Với tín dụng, một hình dung đơn giản mà mọi người đều có thể thấy ngay là quan hệ tín dụng thực chất là quan hệ vay trả. Trong chương đầu tiên tín dụng cũng đã được nhắc tới với tư cách là một bộ phận cấu thành của hệ thống các quan hệ tài chính trong một nền kinh tế. Tuy nhiên để có thể nghiên cứu cụ thể hơn về tín dụng thì trong chương này định nghĩa về tín dụng được nhắc lại.
1.Định nghĩa tín dụng Tín dụng là một hệ thống các quan hệphân phối mang tính chất có hoàn trả giữa các chủ thể kinh tế.
14 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 1892 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng Những vấn đề cơ bản của tín dụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương V: Những vấn đề cơ bản của tín dụng
I. Khái niệm tín dụng (Credit)
Với tín dụng, một hình dung đơn giản mà mọi người đều có thể thấy ngay là quan hệ tín dụng
thực chất là quan hệ vay trả. Trong chương đầu tiên tín dụng cũng đã được nhắc tới với tư
cách là một bộ phận cấu thành của hệ thống các quan hệ tài chính trong một nền kinh tế. Tuy
nhiên để có thể nghiên cứu cụ thể hơn về tín dụng thì trong chương này định nghĩa về tín
dụng được nhắc lại.
1.Định nghĩa tín dụng
Tín dụng là một hệ thống các quan hệ phân phối mang tính chất có hoàn trả giữa các
chủ thể kinh tế.
Từ định nghĩa trên có thể thấy ngay rằng tín dụng cũng là một loại quan hệ tài chính cơ bản,
với đặc trưng của loại quan hệ này là tính chất có hoàn trả trong phân phối. Sự hoàn trả của
quan hệ phân phối trong tín dụng là bắt buộc và không kèm theo bất cứ một điều kiện nào, vì
vậy còn có thể gọi quan hệ phân phối trong tín dụng là quan hệ phân phối hoàn trả không điều
kiện76. Quan hệ này được thực hiện giữa hai nhóm chủ thể kinh tế cơ bản trong nền kinh tế,
đó là giữa những người đang tạm thời có vốn nhàn rỗi sang những người đang tạm thời thiếu
vốn và ngược lại.77 Những người có vốn để cho vay được gọi là người cấp tín dụng
(Creditor), còn người được cấp vốn thì gọi là người nhận tín dụng (Debtor). Tuy nhiên trong
thực tế đời sống kinh tế ngày nay, chỉ có một tỷ lệ nhỏ các quan hệ tín dụng là diễn ra trực
tiếp giữa hai chủ thể này, mà phần lớn các quan hệ tín dụng được thực hiện thông qua chủ thế
thứ ba, đó là các trung gian tài chính (Financial Intermediaries) thực hiện chức năng kinh
doanh tín dụng, trong đó chủ yếu là các ngân hàng và các công ty tài chính.
Trong tín dụng, có một điểm cần lưu ý là trong quá trình phân phối vốn tín dụng, lúc đầu vốn
sẽ di chuyển từ người cấp tín dụng sang người nhận tín dụng, và sau đó khi hoàn trả lại cho
người cấp tín dụng thì lượng vốn này sẽ được kèm theo một số tiền trội thêm, số tiền này
được gọi là tiền lãi, cũng được hiểu như là giá cả của việc cấp tín dụng. Tiền lãi được tính
toán dựa trên cơ sở của một tỷ lệ lãi suất được thoả thuận từ trước giữa người cấp tín dụng và
người nhận tín dụng.78
Lãi suất là một tỷ lệ phần trăm trội thêm nhất định so với số tiền mà người cấp tín
dụng cho người nhận tín dụng vay lúc đầu.
