Bài giảng Tài chính công

Năm ngân sách (hay còn gọi là năm tài chính hoặc tài khoá) là giai đoạn mà trong đó dự toán thu – chi tài chính đã được phê chuẩn của Quốc hội có hiệu lực thi hành.Ở hầu hết các nước, năm ngân sách có thời hạn bằng 1 năm dương lịch, nhưng thời điểm bắt đầu và kết thúc năm ngân sách ở mỗi nước có khác nhau.Ở đa số các nước (trong đó có Việt nam), năm ngân sách trùng năm dương lịch (bắt đầu 1/1, kết thúc 31/12) như Pháp, Bỉ, Hà lan, Trung quốc. Một số nước như Anh, Nhật, năm ngân sách bắt đầu từ 1/4 năm trước và kết thúc vào 31/3 năm sau. Úc thì từ 1/7 năm trước đến 30/6 năm sau, Mỹ từ1/10 năm trước đến 30/9 năm sau. Việc quy định năm ngân sách là hoàn toàn do ý chí chủ quan của từng nhà nước

pdf17 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 1949 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng Tài chính công, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ch−¬ng 8. Tμi chÝnh c«ng 230 Chương 8. Tài chính công 1. Khái niệm và bản chất của Ngân sách nhà nước Ngân sách nhà nước (NSNN) là dự toán (kế hoạch) thu – chi bằng tiền của nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định (thường là 1 năm). Năm ngân sách (hay còn gọi là năm tài chính hoặc tài khoá) là giai đoạn mà trong đó dự toán thu – chi tài chính đã được phê chuẩn của Quốc hội có hiệu lực thi hành. Ở hầu hết các nước, năm ngân sách có thời hạn bằng 1 năm dương lịch, nhưng thời điểm bắt đầu và kết thúc năm ngân sách ở mỗi nước có khác nhau. Ở đa số các nước (trong đó có Việt nam), năm ngân sách trùng năm dương lịch (bắt đầu 1/1, kết thúc 31/12) như Pháp, Bỉ, Hà lan, Trung quốc. Một số nước như Anh, Nhật, năm ngân sách bắt đầu từ 1/4 năm trước và kết thúc vào 31/3 năm sau. Úc thì từ 1/7 năm trước đến 30/6 năm sau, Mỹ từ 1/10 năm trước đến 30/9 năm sau. Việc quy định năm ngân sách là hoàn toàn do ý chí chủ quan của từng nhà nước. Về mặt bản chất, NSNN là hệ thống những mối quan hệ kinh tế giữa nhà nước và xã hội phát sinh trong quá trình nhà nước huy động và sử dụng các nguồn tài chính nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện các chức năng của nhà nước. Các quan hệ kinh tế này bào gồm: - Quan hệ kinh tế giữa NSNN và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, dịch vụ - Quan hệ kinh tế giữa NSNN và các tổ chức tài chính trung gian - Quan hệ kinh tế giữa NSNN và các tổ chức xã hội - Quan hệ kinh tế giữa NSNN và các hộ gia đình - Quan hệ kinh tế giữa NSNN và thị trường tài chính - Quan hệ kinh tế giữa NSNN với hoạt động tài chính đối ngoại Hệ thống ngân sách nhà nước được tổ chức theo một trong hai mô hình sau: - Mô hình nhà nước liên bang: NSNN được tổ chức theo 3 cấp • Ngân sách liên bang • Ngân sách bang • Ngân sách địa phương - Mô hình nhà nước thống nhất: NSNN gồm 2 cấp • Ngân sách trung ương • Ngân sách địa phương Tại Việt nam, theo tinh thần Luật Ngân sách nhà nước, được thông qua ngày 20 tháng 3 năm 1996 và có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách 1997, hệ thống NSNN bao gồm 4 cấp: - Ngân sách trung ương Ch−¬ng 8. Tμi chÝnh c«ng 231 - Ngân sách cấp tỉnh (tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương) - Ngân sách cấp huyện (huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh) - Ngân sách cấp xã (xã, phường, thị trấn) Cơ quan quản lý quỹ của NSNN là Kho bạc Nhà nước. Hệ thống Kho bạc Nhà nước Việt nam được thành lập theo quyết định QĐ 07/HĐBT ngày 4/1/90 và chính thức đi vào hoạt động ngày 1/4/90. 