Đầu tiên, dầu mỏ được sử dụng làm nhiên liệu cơ bản để sản xuất hơi nước hay đốt nóng lò. Nhiên liệu này là phần còn lại của việc chưng cất đơn giản để sản xuất xăng và dầu bôi trơn. Việc phát minh ra động cơ đốt trong đã làm thay đổi nhiên liệu này và xăng động cơ đã trở nên một sản phẩm có nhu cầu lớn và tiếp đó là dầu nặng hơn cần thiết cho động cơ điezen. Phần cặn là dầu nhiên liệu. Dầu nhiên liệu có nhiều ưu điểm hơn than và nó thay thế than trong vận tải đường biển và một sốngành công nghiệp.
13 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2065 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng Sản xuất nhiên liệu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhiên liệu dầu khí
NXB Đại học quốc gia Hà Nội 2007.
Tr 23 – 34.
Từ khoá: Sản xuất nhiên liệu, nhiên liệu dầu khí, nhiên liệu, dầu khí, dầu mỏ, lọc
dầu, than đá, dầu nham phiến.
Tài liệu trong Thư viện điện tử ĐH Khoa học Tự nhiên có thể được sử dụng cho
mục đích học tập và nghiên cứu cá nhân. Nghiêm cấm mọi hình thức sao chép, in
ấn phục vụ các mục đích khác nếu không được sự chấp thuận của nhà xuất bản và
tác giả.
Mục lục
Chương 2 SẢN XUẤT NHIÊN LIỆU .........................................................................2
2.1 Sản xuất nhiên liệu từ dầu mỏ ..........................................................................2
2.2 Sản xuất nhiên liệu từ lọc dầu ..........................................................................6
2.3 Sản xuất nhiên liệu từ cát bitum (Bituminous Sands)......................................10
2.4 Sản xuất nhiên liệu từ dầu nham phiến ...........................................................11
2.5 Sản xuất nhiên liệu từ dầu than đá ..................................................................12
Chương 2. Sản xuất nhiên liệu
Hoa Hữu Thu
2
Chương 2
SẢN XUẤT NHIÊN LIỆU
2.1 Sản xuất nhiên liệu từ dầu mỏ
Đầu tiên, dầu mỏ được sử dụng làm nhiên liệu cơ bản để sản xuất hơi nước hay đốt
nóng lò. Nhiên liệu này là phần còn lại của việc chưng cất đơn giản để sản xuất xăng và
dầu bôi trơn. Việc phát minh ra động cơ đốt trong đã làm thay đổi nhiên liệu này và xăng
động cơ đã trở nên một sản phẩm có nhu cầu lớn và tiếp đó là dầu nặng hơn cần thiết cho
động cơ điezen. Phần cặn là dầu nhiên liệu. Dầu nhiên liệu có nhiều ưu điểm hơn than và
nó thay thế than trong vận tải đường biển và một số ngành công nghiệp.
Những ưu điểm của nhiên liệu này so với than như sau:
1 - Nhiệt trị của nó cao hơn than, không có tro.
2 - Dễ lưu kho hơn.
3 - Dễ khống chế sự cháy hơn, tiết kiệm nhân công, cường độ cháy cao.
4 - Sạch sẽ hơn trong khi sử dụng và trong khi nạp liệu lên tàu.
Dầu thô được tách thành các phân đoạn bằng các phương pháp chưng cất chọn lọc
trong khí quyển và chân không. Dầu thô cung cấp nguyên liệu đầu cho công nghiệp hoá
dầu và công nghiệp hoá chất. Nhiên liệu được sản xuất từ dầu mỏ theo trật tự tăng dần về
nhiệt độ chưng cất là: xăng máy bay, xăng ôtô, dầu hoả, nhiên liệu động cơ phản lực, dầu
điezen (DO), dầu madút (FO). Tỉ lệ các nhiên liệu này thu được từ dầu thô phụ thuộc vào
bản chất của dầu. Việc tinh luyện cũng có thể làm thay đổi đáng kể hiệu suất và tính chất
của các phân đoạn. Như chúng ta đã biết, dầu mỏ là nguồn có chứa một tỉ lệ cao
hiđrocacbon khí hoà tan (từ 40 ÷ 200 thể tích ở điều kiện tiêu chuẩn trong một thể tích
dầu lỏng) và khí này cần phải được tách ra khỏi dầu mà không làm mất đi các cấu tử có
điểm sôi thấp. Việc tách khí đầu tiên được thực hiên ngay từ giếng khai thác bằng cách
giảm áp ở đầu giếng trong thiết bị hình trống lớn. Khi các khí còn lại được tách hết thì
dầu thô trở nên an toàn cho các quá trình tiếp theo. Khí “ướt” được tách đầu tiên ở đầu
giếng được xử lí bằng hấp thụ hay nén để thu hồi “xăng giếng dầu”. Ở những giếng chỉ
có khí và xăng thu được theo kiểu này người ta gọi là xăng tự nhiên (natural gasoline).