2.Bản chất và vai trò của tín dụng đối với nền kinh tế quốc dân
Xét về bản chất, tín dụng là một loại quan hệ phát sinh từ nhu cầu thực tế của con người, với
người đang có một lượng vốn tạm thời nhàn rỗi thì nhu cầu nảy sinh sẽ là phải làm cho
lượng vốn nhàn rỗi đó đem lại một lợi ích nào đó cho bản thân, còn đối với những người
đang tạm thời thiếu vốn, họ sẵn sàng bỏ ra một khoản chi phí phụ thêm để có thể có được
lượng vốn cần thiết phục vụ cho các nhu cầu của mình. Khi hai nhu cầu này gặp nhau thì tín
dụng tự nhiên hình thành, vì vậy có thể nói tín dụng là một hiện tượng kinh tế khách quan.
Theo quan điểm của Marx, tín dụng là một quá trình vận động của tiền với công thức biểu
diễn rút gọn là T-H-T’ (T’ > T). Để có thể có được một T’ lớn hơn so với lượng tiền T lúc
đầu, trong giai đoạn sản xuất (H), lượng vốn này phải được sử dụng vào sản xuất, với đặc
76 Còn có thể gọi tắt là quan hệ phân phối hoàn trả.
77 Cần đặc biệt chú ý là quan hệ này chỉ diến ra giữa những người đang tạm thời thiếu hoặc thừa vốn, do tính
chất hai chiều trong quan hệ tín dụng nên không thể có chuyện vốn cấp phát một chiều.
78 Đọc thêm mục III.1.2 Lãi suất
Introductory Finance
điểm của hàng hoá sức lao động, lượng giá trị mới tạo ra sẽ lớn hơn lúc đầu, và một phần
của lượng giá trị mới tạo ra đó sẽ được trích ra để trả phần phụ trội cho lượng tiền T lúc đầu.
Và như vậy có thể thấy bản chất của tín dụng là việc chia sẻ lợi nhuận giữa tư bản thương
nghiệp và tư bản sản xuất.
Sự hình thành và phát triển của tín dụng, do vậy, cũng đã có từ rất sớm. Những trường hợp
đầu tiên người ta ghi nhận về tín dụng là sự ra đời của những tiệm cho vay nặng lãi dưới
thời kỳ phong kiến. Nhưng do đặc điểm của thời kỳ này là lãi suất quá cao, nên tín dụng
không thể phát triển, nó chỉ tồn tại như một sự bổ sung cho quan hệ sản xuất phong kiến
thống trị thời kỳ đó. Nhưng khi nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ra đời, tín dụng đã có một sự
thay đổi cơ bản về chất. Đó là sự thoái trào của hiện tượng cho vay nặng lãi và sự phát triển
của một loại hình tín dụng mới với mức lãi suất vừa phải. Với một mức lãi suất có thể chấp
nhận được, con người trở nên mong muốn vay mượn hơn, do đó dẫn tín dụng phát triển
thành một hệ thống rộng rãi trong toàn xã hội. Và cho đến ngày nay tín dụng vẫn là một
ngành kinh tế có tính hiệu quả cao và đem lại nhiều lợi ích cho xã hội.
a. Tín dụng làm tăng cường tính linh hoạt của nền kinh tế
Với khả năng tập trung và tích tụ vốn trong các trung gian tài chính, tín dụng đã làm cho sản
xuất kinh doanh trong xã hội có thể dễ dàng tiếp cận các nguồn vốn cần thiết hơn, do đó tín
dụng góp phần làm tăng quy mô sản xuất và lưu thông hàng hoá, từ đó góp phần làm cho nền
kinh tế có được tính linh hoạt cao hơn.
b. Tín dụng tiết kiệm chi phí lưu thông và tăng tốc độ chu chuyển vốn
Vì tín dụng làm tích tụ vốn, đồng thời thực hiện việc chu chuyển vốn chủ yếu thông qua việc
chuyển khoản chứ không dùng tiền mặt nên lượng tiền nhàn rỗi trong dân cư sẽ giảm đi, và
lượng tiền mặt trong lưu thông cũng giảm đi. Với sự giảm đi này, chi phí lưu thông cũng sẽ
được tiết kiệm và vốn sẽ được chu chuyển nhanh hơn.
c. Các vai trò khác
Khi không dùng tới tiền mặt mà sử dụng vốn trong các tài khoản, tín dụng có thể làm mở rộng
số nhân tiền trong nền kinh tế. Bên cạnh đó hiện tượng tiền mặt hoá nền kinh tế cũng sẽ được
kiềm chế.