2. Vai trò của ngân sách nhà nước trong nền kinh tế Ngân sách nhà nước là công cụ quản lý vĩ mô mà nhà nước sử dụng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình trong việc ổn định, phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng và góp phần thực hiện công bằng xã hội. 2.1. NSNN – Công cụ huy động nguồn tài chính để đảm bảo các nhu cầu chi tiêu của nhà nước Hoạt động của nhà nước trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội luôn đòi hỏi phải có các nguồn tài chính để chi tiêu cho những mục đích xác định. Các nhu cầu chi tiêu này được thoả mãn bằng các nguồn thu ngân sách nước, mà chủ yếu là thuế (trung bình chiếm 80-90% tổng thu). Đây là vai trò truyền thống của NSNN, tồn tại trong bất cứ thời đại, chế độ xã hội nào kể từ khi nhà nước ra đời. Nó xuất phát từ sự cần thiết khách quan của việc ra đời nhà nước với chức năng quản lý kinh tế xã hội. 2.2. NSNN – Công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội của nhà nước Vai trò này xuất hiện trước nhu cầu phải có sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế nhằm khắc phục những hạn chế của nền kinh tế thị trường, giúp nền kinh tế - xã hội phát triển cân đối và hợp lý hơn. Nhà nước thực hiện vai trò điều tiết vĩ mô của mình thông qua các hoạt động thu, chi ngân sách. Cụ thể, vai trò này được thể hiện trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội như sau: 2.2.1. Về mặt phát triển kinh tế NSNN được sử dụng để kích thích nền kinh tế phát triển hoặc hình thành cơ cấu kinh tế mới, thông qua các hoạt động như: - Dùng vốn NSNN để đầu tư vào cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội như giao thông, điện, nước thuỷ lợi… Đây là những lĩnh vực rất cần cho sự phát triển kinh tế xã hội nhưng tư nhân không muốn đầu tư (do tỷ suất lợi nhuận thấp, thời gian hoàn vốn chậm) hoặc không đủ khả năng (về vốn và trình độ) để đầu tư. - Thực hiện những ưu đãi về tín dụng hoặc thuế nhằm khuyến khích phát triển những ngành nghề hoặc vùng cần phát triển, ví dụ các ngành kinh tế mới (công nghệ sinh học, tin học), các ngành trọng điểm (sản xuất hàng xuất khẩu), các vùng Ch−¬ng 8. Tμi chÝnh c«ng 232 kinh tế ở vùng sâu vùng xa cần hỗ trợ phát triển để đảm bảo đời sống người dân ở đó. - Thông qua việc áp dụng thuế suất cao đối với những mặt hàng xa xỉ có tác dụng định hướng tiêu dùng nhằm tiết kiệm nguồn vốn có hạn của xã hội, để dành cho phát triển kinh tế. - Khi nền kinh tế suy thoái, nhà nước có thể tăng chi ngân sách cho đầu tư, cắt giảm thuế nhằm kích cầu, hỗ trợ nền kinh tế phục hồi sớm. - Thông qua các khoản chi đầu tư từ vốn