Thành phần hoá học của dầu mỏ: Thành phần nguyên tố thay đổi trong phạm vi rất
nhỏ, ví dụ:
Cacbon 74,5 ÷ 87,1, trung bình là 84,5 Lưu huỳnh 0,1 ÷ 3,5
Hiđro 11,5 ÷ 14,5, trung bình là 12,5 Nitơ, oxi 0,1 ÷ 0,5
Cách gọi tên dầu thô: Tuỳ thuộc vào chủng loại các hiđrocacbon đa số có trong
thành phần dầu thô: parafin, naphten, aromat, người ta đặt tên các dầu thô tương ứng là
3
dầu parafin, dầu naphten khi những phân đoạn nhẹ của dầu có những hiđrocacbon tương
ứng chiếm đa số.
Khi những phần nặng nhất của dầu thô có chứa nhiều sản phẩm giống asphalt thì
người ta gọi loại dầu đó là dầu asphalt.
Bảng 8.
Thành phần điển hình của các loại dầu thô
Thành phần của các
hiđrocacbon (% khối
lượng)
Dầu thô parafin Dầu thô naphten Dầu thô asphalt
Parafin 40 12 5
Naphten 18 75 15
Aromat 10 10 20
Asphaltene (đa vòng) 2 3 60
Trong thực tế, tất cả các dầu thô đều chứa hiđrocacbon của ba loại trên. Người ta
thấy rằng những hiđrocacbon naphten là phổ biến nhất (nhưng không phải trong các phần
nhẹ) và ở phần cặn các hiđrocacbon này có chứa các mạch nhánh parafin dài hay ngắn và
chúng che lấp tính chất naphten của phân tử.
Bảng 9.
Thành phần của các phân đoạn của một số loại dầu thô
Dầu Grosnưi parafin Dầu Oklahome Dầu California Phân đoạn (°C)
A* N* P* A* N* P* A* N* P*
60 ÷ 95 3 25 72 5 21 73 4 31 65
95 ÷ 122 5 30 65 7 28 65 6 48 46
122 ÷ 150 9 35 56 12 23 55 11 64 25
150 ÷ 200 14 29 57 16 29 55 17 61 22
200 ÷ 250 18 23 59 17 31 52 25 45 30
250 ÷ 300 17 22 61 17 32 51 29 40 31
A*, N*, P* là các chữ viết tắt của kiểu hiđrocacbon tương ứng: Aromat,
Naphten, Parafin
Cách gọi tên các dầu thô ở trên cũng không tuyệt đối vì thế tuỳ theo thành phần của
ba loại hiđrocacbon người ta còn đặt tên các dầu thô là dầu trung gian. Bảng 8 và 9 trình
bày thành phần phần trăm của các loại dầu thô điển hình.
Tuy nhiên, sự phân loại dầu thô theo cấu tử giàu nhất trong dầu thô như ở trên cũng
không hoàn chỉnh. Lane và Garton đã đưa ra một cách phân loại được sử dụng rộng rãi
nhất trong thời gian gần đây. Cách phân loại dầu thô của Lane và Garton dựa vào 2 phân
đoạn của dầu thô:
(a) phân đoạn từ 250°C ÷ 275°C ở áp suất chưng cất là 1 atm và
(b) phân đoạn từ 275°C ÷300°C ở áp suất chưng cất là 40 mmHg.
Phân đoạn (a) được gọi là phân đoạn chìa khóa 1. Phân đoạn (b) được gọi là phân
đoạn chìa khóa 2. Mỗi một phân đoạn trên được phân loại theo kiểu hiđrocacbon: parafin,
4
trung gian hay naphten theo tỉ trọng của chúng và dầu thô được phân loại theo bản chất
của phân đoạn chìa khóa theo bảng dưới đây:
5
Bảng 10.
