liệu sang một dạng tiêu chuẩn, quản lý
việc mã hoá và nén dữ liệu.
• Tầng ứng dụng (Application Layer) Cung cấp giao diện cho các ứng dụng; hỗ trợ ứng
d