CHƯƠNG 11
THUẾ VÀ PHÂN PHỐI THU NHẬP
Trong những năm gần đây, các tranh luận chính sách về hệ thống thuế luôn bị thống trị bởi câu hỏi gánh
nạêng thuế có được phân phối công bằng hay không? Để nhận thức vấn đề quy chuẩn này, ta cần phải hiểu một vấn đề thực chứng là thuế tác động lên phân phối thu nhập như thế nào. Chương này sẽ bàn luận về vấn đề trên với các nội dung chính như sau:
1- DẪN NHẬP
2- PHẠM VI TÁC ĐỘNG CỦA THUẾ - CÁC BÌNH LUẬN TỔNG THỂ
3- CÁC MÔ HÌNH CÂN BẰNG TỪNG PHẦN
4- CÂU HỎI THẢO LUẬN VÀ BÀI TẬP
53 trang |
Chia sẻ: thanhtuan.68 | Lượt xem: 1252 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Tài chính công - Chương 11 Thuế và phân phối thu nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 11
THUẾ VÀ PHÂN PHỐI THU NHẬP
Trong những năm gần đây, các tranh luận chính sách
về hệ thống thuế luôn bị thống trị bởi câu hỏi gánh
nạêng thuế có được phân phối công bằng hay không? Để
nhận thức vấn đề quy chuẩn này, ta cần phải hiểu một
vấn đề thực chứng là thuế tác động lên phân phối thu
nhập như thế nào. Chương này sẽ bàn luận về vấn đề
trên với các nội dung chính như sau:
1- DẪN NHẬP
2- PHẠM VI TÁC ĐỘNG CỦA THUẾ - CÁC BÌNH
LUẬN TỔNG THỂ
3- CÁC MÔ HÌNH CÂN BẰNG TỪNG PHẦN
4- CÂU HỎI THẢO LUẬN VÀ BÀI TẬP
11.1 DẪN NHẬP
Giả sử giá của một chai rượu là 10 đô la. Chính
phủ đặt ra một loại thuế 1 đô la trên mỗi chai
rượu. Thuế được thu như sau: mỗi lần người ta
mua một chai rượu, người thu thuế lấy bớt đi 1
đô la từ tay người bán rượu trước khi tiền được
cho vào tủ. Ta có thể kết luận là người bán rượu
đang trả thuế
11.1 DẪN NHẬP
Một vài tuần sau, giả sử để trả thuế, người bán
hàng tăng giá lên thành 11 đô la một chai
rượu. Chính phủ vẫn thu được tổng số thuế
như trước trên mỗi chai rượu bán ra. Người
bán rõ ràng không bị thiệt đi chút nào so với
trước khi bị đánh thuế. Người mua đã trả toàn
bộ số thuế trên dưới dạng giá hàng cao hơn.
11.1 DẪN NHẬP
Nếu sau khi chịu thuế, giá của mỗi chai rượu
vẫn không đổi là 10 đô la, người mua không
phải chịu thiệt hại do người bán đã chịu hết
gánh nặng thuế
Nếu giá một chai rượu sau khi chịu thuế tăng
lên là 10,30 đô la thì người bán chỉ được 9,30 đô
la mỗi chai rượu. Anh ta chịu thiệt 70 xen mỗi
chai. Người mua cũng thiệt thòi bởi vì phải trả
nhiều hơn 30 xen mỗi chai- Trong trường hợp
này, cả nhà sản xuất và người tiêu dùng cùng
chia sẽ gánh nặng thuế
11.1 DẪN NHẬP(tt)
Phạm vi tác động pháp luật của một sắc thuế
cho ta biết ai là người chính thức theo quy
định pháp luật có trách nhiệm trả thuế. Trong
cả ba trường hợp nêu trên, phạm vi tác động
pháp luật là về người bán
Nhưng có nhiều quan điểm bất đồng về vấn
đề ai là người thực sự phải chịu gánh nặng
thuế. Bởi vì giá hàng hoá có thể thay đổi
phản ứng với thuế, hiểu biết về phạm vi tác
động pháp luật cơ bản không cho ta biết
được ai là người thực sự trả thuế
11.1 DẪN NHẬP(tt)
Ngược lại, phạm vi tác động kinh tế
(economic incidence) của thuế là sự thay đổi
phân phối thu nhập thực tế của cá nhân từ
các tác động của thuế.