Phân loại dầu thô theo Lane và Garton
Loại dầu thô
Tỉ trọng 15,5/15,5°C
của phân đoạn chìa
khóa 1
Tỉ trọng 15,5/15,5°C của
phân đoạn chìa khóa 2
Parafin ≤ 0,8251 ≤ 0,8762
Parafin ÷ Trung gian nt 0,934 ÷ 0,8762
Parafin ÷ Naphten nt ≥ 0,934
Trung gian 0,8251 ÷ 0,8602 0,934 ÷ 0,8762
Trung gian ÷ Parafin nt ≤ 0,8762
Trung gian ÷ Naphten nt ≥ 0,934
Naphten ≥ 0,8602 ≥ 0,934
Naphten ÷ Parafin nt ≤ 0,8762
Naphten ÷ Trung gian nt 0,934 ÷ 0,8762
Theo cách phân loại này, một dầu thô được gọi là không chứa sáp hay có chứa sáp
tùy theo điểm đục của phân đoạn chìa khóa 2 thấp hơn hay cao hơn −15°C.
Theo cách phân loại dầu thô như trên, có khoảng 85% dầu thô trên thế giới rơi vào
3 loại đơn giản là parafin, trung gian và naphten. Các dầu thô parafin - naphten và
trung gian - naphten không thấy tồn tại.
Cách phân loại dầu thô của Lane và Garton là một cách đổi mới về phân loại dầu thô
theo 4 nhóm mà trong nhiều trường hợp người ta thấy rằng một kiểu hiđrocacbon nào đó
có thể chiếm chủ yếu trong một phân đoạn này và nó cũng có thể chiếm chủ yếu trong
một phân đoạn khác. Vì thế những nghiên cứu chi tiết cần được xác định để phân loại dầu
thô được chính xác hơn.
Vì dầu thô được đo bằng thể tích, nên hệ số dãn nở nhiệt của chúng rất quan trọng.
Giá trị của đại lượng này bình thường tăng lên với sự giảm khối lượng riêng của dầu trên
một khoảng từ 0,0007 ÷ 0,0010 khi nhiệt độ tăng 1°C. Đối với các phân đoạn dầu thì sự
thay đổi có rộng hơn như sau:
Phân đoạn dầu Sự thay đổi hệ số dãn nở nhiệt /°C
“Xăng” khối lượng riêng < 0,740 (g/ml) 0,00086
khối lượng riêng > 0,740 (g/ml) 0,00081
Dầu hoả 0,00072
Dầu gazoin 0,00064
Nhiên liệu điezen 0,00063
Độ nhớt của dầu mỏ thay đổi rất lớn, thậm chí với các dầu từ cùng một khu vực khai
thác. Độ nhớt tăng lên cùng với khối lượng riêng. Cả hai đại lượng độ nhớt và khối lượng
riêng càng cao nếu các parafin lỏng càng cao.
Bảng 11.
Giá trị nhiệt dung riêng của một số dầu thô tại các địa điểm khác nhau
Địa điểm Khối lượng riêng g/cm3 Nhiệt dung riêng (cal/(C/g)
Pensylvania 0,810 0,500
California 0,960 0,398
Nga 0,908 0,435
Burna 0,924 0,406
Scottland 0,880 0,406
6
Người ta cũng nhận thấy rằng: các dầu có cùng khối lượng riêng nhưng độ nhớt thay
đổi rất rộng. Sự tăng nhiệt độ gây nên sự giảm rất nhanh độ nhớt và khi tăng một vài độ
thông thường đã gây nên dầu có thể chảy tự do.
Nhiệt dung riêng của dầu là đại lượng rất quan trọng vì nó cần thiết để đốt nóng các
dầu nhiên liệu trước khi sử dụng. Nhiệt dung riêng giảm đi gần như tỉ lệ với sự tăng khối
lượng riêng. Bảng 11 trình bày các giá trị này đối với các dầu thô khác nhau.
2.2 Sản xuất nhiên liệu từ lọc dầu
Để nâng cao giá trị của dầu thô, thông thường dầu thô phải trải qua một số kiểu
chưng cất, các quá trình chế biến và làm sạch lưu huỳnh trước khi đem bán ngoài thị
trường.