ngân sách và ưu đãi thuế để thúc đẩy hình thành cơ cấu kinh tế mới, hợp lý hơn, qua đó phát huy các nguồn lực trong xã hội một cách có hiệu quả. 2.2.2. Về mặt ổn định kinh tế xã hội Vai trò này của NSNN được thể hiện qua các hoạt động như: - Lập quỹ dự trữ nhà nước về hàng hoá, vật tư thiết yếu, các quỹ dự phòng tài chính (kể cả bằng vàng và ngoại tệ) để ổn định kinh tế xã hội khi có sự biến động do thiên tai, tai hoạ lớn mà Nhà nước cần can thiệp. - Hỗ trợ các quỹ bình ổn giá, quỹ bảo hiểm xã hội. - Cấp tín dụng ưu đãi hoặc mua lại các doanh nghiệp có vị trí quan trọng đang gặp khó khăn, có nguy cơ giải thể hoặc phá sản. - Lập quỹ dự trữ ngoại tệ để ổn định tỷ giá. - Sử dụng các chính sách tài khoá thắt chặt hoặc mở rộng nhằm điều tiết kinh tế vĩ mô (giảm nhiệt nền kinh tế, chống lạm phát, phục hồi tổng cầu). - Ngoài ra, các hoạt động nhằm cân bằng ngân sách cũng có ảnh hưởng lớn tới các cân bằng vĩ mô của nền kinh tế như cán cân thanh toán… 2.2.3. Về mặt thực hiện công bằng xã hội - Chi phúc lợi công cộng như giáo dục, y tế, văn hoá… nhằm tạo điều kiện nâng cao mặt bằng xã hội. - Chi trợ cấp đối với những người có hoàn cảnh khó khăn như trẻ em mồ côi, người già không nơi nương tựa, những gia đình có công với đất nước. - Chi trợ cấp thất nghiệp nhằm giúp ổn định xã hội. - Chi hỗ trợ việc làm cho người nghèo, người tàn tật qua tín dụng ưu đãi. - Thông qua thuế thu nhập, thuế lợi tức nhằm điều tiết thu nhập cao để phân phối lại cho các đối tượng có thu nhập thấp, góp phần giảm bớt khoảng cách giầu nghèo. 3. Thu ngân sách nhà nước Thu ngân sách bao gồm những khoản tiền nhà nước huy động vào ngân sách để thoả mãn Ch−¬ng 8. Tμi chÝnh c«ng 233 nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Về mặt bản chất, thu NSNN là hệ thống những quan hệ kinh tế giữa nhà nước và xã hội phát sinh trong quá trình nhà nước huy động các nguồn tài chính để hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước nhằm thoả mãn các nhu cầu chi tiêu của nhà nước. 3.1. Các nguồn thu của NSNN Thu NSNN được hình thành từ các nguồn sau: 3.1.1. Thuế Thuế là hình thức động viên bắt buộc một phần thu nhập của cá nhân, doanh nghiệp cho Nhà nước nhằm đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Thuế có những đặc trưng sau: - Là hình thức động viên một phần thu nhập của các cá nhân, doanh nghiệp cho Nhà nước. Các cá nhân, doanh nghiệp là người được hưởng các lợi ích từ chi tiêu NSNN và họ có thu nhập nên phải có nghĩa vụ trích một phần thu nhập nộp cho ngân sách Nhà nước, có thể bằng hình thức trực tiếp (thuế đánh vào thu nhập) hoặc gián tiếp (thuế VAT, thuế xuất nhập khẩu…). - Là khoản đóng góp mang tính bắt buộc vì thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN cho nhu cầu chi tiêu cho Nhà nước nhưng do tính chất không hoàn trả trực tiếp nên người chịu thuế không tự giác nộp. - Không hoàn trả trực tiếp mà hoàn trả gián tiếp và không tương đương dưới hình thức người chịu thuế được hưởng các hàng hoá, dịch vụ Nhà nước cung cấp không mất tiền hoặc với giá thấp và