Trọng tâm nghiên cứu trong chương này là
các yếu tố tạo ra sự khác biệt giữa phạm vi
tác động kinh tế và phạm vi tác động pháp
luật của thuế hay số lượng luân chuyển thuế
(tax shifting).
11.2 PHẠM VI TÁC ĐỘNG CỦA THUẾ - CÁC BÌNH
LUẬN TỔNG THỂ
11.2.1 Chỉ có con người có thể gánh chịu thuế
Từ quan điểm của nhà kinh tế, chỉ có con người –
các cổ đông của công ty, người lao động, chủ đất,
người tiêu dùng – là gánh chịu thuế, còn công ty
thì không
Nếu chỉ có con người mới gánh chịu thuế, vậy họ
nên được định nghĩa như thế nào cho mục tiêu
phân tích phạm vi tác động của thuế?
11.2.1 Chỉ có con người có thể gánh chịu thuế
Trọng tâm đặt ra là hệ thống thuế thay đổi phân
phối thu nhập như thế nào giữa nhà tư bản,
người lao động và chủ đất. Đây còn gọi là phân
phối chức năng của thu nhập (functional
distribution of income)
Khung phân tích này đã lỗi thời. Có thể trước
thế kỷ 19 các ông chủ không phải lao động và
người công nhân thời đó không sở hữu gì cả
11.2.1 Chỉ có con người có thể gánh chịu thuế(tt)
Nhưng hiện nay tình hình đã khác, nhiều
người có thu nhập chủ yếu từ lao động cũng
có các tài khoản tiết kiệm và các loại chứng
khoán. Tương tự như vậy, có người sở hữu
rất nhiều tài sản nhưng họ vẫn làm việc trọn
thời gian và nhận lương
Do vậy, có lẽ phù hợp hơn nếu nghiên cứu
thuế tác động lên cung cách phân phối tổng
thu nhập như thế nào. Ta còn gọi là phân
phối quy mô của thu nhập (size distribution of
income).
11.2.1 Chỉ có con người có thể gánh chịu thuế(tt)
Với thông tin về tỉ lệ thu nhập từ vốn, đất đai và
lao động, các thay đổi của phân phối chức năng
có thể chuyển thành các thay đổi của phân phối
quy mô
Ví dụ, một sắc thuế làm giảm suất sinh lời trên
vốn sẽ có xu hướng làm thiệt hại đến tầng lớp
thượng lưu bởi vì một tỉ lệ thu nhập tương đối
lớn của họ là có nguồn gốc từ vốn
11.2.2 Cần Cân Nhắc Cả Hai: Nguồn Gốc Và Sử
Dụng Thu Nhập
Trong trường hợp nếu giá của rượu tăng thì
những người uống nhiều rượu sẽ bị thiệt hại
nhiều hơn
Nếu thuế làm giảm lượng cầu của rượu, thì
thu nhập từ các yếu tố tham gia vào quá
trình sản xuất rượu cũng sẽ bị thiệt hại. Do
vậy, thuế cũng làm thay đổi phân phối thu
nhập bằng cách tác động lên nguồn tạo ra
thu nhập
11.2.2 Cần Cân Nhắc Cả Hai: Nguồn Gốc Và Sử
Dụng Thu Nhập
Giả sử người nghèo phải chi một tỉ lệ tương đối
lớn thu nhập của họ vào rượu (nếu họ uống rượu)
nhưng người giàu lại sở hữu các vườn nho dùng
để nấu rượu. Khi đó đối với phía sử dụng, thuế
phân phối lại và lấy bớt đi thu nhập của người
nghèo
Còn về phía nguồn tạo ra thu nhập (vườn nho),
thuế cũng phân phối lại cũng lấy bớt đi thu nhập
của người giàu. Phạm vi tác động của thuế phụ
thuộc vào việc cả hai phía (nguồn thu nhập và sử
dụng thu nhập) bị tác động như thế nào. Sự phân
biệt này rất quan trọng trong đánh giá các chính
11.2.3 Phạm vi tác động phụ thuộc vào việc giá
được xác định như thế nào
Chúng ta đã nhấn mạnh rằng phạm vi tác động
là vấn đề cơ bản để xác định thuế thay đổi giá cả
như thế nào. Rõ ràng, các mô hình định giá khác
nhau cho ta những đáp án khác nhau cho câu hỏi
ai là người thực sự gánh chịu thuế.