Tín dụng cũng hút được một lượng tiền nhàn rỗi lớn trong dân cư vào các quỹ tiết kiệm,
lượng tiền này sẽ được sử dụng vào những mục đích sinh lợi, do đó cũng sẽ làm cho nền kinh
tế phát triển hơn.
II.Các loại tín dụng cơ bản trong nền kinh tế quốc dân
1.Căn cứ vào thời hạn tín dụng
a. Tín dụng không kỳ hạn
Tín dụng không kỳ hạn là loại tín dụng không có quy định cụ thể thời gian đáo hạn
Với tín dụng không kỳ hạn, việc không quy định cụ thể thời gian đáo hạn không có nghĩa là
người cấp tín dụng có quyền đòi lại vốn tín dụng đã cấp bất kỳ lúc nào, điều này còn phụ
thuộc vào tuỳ từng loại tín dụng không kỳ hạn cụ thể.
9 Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn:
Thực ra đây là một hình thức cho vay của dân chúng đối với các ngân hàng. Nếu quan
niệm tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là việc ngân hàng giữ tiền hộ dân chúng thì hoàn
toàn không chính xác. Ngân hàng vẫn phải trả lãi cho người gửi tiền tiết kiệm, và nếu
như lãi suất này không đủ hấp dẫn thì người dân sẽ không gửi tiết kiệm ngân hàng nữa
64
mà sử dụng tiền vào những mục đích sinh lợi khác. Do đó cần phải có những chính sách
Bài giảng tham khảo
Credit
phù hợp để thu hút lượng tiền nhàn rỗi từ dân chúng vào các thể chế tài chính thông qua
kênh tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
9 Tín dụng gọi trả (To call credits)
là người cho vay, lượng vốn cho vay không được
ng ổn
Tín dụng gọi trả thường có một khoảng thời gian nhất định, gọi là thời gian
¾ ay thường tỏ ra
9 Tín dụng thấu chi(Overdraft)
ình tín dụng bổ sung cho một hợp đồng tín dụng sẵn
ường là thấp, thông thường xấp xỉ với lãi suất tiền gửi
b. Tín dụng ngắn hạn
ín dụng ngắn hạn cũng được chia thành nhiều loại nhỏ.
9 Tín dụng overnight (tín dụng nóng)
t đêm. Buổi tối hôm trước vay, sáng ngày hôm
Là loại tín dụng theo đó Ngân hàng
quy định kỳ hạn cụ thể. Khi nào Ngân hàng có nhu cầu thu hồi vốn vay thì sẽ thông báo
cho người nhận tín dụng biết trước trong vòng một số ngày nhất định để chuẩn bị.
Tuy nhiên, có thể thấy ngay rằng tín dụng gọi trả là một loại hình tín dụng khô
định, dù cho người nhận tín dụng có một số ngày nhất định để chuẩn bị hoàn trả. Vì dù
cho có một số ngày nhất định như vậy thì cũng không hề dễ dàng để huy động được vốn
trả nợ. Xuất phát từ tính không ổn định này nên tín dụng gọi trả cũng có những đặc điểm
riêng:
¾
chống gọi trả. Trong khoảng thời gian này, ngân hàng không được phép đòi tiền
từ người nhận tín dụng. Độ dài của thời gian chống gọi trả là bao nhiêu lâu phụ
thuộc vào sự thoả thuận giữa ngân hàng và người nhận tín dụng.