không phân biệt giữa người nộp thuế nhiều hay ít. 3.1.2. Lệ phí Lệ phí là khoản thu do Nhà nước quy định để nhà nước phục vụ công việc quản lý hành chính nhà nước theo yêu cầu hoặc theo quy định của pháp luật. Việt nam có khoảng 15 loại lệ phí như lệ phí trước bạ, lệ phí đăng ký kinh doanh, lệ phí chứng thư, công chứng, lệ phí cấp quota. Đây là khoản thu do những cơ quan hành chính thực hiện. Đó là những đơn vị dự toán ngân sách, tức là toàn bộ thu chi của nó gắn với thu chi ngân sách hay thu chi của nó là một bộ phận của thu chi ngân sách. Tiền lệ phí thu được dùng để bù đắp các khoản chi phí phát sinh khi giải quyết công việc của bộ phận quản lý trực tiếp và gián tiếp. Ví dụ tiền lệ phí trước bạ nhà, đất không chỉ để đảm bảo hoạt động của bộ phận trước bạ mà còn đảm bảo hoạt động của cả hệ thống cơ quan quản lý nhà đất như Tổng cục địa chính, Sở nhà đất với các công việc như lập hồ sơ địa chính, lập quy hoạch… Do đó một số lệ phí có số tiền thu lớn như lệ phí trước bạ nhà đất lên tới 2% giá trị nhà đất. Ch−¬ng 8. Tμi chÝnh c«ng 234 Thu lệ phí là nhằm đảm bảo thực hiện nguyên tắc thu theo khả năng đóng góp trong chính sách động viên vào ngân sách Nhà nước và công bằng trong việc hưởng thụ các lợi ích từ chi tiêu của ngân sách. Vì vậy người nộp lệ phí là người được hưởng lợi ích từ hoạt động quản lý của Nhà nước và số tiền lệ phí phù hợp với khả năng đóng góp của họ nên Nhà nước không cần trợ giúp để giảm gánh nặng cho người nộp thuế. Một số lệ phí là bắt buộc. Trong đó quan trọng là lệ phí trước bạ, vì Nhà nước cần quản lý quyền sở hữu, quyền sử dụng một số tài sản là nhà đất, tầu thuyền, ôtô, xe máy, súng săn, súng thể thao nhưng nhiều người không muốn nộp lệ phí nên không chịu trước bạ những tài sản này. Nếu Nhà nước quy định số tiền nộp lệ phí nào đó lớn nhằm tăng thu ngân sách thì không gọi là lệ phí mà gọi là thuế hay thuế mang tính chất lệ phí như thuế môn bài. Tóm lại, lệ phí vừa mang tính chất phục vụ cho người nộp lệ phí về việc thực hiện một số thủ tục hành chính, vừa mang tính chất động viên đóng góp cho NSNN. 3.1.3. Phí Phí là khoản thu do nhà quy định nhằm bù đắp một phần chi phí của NSNN mà nhà nước đã dùng để: - đầu tư xây dựng, mua sắm, bảo dưỡng và quản lý tài sản, tài nguyên hoặc chủ quyền quốc gia, - tài trợ cho các tổ chức, cá nhân hoạt động sự nghiệp, hoạt động công cộng hoặc lợi ích công cộng theo yêu cầu, không mang tính kinh doanh. Khác với lệ phí, việc thu phí chỉ nhằm bù đắp một phần chi phí và gắn với hoạt động sự nghiệp, hoạt động công cộng và chỉ thu theo yêu cầu. Các dịch vụ của hoạt động sự nghiệp như giáo tục, y tế… hoạt động công cộng như giao thông, vệ sinh đô thị… rất cần phát triển nhưng một bộ phận dân cư không có khả năng mua nếu Nhà nước không hỗ trợ một phần chi phí. Do thu không đủ bù đắp chi phí nên đơn vị sự nghiệp là đơn vị dự toán ngân sách. Người trả tiền phí (mua dịch vụ) là người được hưởng một phần số tiền chi tiêu của Nhà nước nên phải tuỳ vào loại hoạt động sự nghiệp và sức sống của dân và khả năng