Bước đầu tiên là chưng cất sơ cấp dầu thô sau khi đã loại hết các chất bẩn, muối và
nước thành các phân đoạn đầu tiên gồm: xăng, xăng nhẹ, xăng nặng, dầu gazoin và dầu
điezen, tiếp theo giai đoạn cất chân không người ta tách được dầu bôi trơn từ phần dầu
madút. Khoảng gần đúng của các phân đoạn này được trình bày trong hình 4.
Bản thân dầu thô sau khi đã loại bỏ bùn, cát, nước lẫn trong đó cũng là một loại
nhiên liệu. Nhưng trong thực tế ít khi người ta dùng ngay dầu thô làm nhiên liệu mà
thường tách dầu thô thành các phân đoạn hay các loại nhiên liệu thỏa mãn các yêu cầu
kĩ thuật khác nhau. Hình 4 ở trên là sơ đồ tách dầu thô thành các phân đoạn nhiên liệu
khác nhau mà không làm thay đổi bản chất sẵn có của chúng trong tự nhiên.
Việc tách phân đoạn dầu thô bằng cách chưng cất chọn lọc ở trên có thể nâng cao
hiệu quả của nhiên liệu và thỏa mãn các yêu cầu phức tạp của các nhà công nghiệp sản
xuất các loại động cơ xăng, động cơ điezen, động cơ phản lực khác nhau...
Do đặc điểm của các loại dầu thô khác nhau dẫn đến công nghệ lọc - hóa dầu cũng
khác nhau. Bảng 12 trình bày những tính chất rất khác biệt giữa dầu parafin và dầu
asphalt.
7
Hình 4.
Sơ đồ tách dầu thô thành các phân đoạn nhiên liệu khác nhau
8
Bảng 12.
Các đặc trưng của dầu thô parafin và asphalt
Tính chất và hiệu suất Dầu thô parafin Dầu thô asphalt
Khối lượng riêng Thấp Cao
Hiệu suất xăng Cao Thấp
Hàm lượng lưu huỳnh Thấp Cao
Tỉ lệ hiđro / cacbon Thấp Cao
Điểm khói của phân đoạn dầu hỏa Cao Thấp
Chỉ số xetan của dầu DO Cao Thấp
Điểm sương của phân đoạn FO Cao Thấp
Hiệu suất phân đoạn dầu bôi trơn Cao Thấp
Chỉ số độ nhớt của dầu bôi trơn Cao Thấp
Hiệu suất phần sáp Cao Thấp
Hiệu suất bitum Thấp Cao
Mùi Thơm Khó chịu
Màu Sáng Tối
Vì thế, với mục đích tách các phân đoạn dầu làm nhiên liệu sơ đồ chưng cất các loại
dầu parafin và asphalt có thể được trình bày như sau:
- Đối với dầu parafin (trong sơ đồ này chữ viết tắt: n.l. = nhiên liệu)
- Đối với dầu asphalt
Dầu parafin
Khí
(gas)
Sáp (wax) Dầu bôi trơn
(lubricating oil)
Dầu mazut, n.l. lỏng
nặng (được chưng cất
trong chân không, fuel
oil)
Dầu hỏa
(kerosine)
Dầu gazoin, n.l.
điezen (gas oil,
diezel fuel)
Sáp và sản phẩm chưng cất
đã được chọn lọc (Wax and
distilate, filtered)
Cặn A, n.l.
(residue A. fuel)
Xăng
(gasoline)
Các distilat
(distilate)
)
9
Do giao thông ngày càng phát triển, nhu cầu về xăng và các loại nhiên liệu khác ngày
càng tăng cả về số lượng lẫn chất lượng nên dầu thô được chế biến bằng nhiều phương
pháp khác nhau để đáp ứng nhu cầu của thị trường như:
- Crackinh nhiệt: cung cấp xăng có chỉ số octan cao.
- Crackinh xúc tác: cho xăng (xăng cracking) có chứa hàm lượng olefin thấp hơn
so với crackinh nhiệt nhưng hàm lượng hiđrocacbon phân nhánh cao hơn và chỉ
số octan có khi vượt quá 90.
- Crackinh với hơi nước.
- Hiđrocrackinh
- Refominh xúc tác: cho xăng (xăng refominh - refomat) có đặc tính thơm cao, chỉ
số octan cao.