Lãi suất trong tín dụng gọi trả là thấp, xuất phát từ việc người đi v
không mặn mà lắm với kiểu vay nợ không ổn định này. Việc giảm lãi suất sẽ làm
cho tín dụng gọi trả có độ hấp dẫn cao hơn. Bên cạnh đó, các điều kiện để xét
cấp tín dụng trong tín dụng gọi trả cũng thông thoáng hơn nhiều so với tín dụng
thông thường. Bởi vì xét cho cùng loại hình tín dụng này phục vụ chủ yếu cho
lợi ích của các ngân hàng.
Tín dụng thấu chi thực ra là loại h
có. Nếu như khách hàng đang có một tài khoản mở tại ngân hàng, vào một thời điểm
nào đó và vì một lý do nào đó tài khoản này tạm thời hết tiền. Cùng thời điểm đó khách
hàng này có nhu cầu chi tiêu cho một mục đích nào đó của mình, ngân hàng sẽ tự động
cho khách hàng rút thêm một lượng tiền từ tài khoản đã trống của mình để sử dụng. Đó
là cơ chế của tín dụng thấu chi. Việc hoàn trả sẽ được thực hiện khi trong tài khoản của
khách hàng có tiền, và ngân hàng khấu trừ thẳng vào số tiền trong tài khoản đó. Như
vậy, khi sử dụng dịch vụ tín dụng thấu chi, thậm chí khách hàng không phải thực hiện
thủ tục vay nợ và trả nợ.
Lãi suất của tín dụng thấu chi th
tiết kiệm không kỳ hạn. Bên cạnh đó, khách hàng còn có thể được vay thấu chi với định
mức tín dụng tối đa là 10% giá trị số dư tài khoản năm trước của mình. Với nhiều ưu đãi
như vậy, tín dụng thấu chi thường được sử dụng như là một công cụ để các ngân hàng
cạnh tranh với nhau nhằm thu hút khách hàng về phía mình.
Tín dụng ngắn hạn là loại tín dụng có thời hạn ngắn hơn một năm
T
79
Là loại tín dụng có thời hạn chỉ trong mộ
sau sẽ phải hoàn trả đầy đủ cả tiền vay lẫn lãi. Người ta thường gọi tín dụng overnight là
tín dụng nóng vì lãi suất của loại hình tín dụng này thường là cao. Loại hình tín dụng
này nhằm phục vụ cho những đối tượng sử dụng vốn khi các ngân hàng đã nghỉ vào
65
79 Còn gọi là tín dụng qua đêm
Bài giảng tham khảo
Introductory Finance
66
buổi tối. Họ vay vốn từ một ngân hàng nước khác có múi giờ chênh lệch để sử dụng cho
mục đích của mình.
9 Tín dụng T/N và S/N80
Là những loại tín dụng có thời hạn 1 ngày và 2 ngày. Đây cũng là một loại hình tín dụng
vay nóng tương tự như tín dụng overnight, chỉ có điều là thời hạn dài hơn. Loại hình tín
dụng này chủ yếu phục vụ những đối tượng có nhu cầu sử dụng vốn trong những ngày
nghỉ cuối tuần, khi mà các ngân hàng ngừng làm việc vào 1 hoặc 2 ngày cuối tuần.
9 Tín dụng ngắn hạn
Đây là loại hình tín dụng ngắn hạn chính, thông thường nó có một thời hạn là chẵn
tháng, ví dụ như 1,2,3 tháng. Tuy nhiên cũng có thể quy định thời hạn vay là 30, 60, 90
hay 180 ngày. Tuy nhiên có một điểm cần lưu ý là tín dụng ngắn hạn có đối tượng vay
không phải là cá nhân, vì thông thường các cá nhân sẽ là chủ thể gửi tiền vào các ngân
hàng theo hình thức tiết kiệm. Còn đối tượng nhận tín dụng ngắn hạn ở đây là các doanh
nghiệp. Họ thường vay vốn ngắn hạn để trang trải các khoản nợ nần đến hạn mà tạm
thời chưa có vốn để thanh toán.
c. Tín dụng trung hạn
Tín dụng trung hạn là loại tín dụng có thời hạn từ một đến năm năm.