chi của ngân sách mà xác định mức phí cho phù hợp. Như vậy, phí là một khoản thu mang tính chất bù đắp và bắt buộc đối với các thể nhân và pháp nhân do được hưởng một lợi ích hoặc được sử dụng một dịch vụ (công cộng) nào đó do nhà nước cung cấp. Phí có tính hoàn trả trực tiếp. Do đặc điểm của thuế, lệ phí và phí khác nhau dẫn đến hình thức văn bản pháp luật điều chỉnh và cơ quan ban hành chúng cũng khác nhau. Thuế cần được Quốc hội quyết định và ban hành dưới dạng luật, riêng thuế mang tính chất lệ phí thì chỉ cần Chủ tịch nước quyết định. Do Việt nam mới tiếp cận kinh tế thị trường nên một số thuế tạm thời do Uỷ Ch−¬ng 8. Tμi chÝnh c«ng 235 ban thường vụ quốc hội ban hành dưới dạng pháp lệnh để thuận tiện cho quá trình hoàn thiện. Lệ phí, phí do Chính phủ, Bộ Tài chính và Uỷ ban nhân dân tỉnh thành phố trung ương ban hành dưới dạng nghị định, quyết định. So sánh thuế với phí và lệ phí172: Giống nhau: - Là khoản thu của NSNN - Là khoản đóng góp (nộp) của thể nhân và pháp nhân - Mang tính bắt buộc, gắn liền với quyền lực chính trị của nhà nước - Mang tính ổn định tương đối - Đều được lượng hoá thông qua tiền tệ Khác nhau: THUẾ PHÍ VÀ LỆ PHÍ - Là luật định, dưới hình thức luật hoặc pháp lệnh do cơ quan lập pháp (quốc hội) ban hành việc ấn định, ban hành, bãi bỏ hoặc sửa đổi một số sắc thuế phải trải qua những trình tự lập pháp chặt chẽ do hiến pháp quy định. - Cũng do nhà nước quy định nhưng ở cấp độ khác, dưới hình thức văn bản do cơ quan hành pháp ban hành. Trình tự ban hành không chặt chẽ, phức tạp như thuế. - Không có đối phần cụ thể. - Có đối phần cụ thể - Thuế là khoản thu chủ yếu của NSNN, công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế và điều hoà thu nhập trong xã hội. - Phí, lệ phí là những khoản thu để giảm chi ngân sách, nhằm mục tiêu duy nhất là bù đắp một phần chi phí nhà nước đã đầu tư vào các dịch vụ công cộng của nhà nước. - Không mang tính hoàn trả trực tiếp, một phần được hoàn trả gián tiếp thông qua các khoản trợ cấp xã hội và phúc lợi công cộng. - Mang tính hoàn trả trực tiếp cho người nộp. - Mang tính chất nghĩa vụ đóng góp của các tổ chức kinh tế và dân cư đối với nhà nước. - Chỉ khi có hưởng lợi ích hoặc được sử dụng dịch vụ công cộng mới phải nộp phí, lệ phí. - Mức thu về thuế thường được quy định bằng tỉ lệ phần trăm (%) so với cơ sở tính thuế đồng thời có thể được quy định bằng con số tuyệt đối hay tỉ lệ (%) luỹ tiến hoặc luỹ thoái. - Mức thu về lệ phí, phí là một loại giá cả đặc biệt, nó không giống như giá cả hàng hoá và dịch vụ phải chịu sự chi phối bởi quy luật cung cầu trên thị trường; mà mức thu lệ phí được đặt ra trên cơ sở đáp ứng yêu cầu bù đắp chi phí của dịch vụ công cộng. 3.1.4. Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước - Thu lợi tức từ hoạt động góp vốn liên doanh, cổ phần của Nhà nước vào các cơ sở kinh tế như lãi từ cổ phần Nhà nước giữ lại tại các doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hoá. 172 Trang 104, sách Lý thuyết Tài chính – Tiền tệ, TP. HCM Ch−¬ng 8. Tμi chÝnh c«ng 236 - Thu tiền sử dụng vốn ngân sách Nhà nước từ các doanh nghiệp Nhà nước. Khoản thu này trích từ lợi nhuận của doanh nghiệp theo tỷ lệ từ 0,2 - 0,5% vốn NSNN cấp/tháng. Vốn NSNN cấp gồm có vốn do ngân sách nhà nước cấp và vốn có nguồn gốc từ ngân sách (như viện trợ trực tiếp cho doanh nghiệp, các khoản lợi nhuận phải nộp ngân sách được phép giữ lại bổ sung vốn). - Tiền thu hồi vốn của Nhà nước tại các cơ sở kinh tế, ví dụ tiền thu từ việc bán cổ phần tại các doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hoá, bán doanh nghiệp Nhà nước làm ăn yếu kém mà không cần thiết giữ lại. - Thu hồi tiền cho vay của Nhà nước (cả gốc và lãi) từ các các tổ chức, cá nhân trong nước vay qua Tổng cụ đầu tư phát triển hoặc qua hệ thống ngân hàng (ngân hàng hưởng phí dịch vụ) và từ chính phủ nước ngoài, các tổ chức quốc tế. 3.1.5. Thu từ hoạt động sự nghiệp - Các khoản thu do bán sản phẩm của các đơn vị sự nghiệp như thu tiền bán sản phẩm sản xuất thử cuả các đơn vị nghiên cứu khoa học, bán sách do trường tự in ấn… Các đơn vị sự nghiệp có cơ chế tài chính là dự toán ngân sách nên toàn bộ các khoản thu phải nộp vào ngân sách. - Khoản chênh lệch giữa thu và chi của các đơn vị hoạt động sự nghiệp có thu, sau khi đơn vị đã trích lập vào các quỹ theo chế độ (quỹ đầu tư phát triển, dự trữ tài chính, khen thưởng, phúc lợi). Đơn vị sự nghiệp có thu là đơn vị cung cấp dịch vụ công cộng theo giá Nhà nước quy định, nhưng thu nhập không phụ thuộc nhiều vào chi phí phát sinh. Vì vậy để khuyến khích các đơn vị này tích cực thu nên đã áp dụng cơ chế tài chính gắn thu bù chi. Đơn vị sự nghiệp có thu là một dạng của doanh nghiệp Nhà nước hoạt động công ích. 3.1.6. Tiền bán hoặc cho thuê tài sản không dùng (thuộc sở hữu Nhà nước) tại các đơn vị hành chính, sự nghiệp. 3.1.7. Thu tiền bán hàng hoá, vật tư từ quỹ dự trữ Nhà nước. 3.1.8. Tiền thu sử dụng đất khi Nhà nước giao quyền sử dụng đất, tiền thuê mặt đất, mặt nước. 3.1.9. Các khoản huy động đóng góp của các tổ chức, cá nhân bổ sung cho vốn đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng tại địa phương (cấp xã, thị trấn). Do khả năng chi của ngân sách địa phương có hạn và người dân muốn đóng góp để xây dựng các công trình phục vụ trực tiếp cho họ. 3.1.10. Các khoản đóng góp tự nguyện của các tổ chức cá nhân ở trong và ngoài nước như đóng góp cho quỹ an ninh, quỹ phòng chống thiên tai, ủng hộ đồng bào bão lụt… 3.1.11. Các khoản viện trợ không hoàn lại của Chính phủ các nước, của các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài cho Chính phủ hoặc trực tiếp cho các cơ quan, doanh nghiệp Nhà Ch−¬ng 8. Tμi chÝnh c«ng 237 nước. 3.1.12. Các khoản vay trong nước, vay nước ngoài của Chính phủ để bù đắp bội chi cho đầu tư phát triển và khoản vay của chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cho đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Vay trong nước được tiến hành dưới hình thức phát hành trái phiếu nhà nước, gồm: - Trái phiếu chính phủ, có 3 loại: tín phiếu kho bạc (có thời hạn dưới 1 