- Polime hoá xúc tác: cho xăng có chứa hiđrocacbon phân nhánh.
- Ankyl hoá xúc tác: cho xăng có chứa hiđrocacbon phân nhánh (alkylat).
- Đồng phân hóa xúc tác: cho xăng có chứa hiđrocacbon phân nhánh (isomerat).
Sau các quá trình trên, thông thường các sản phẩm dầu trước khi sử dụng cần phải
trải qua giai đoạn làm sạch để loại hết các vết lưu huỳnh, nitơ và các chất bẩn khác. Có
nhiều cách làm sạch các sản phẩm dầu: rửa bằng các tác nhân axit (H2SO4) để loại các
hiđrocacbon olefin, rửa bằng dung dịch đioxit chì trong NaOH để loại các hợp chất
sunfua... Ngày nay, người ta thường dùng các phương pháp hiđro hoá xúc tác, hiđro hóa
làm sạch các sản phẩm dầu. Tất cả các quá trình vừa nói ở trên được bố trí trong nhà máy
lọc dầu (refinery). Sơ đồ công nghệ của nhà máy được trình bày trên hình 5.
Dầu asphalt
Khí
(gas)
Dầu hỏa
(kerosine)
Dầu gazoin, n.l.
điezen (gas oil,
diezel fuel)
N.l. điezen
(diezel fuel)
Dầu mazut, n.l. lỏng nặng
(được chưng cất trong
chân không, fuel oil)
Xăng
(gasoline)
Các distilat
(distilate)
Dầu bôi trơn (crude
lubricating oil)
Bitum hay dầu n.l.
nặng (bitumen or
heavy fuel oil)
Dầu bôi trơn tinh luyện
(refined lubricating oil)
10
Hình 5.
Sơ đồ nhà máy lọc dầu Nghi Sơn - Thanh Hóa
2.3 Sản xuất nhiên liệu từ cát bitum (Bituminous Sands)
Dầu mỏ hay các sản phẩm tự nhiên tương tự được tìm thấy trong cát hay khoáng sét
ở lớp tương đối gần của vỏ Trái Đất được gọi là cát bitum. Có nơi cát bitum lộ thiên gồm
dầu asphalt rất nhớt và nước trộn với cát, bùn và sét. Tỉ lệ dầu/nước = 12÷16 / 3÷15 tính
theo phần trăm.
Việc tách dầu ra khỏi hỗn hợp cát, bùn và sét rất khó khăn nhưng đến nay người ta
đã tìm được phương pháp tách dầu này. Tất cả các loại dầu tách được đều là các loại dầu
asphalt. Tỉ trọng của chúng thay đổi từ 1,4 ÷ 1,5 và nhiệt trị của dầu vào khoảng 9990
11
kcal/kg. Như vậy, các dầu thu được là dầu rất nặng. Khi chưng cất thông thường người ta
chỉ thu được 5% phân đoạn sôi dưới 180°C.
Có 3 phương pháp tách dầu ra khỏi cát. Đó là phương pháp tách bằng nước nóng,
tách bằng nước lạnh và chưng cất.
1) Phương pháp tách bằng nước nóng
Cát bitum được trộn với 10% (theo trọng lượng) nước nóng ở 85°C. Sau đó làm
ngập bằng nước nóng hơn rồi để yên. Dầu nổi lên được gạn ra khỏi bể chứa. Bằng
phương pháp này người ta có thể thu hồi được 80% dầu. Hỗn hợp nổi lên chứa 5%
khoáng tự nhiên và 30% nước.
2) Phương pháp tách bằng nước lạnh
Cát bitum trộn với nước lạnh theo tỉ lệ 1/3 và một lượng dầu hoả (kerosine) bằng
lượng dầu trong cát trong sự có mặt của kiềm và tác nhân dính ướt. Dầu nổi lên, được gạn
ra và để yên. Hiệu suất thu hồi theo phương pháp này đạt tới 95% nhưng dầu thô vẫn còn
chứa tới 3% các khoáng tự nhiên.