Thực ra trong thực tế người ta không sử dụng tiêu chí tín dụng trung hạn, tiêu chí được sử
dụng phổ biến là tín dụng ngắn hạn và tín dụng dài hạn. Đây chỉ là một tiêu chí tương đối, nếu
cứ có hợp đồng tín dụng nào trong phạm vi từ một đến năm năm có thể gọi được là tín dụng
trung hạn.81
Mục đích của tín dụng trung hạn thường là các hợp đồng vay mượn nhằm trang trải cho nhu
cầu mua sắm tài sản cố định hoặc đầu tư nhưng với quy mô nhỏ và có thời gian thu hồi vốn
tương đối nhanh.
d. Tín dụng dài hạn
82
Tín dụng dài hạn là loại tín dụng có thời hạn lớn hơn năm
Loại hình tín dụng này thường đi kèm với các ưu đãi nhất định vì mục tiêu của việc vay nợ
dài hạn thường là để đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng, đầu tư đổi mới có chiều sâu một hệ
thống trang thiết bị, thường là ở cấp ngành. Do đó đối tượng cấp tín dụng dài hạn thường là
Nhà nước hoặc là các tổ chức quốc tế.83
2.Căn cứ vào chủ thể cấp tín dụng
a. Tín dụng thương mại
Bài giảng tham khảo
Trong
tín dụng thương mại không có sự tham gia của các trung gian tài chính như ngân hàng hay
Là loại hình tín dụng giữa các chủ thể kinh tế phi tín dụng với nhau.
quỹ tín dụng. Thực ra tín dụng thương mại còn ra đời trước cả tín dụng với sự tham gia của
80 Tín dụng Tomorrow next và Spot next
81 Thực ra cứ có thời hạn vay lớn hơn một năm thì đã có thể gọi là tín dụng dài hạn được rồi.
82 Đây cũng chỉ là cách phân loại tương đối vì trong thực tế hầu như không có khái niệm tín dụng trung hạn.
83 Xem thêm chương NSNN, mục thu ngân sách từ vay nợ.
Credit
các ngân hàng. Tín dụng thương mại ra đời không phải vì mục đích kinh doanh kiếm lợi
nhuận mà nhằm mục đích tạo điều kiện cho các quan hệ thương mại diễn ra được nhanh
chóng và thuận lợi. Vì đặc điểm này nên tín dụng thương mại hầu như không diễn ra dưới
dạng tiền tệ mà chủ yếu diễn ra dưới dạng cung cấp hàng hoá và dịch vụ. Và cũng vì diễn ra
giữa các chủ thể phi tín dụng với nhau nên quy mô của tín dụng thương mại là nhỏ lẻ và thời
hạn tín dụng ngắn.
b. Tín dụng ngân hàng
ên phía các tổ chức tín dụng thì các ngân hàng đóng vai trò chủ đạo, do đó loại hình quan hệ
c. Tín dụng Nhà nước
hà nước không chỉ đóng vai trò là người cho vay mà còn có thể đóng vai trò người đi vay
3.Căn cứ vào mục đích cấp tín dụng
a. Tín dụng xuất khẩu
loại hình tín dụng nhằm khuyến khích hoạt động xuất khẩu diễn ra
b. Tín dụng nhập khẩu
hằm khuyến khích hoạt động nhập khẩu, người cung cấp tín dụng là
c. Tín dụng tiêu dùng
ụng nhằm mục đích phục vụ tiêu dùng bình thường. Ví dụ điển hình
4.Căn cứ vào đối tượng cấp tín dụng
ng được sử dụng để cấp tín dụng là gì sẽ hình thành nên
Là loại quan hệ tín dụng trong đó có một bên tham gia là các ngân hàng và tổ chức tín
dụng, bên còn lại là các tổ chức kinh tế hoặc cá nhân.