11.2.4 Phạm vi tác động phụ thuộc vào sự phân
phối số thu thuế
Phạm vi tác động ngân sách cân bằng (balanced-
budget incidence) tính đến tác động tổng hợp của
các loại thuế và các khoản chi tiêu chính phủ do
các thuế này tài trợ. Về tổng thể, tác động phân
phối của thuế phụ thuộc vào việc chính phủ chi
tiêu như thế nào
Số thu thuế thường không thể hiện theo các
khoản chi tiêu cụ thể. Mong muốn có thể rút ra
được từ câu hỏi trên là khái quát hoá chính phủ
sử dụng tiền như thế nào
11.2.4 Phạm vi tác động phụ thuộc vào sự phân
phối số thu thuế
Ý tưởng được xem xét là phạm vi tác động được
phân biệt như thế nào khi một loại thuế được
thay thế bằng loại thuế khác trong điều kiện
ngân sách chính phủ là không đổi. Ta còn gọi
đây là phạm vi tác động phân biệt của thuế
(differential tax incidence).
11.2.4 Phạm vi tác động phụ thuộc vào sự phân
phối số thu thuế(tt)
Bởi vì phạm vi tác động phân biệt xem xét những
thay đổi trong các sắc thuế, chúng ta cần có điểm
mốc để tham khảo. Giả thiết”loại thuế khác” được
dùng như cơ sở so sánh thường được giả định là
thuế tổng (lump sum tax) – là tổng số phải thu
nghĩa vụ thuế của mỗi người đối với thuế không
phụ thuộc vào hành vi của họ.
VD:thuế thu nhập 10% không phải là thuế tổng
bởi vì nó phụ thuộc vào cá nhân thu nhập được
bao nhiêu, nhưng thuế 50 đô la/người thì không
phụ thuôïc vào thu nhập và là số thu bắt buộc
11.2.4 Phạm vi tác động phụ thuộc vào sự
phân phối số thu thuế(tt)
Cuối cùng, phạm vi tác động tuyệt đối của
thuế (absolute tax incidence) xem xét các tác
động của thuế khi không có sự thay đổi đối
với các loại thuế khác hay chi tiêu chính
phủ.
Phạm vi tác động tuyệt đối của thuế là
được quan tâm nhiều nhất cho các mô hình
kinh tế vĩ mô trong đó thay đổi các mức
thuế để đạt các mục tiêu ổn định nền kinh tế
11.2.5 Tính luỹ tiến của thuế có thể được tính bằng
nhiều cách
Giả sử có nhà nghiên cứu tìm được cách tính
phần tham gia thực sự của từng người vào một
loại thuế cụ thể – đây là phạm vi tác động kinh tế
theo định nghĩa ở trên
Mục tiêu đặt ra đối với hoạt động trên là xác
định tính chất của một loại thuế: thuế theo tỉ lệ,
luỹ tiến hay luỹ thoái
Định nghĩa thuế theo tỷ lệ là một khái niệm trực
tiếp: nó miêu tả một trường hợp trong đó tỉ lệ
thuế phải trả trên thu nhập là không đổi bất kể
mức thu nhập là bao nhiêu
11.2.5 Tính luỹ tiến của thuế có thể được tính
bằng nhiều cách
Định nghiã một loại thuế là luỹ tiến hay luỹ
thoái không phải là dễ dàng, đôi khi hay
nhầm lẫn. Phương pháp đơn giản nhất là
khái niệm thuế suất trung bình (average tax
rate) là tỉ lệ thuế trả trên thu nhập.