3) Phương pháp chưng cất nóng
Người ta thổi cát dầu cùng với không khí vào thiết bị tách để cung cấp nhiệt cho quá
trình tách. Dầu được đốt nóng và tách ra khỏi cát, sét. Dầu thu được qua phương pháp
chưng cất nóng thường có khối lượng riêng khoảng 0,955 g/cm3 và có các tính chất sau
đây:
- Hàm lượng nước: 0,2%
- Hàm lượng tro: 0,7%
- Hàm lượng lưu huỳnh: 4,2%
- Cặn cacbon Conradson: 6,0%
- Độ nhớt: 157 centistocks ở 21°C
Các phần chưng cất:
- 5% ở 180°C
- 10% ở 230°C
- 50% ở 340°C
- 80% ở 360°C
Bằng cách cất trực tiếp, người ta có thể thu được 15% naphta, 85% dầu madút. Dầu
madút này rất dễ bị phá vỡ ở 350°C.
2.4 Sản xuất nhiên liệu từ dầu nham phiến
Dầu có trong nham phiến đạt trữ lượng khá lớn trên thế giới. Trữ lượng lớn nhất về
dầu nham phiến là ở Liên Xô (trước đây) và Mỹ. Nham phiến chứa dầu là một loại đá có
mầu nâu tới màu đen. Khi phơi nắng có mầu xám tối. Nham phiến này cứng, giòn và giữ
nguyên dạng của nó khi chưng cất mặc dù cấu trúc lớp của đá rất rõ ràng.
12
Để tách dầu lấy từ nham phiến, người ta dùng phương pháp chưng cất với hơi nước.
Lượng hơi nước được đưa vào tới 40%. Sau đó nham phiến thô được chưng cất tới cốc
trong các nồi chưng ống. Nồi chưng cốc cuối cùng cho sản phẩm bão hoà và bền vững
hơn. Phép chưng cất này cho xăng thô, dầu không chứa sáp, dầu có sáp. Sáp được thu hồi
bằng cách nén cho kết tinh ở ≈ −10°C. Hai sản phẩm không chứa sáp được tinh luyện
bằng cách xử lí với kiềm hoặc axit và cất lấy dầu điezel. Dầu điezel gồm hầu hết các
parafin và có chất lượng cao, chỉ số xetan cao, nhưng lại không thích hợp cho xăng động
cơ vì chỉ số octan thấp (khoảng 58). Sáp được tinh luyện, được tẩy trắng và được chế tạo
thành nến và được dùng như một nhiên liệu.
2.5 Sản xuất nhiên liệu từ dầu than đá
Khi chưng cất khan (không có không khí) than đá ta sẽ thu được dầu than đá. Từ dầu
than đá thô, bằng cách chưng cất tiếp tục người ta thu được các nhiên liệu sau:
Xăng động cơ ở phân đoạn cuối của dầu creosote thu được bằng cách xử lí thứ cấp
với hiđro.
Benzen chỉ thu được một phần từ nhựa than đá. Phần lớn hơn có thể thu được bằng
cách xử lí khí than đá với hơi nước. Nhựa than đá chứa các hiđrocacbon đa nhân hoà tan
trong benzen.
Không giống các dầu có nguồn gốc từ dầu mỏ, dầu than đá có chứa một tỉ lệ lớn các
hợp chất chứa oxi (dưới dạng phenol), nitơ dưới dạng các bazơ hữu cơ. Các thành phần
nguyên tố chính của dầu than đá từ cùng một than nhưng cách tách nhiên liệu khác nhau
cũng cho các kết quả khác nhau (bảng 13).
Các dầu than đá nhiệt độ thấp khác đáng kể dầu than đá nhiệt độ cao như khối lượng
riêng thấp hơn, không có naphten.
13
Bảng 13.
Thành phần nguyên tố chính của dầu than đá theo điều kiện chưng cất
Thành phần
nguyên tố (%)
Nồi cất nằm
ngang
Nồi cất thẳng
đứng
Cất ở nhiệt độ
thấp
Cacbon 85,9 85,7 83,5
Hiđro 6,3 6,3 8,5
Lưu huỳnh 1,2 1,6 0,8
Nitơ 2,0 1,0 1,0
Oxi 4,0 5,4 6,2
Những tính chất khác của dầu than đá là:
- Nhiệt trị thay đổi trong giới hạn tương đối nhỏ;
- Hệ số dãn nở thay đổi rất ít;
- Nhiệt dung riêng của dầu than đá thay đổi từ 0,30 ÷ 0,4 cal/g.độ ở 40°C và nhiệt
dung riêng của các dầu và dầu than đá thay đổi từ 0,3 ÷ 0,38 ở 15 ÷ 40°C.