B
tín dụng này được gọi là tín dụng ngân hàng. Do mục tiêu của tín dụng ngân hàng là kinh
doanh thu lợi nhuận nên đối tượng tín dụng ở đây là tiền tệ, tín dụng ngân hàng cũng có quy
mô lớn và thời hạn tín dụng dài hơn so với tín dụng thương mại. Cũng vì sự phát triển của các
tổ chức tín dụng nhằm thu lợi nhuận nên tín dụng ngân hàng đã phát triển thành một hệ thống
trong xã hội và chiếm tỷ lệ đại đa số trong các loại quan hệ tín dụng.
Tín dụng Nhà nước là loại quan hệ tín dụng giữa một bên là Nhà nước và bên còn lại
là các chủ thể kinh tế khác.
N
trong loại hình quan hệ tín dụng này. Khi ngân sách Nhà nước tạm thời bị thiếu hụt, Nhà nước
có thể thông qua một số công cụ để huy động vốn từ các cá nhân và tổ chức xã hội. Bên cạnh
đó, Nhà nước cũng có thể thông qua việc cho vay ưu đãi để khuyến khích những ngành nghề,
khu vực cần ưu tiên phát triển.
Tín dụng xuất khẩu là
được mạnh mẽ và dễ dàng hơn. Người cấp tín dụng xuất khẩu là nhà xuất khẩu hoặc ngân
hàng, còn người nhận loại tín dụng này là nhà nhập khẩu. Tín dụng xuất khẩu còn được sử
dụng như là một biện pháp để hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu của quốc gia.
Là loại hình tín dụng n
nhà nhập khẩu còn người nhận tín dụng là nhà xuất khẩu nước khác.
Là nhóm loại hình tín d
của tín dụng tiêu dùng là hoạt động mua bán trả góp các vật dụng có giá trị lớn như xe máy,
hoặc thậm chí là nhà cửa. Tín dụng tiêu dùng thường được thực hiện với sự xuất hiện của các
công ty tài chính.
Trong tiêu chí phân loại này, đối tượ
quan hệ tín dụng tương ứng.
67
Bài giảng tham khảo
Introductory Finance
a. Tín dụng hàng hoá
Là loại quan hệ tín dụng trong đó đối tượng cho vay là hàng hoá. Vì nó không diễn ra dưới
dạng giá trị nên tín dụng hàng hoá thường có quy mô nhỏ và thơì hạn tín dụng ngắn. Cũng có
thể quy đồng tín dụng hàng hoá với tín dụng thương mại bởi vì các ngân hàng không thực
hiện các nghiệp vụ tín dụng hàng hoá.
b. Tín dụng tiền tệ
Là loại quan hệ tín dụng có đối tượng cho vay là tiền tệ. Tất nhiên, do đã sử dụng tới quan hệ
phân phối dưới dạng giá trị nên các hoạt động cho vay và trả trong tín dụng tiền tệ có điều
kiện để phát triển mạnh mẽ, dẫn tới cả quy mô và thời hạn của tín dụng tiền tệ đều là rất đáng
kể. Với đặc trưng kinh doanh tiền tệ của các ngân hàng, cũng có thể quy đồng nhóm tín dụng
tiền tệ với tín dụng ngân hàng.
c. Tín dụng thuê mua84
Tín dụng thuê mua là loại quan hệ tín dụng có đặc trưng là sự vay mượn được gắn liền với
quan hệ thuê giữa người cấp tín dụng và người nhận tín dụng. tín dụng thuê mua có thể được
chia thành hai nhóm cơ bản, đó là tín dụng thuê vận hành và tín dụng thuê hoạt động.
9 Thuê vận hành (Operating Lease)
Là quan hệ trong đó người thuê không có nghĩa vụ đối với các chi phí có liên quan tới
sự hao mòn, chi phí bảo dưỡng, bảo hành hay các nghĩa vụ đối với tài sản của bên cho
thuê. Bên thuê sẽ sử dụng tài sản thuê trong khoảng thời gian ngắn, sau đó trả lại bên
cho thuê hoặc mua lại nếu muốn.