năm), trái phiếu kho bạc (có thời hạn từ 1 năm trở lên) và trái phiếu công trình. Vay trái phiếu công trình do cơ quan chính phủ quản lí và sử dụng cho đầu tư một công trình nhất định. Trái phiếu, tín phiếu có thể phát hành qua hệ thống Ngân hàng Nhà nước hoặc kho bạc Nhà nước. - Trái phiếu chính quyền địa phương: dùng để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thuộc phần trách nhiệm của địa phương. Nước nào có mức độ phân cấp quản lý ngân sách cao thì trái phiếu địa phương phát triển hơn. - Công trái: nhà nước phát hành khi đất nước gặp khó khăn do chiến tranh, khủng hoảng kinh tế… nên cần sự ủng hộ của người dân để vượt qua. Công trái có lãi suất thấp hơn thị trường và thời hạn vay dài. Vay nước ngoài dưới các hình thức sau: - Vay vốn ODA của chính phủ nước ngoài (song phương), của các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế (đa phương). Viện trợ phát triển chính thức (ODA) thường gồm một phần không hoàn lại, phần còn lại là vay ưu đãi. Phần vay ưu đãi được tính vào khoản vay nước ngoài để theo dõi và có kế hoạch trả nợ. - Phát hành trái phiếu chính phủ quốc tế (tại các thị trường vốn quốc tế). - Vay của các thương nhân, tổ chức tài chính, tín dụng nước ngoài. Hai khoản vay sau từ nước ngoài theo lãi suất thị trường và điều kiện vay khó hơn nên Việt Nam rất ít sử dụng. 3.1.13. Các khoản thu khác như: khoản tiền phạt, tài sản tịch thu, di sản Nhà nước được hưởng… Khi lập dự toán thu hàng năm, ngoài các khoản thu trên còn có thu kết dư ngân sách năm trước. Tuy nhiên đây không phải là một hình thức động viên hay nguồn thu của ngân sách Nhà nước. 3.2. Phân loại thu ngân sách Phân loại thu ngân sách nhà nước là sự sắp xếp các nguồn thu thành những nhóm, theo những tiêu thức nhất định nhằm đáp ứng những yêu cầu về nghiên cứu, phân tích kinh tế và quản lý ngân sách. Có 4 cách phân loại phổ biến như sau: 3.2.1. Căn cứ vào tính chất kinh tế của các nguồn thu, thu ngân sách nhà nước được Ch−¬ng 8. Tμi chÝnh c«ng 238 chia làm 2 loại: - Thu từ thuế và các khoản mang tính chất thuế (như phí, lệ phí) hay còn gọi là thu từ thuế, phí và lệ phí. Đây là các khoản thu có tính chất bắt buộc, không hoàn trả và là nguồn thu chủ yếu của ngân sách. - Các khoản thu không mang tính chất thuế (hay còn gọi tắt là thu ngoài thuế). Cách phân loại này có ý nghĩa trong việc xác định tỷ lệ động viên từ thuế vào ngân sách hay tỷ suất thuế (tỷ lệ giữa số thuế thu được/GDP) dùng trong việc phân tích đánh giá chính sách động viên vào NSNN từ thuế. Nó còn có ý nghĩa trong việc xác định và đánh giá tỷ trọng nguồn thu thuế trong tổng số thu. 3.2.2. Căn cứ vào khả năng động viên GDP vào NSNN, thu NSNN được chia thành: - Thu trong nước - Vay nợ và viện trợ Chỉ tiêu thu trong nước thể hiện mức động viên từ các cá nhân, doanh nghiệp vào ngân sách, giúp phân tích đánh giá chính sách động viên vào NSNN, đó là tỷ lệ động viên GDP vào NSNN hay tỷ suất thu NSNN, được tính bằng: (Tổng thu trong nước / GDP) x 100%. Tỷ suất thu và thu trong nước thường được quan tâm khi xem