9 Thuê tài chính
Một tài sản được coi là tài sản thuê tài chính khi có đầy đủ 4 đặc trưng:
Bên thuê được quyền lựa chọn mua lại hoặc thuê tiếp khi hợp đồng hết hạn
Bên thuê phải thuê trong ít nhất 60% thời gian sử dụng hữu ích của thiết bị thuê
Bên thuê nếu mua lại phải đã trả ít nhất số tiền tương đương với giá trị ban đầu của
thiết bị thuê
Bên thuê nếu mua lại phải được quyền mua với giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế
của thiết bị thuê vào thời điểm mua lại.
Thường thì tài sản thuê tài chính là các máy móc thiết bị có giá trị, dễ bị lạc hậu nên các
doanh nghiệp lựa chọn cách thuê tài chính để đảm bảo được khả năng đổi mới công
nghệ.
5.Căn cứ vào khả năng bao tín dụng
a. Tín dụng Factoring
Là loại tín dụng do một công ty chuyên thực hiện nghiệp vụ Factoring đảm trách, theo hợp
đồng Factoring thì công ty sẽ chiết khấu85 lên tới 80% giá trị của các hối phiếu do khách hàng
cầm giữ, công ty này sẽ có trách nhiệm đòi tiền của các hối phiếu đó. Khi đã thu được tiền thì
hai bên sẽ cùng thảo luận để quyết toán phần chênh lệch giữa giá trị đã chiết khấu và số tiền
thực tế thu được.86
84 Xem thêm mục phân loại tài sản cố định trong chương tài chính doanh nghiệp
85 Nghiệp vụ chiết khấu là việc mua lại một giấy tờ ghi nhận nợ trước khi loại giấy tờ này đến hạn thanh toán, vì
vậy giá chiết khấu bao giờ cũng thấp hơn so với mệnh giá của loại chứng từ đó.
68
86 Bao gồm cả các khoản lợi tức phát sinh trong khoảng thời gian này.
Bài giảng tham khảo
Credit
b. Tín dụng Forfaiting
Khác với nghiệp vụ Factoring, thay vì chỉ chiết khấu hối phiếu, công ty Forfaiting sẽ mua đứt
toàn bộ hối phiếu của khách hàng, sau đó công ty này sẽ hoàn toàn gánh chịu rủi ro trong việc
có thu được tiền hàng hay không.
6.Căn cứ vào phạm vi sử dụng tín dụng
a. Tín dụng trong nước
Là loại quan hệ tín dụng diễn ra giữa các chủ thể trong cùng một quốc gia. Với tín dụng trong
nước, quy mô và phạm vi thường diễn ra không lớn, do đó các quan hệ tín dụng trong nước
chủ yếu là những quan hệ diễn ra giữa các ngân hàng và các chủ thể khác trong nền kinh tế.
b. Tín dụng quốc tế
Là loại quan hệ tín dụng diễn ra giữa chủ thể của các quốc gia khác nhau. Thông thường quan
hệ này diễn ra ở tầm vĩ mô, thường là vay mượn giữa các quốc gia, các chính phủ. Tín dụng
quốc tế cũng thường diễn ra giữa các chi nhánh của các MNCs.
III.Những vấn đề cần chú ý trong tín dụng
Khi nghiên cứu tín dụng, có một số vấn đề cần chú ý, những vấn đề này tham gia vào việc
quyết định có cho vay hay không, và cũng quyết định một hợp đồng tín dụng như thế nào là
có lợi. Đây cũng có thể là căn cứ để so sánh giữa các hợp đồng tín dụng với nhau.
1.Nguồn hình thành nên vốn tín dụng
Vốn tín dụng có thể được hình thành từ nhiều nguồn khá