Nếu tỉ lệ thuế trung bình tăng cùng với thu
nhập thì hệ thống thuế này là luỹ tiến, còn
nếu nó giảm thì đây là thuế luỹ thoái.
11.2.5 Tính luỹ tiến của thuế có thể được tính bằng
nhiều cách(tt)
Trong thực tế hay xảy ra nhầm lẫn bởi vì có người hiểu
về tính luỹ tiến của thuế bằng khái niệm thuế suất biên tế
(marginal tax rate) – là sự thay đổi của thuế tương ứng
với sự thay đổi thu nhập
Để minh hoạ điều này, ta xét cơ cấu thuế thu nhập đơn
giản sau: Mỗi cá nhân tính hoá đơn thuế của mình bằng
cách trừ đi 3000 đô la từ thu nhập và trả khoản thuế
20% số còn lại (nếu hiệu số trên là âm thì anh ta sẽ được
bù lại bằng 20% của hiệu số đó)
Biểu 11-1 cho thấy quy mô thuế phải trả (bao nhiêu), tỉ
lệ thuế trung bình và tỉ lệ thuế biên tế cho từng mức thu
nhập. Từ đây, chúng ta giả thiết rằng tính luỹ tiến và luỹ
thoái của hệ thống thuế được định nghĩa bằng thuế suất
trung bình
Biểu 11-1 Nghĩa vụ thuế trong hệ
thống thuế giả định
Thu nhập
Nghĩa vụ
thuế
Tỉ lệ thuế trung
bình
Tỉ lệ thuế biên
tế
2000 đô la - 200 đô la - 0,10 0,2
3000 0 0 0,2
5000 400 0,08 0,2
10 000 1400 0,14 0,2
30 000 5400 0,18 0,2
11.2.5 Tính luỹ tiến của thuế có thể được tính bằng
nhiều cách(tt)
Đánh giá một hệ thống thuế luỹ tiến như thế nào
có khi còn khó hơn cả việc xác định tính luỹ tiến
của hệ thống thuế. Có khá nhiều phương pháp
hợp lý, chúng ta chỉ xét đến hai phương pháp
đơn giản nhất:
Phương pháp thứ nhất cho rằng thuế suất trung
bình tăng càng cao khi thu nhập tăng thì hệ
thống thuế càng có tính luỹ tiến. Về mặt toán học,
nếu T0 và T1 là nghĩa vụ thuế (theo pháp luật) taiï
mức thu nhập I0 và I1 tương ứng ( I1 > I0) thì đơn
vị đo lường độ luỹ tiến v1 là:
11.2.5 Tính luỹ tiến của thuế có thể được tính bằng
nhiều cách(tt)
(11.1)
01
0
0
1
1
1
II
I
T
I
T
v
Khi tính được giá trị của T0 và T1 và thay vào biểu thức
(11.1), hệ thống thuế nào có giá trị v lớn hơn thì luỹ tiến
hơn
11.2.5 Tính luỹ tiến của thuế có thể được
tính bằng nhiều cách(tt)
Phương pháp thứ hai cho rằng một hệ thống thuế là luỹ
tiến hơn hệ thống thuế khác nếu độ co dãn của số thu
thuế tương ứng theo thu nhập (nghĩa là phần trăm thay
đổi của số thu thuế chia cho phần trăm thay đổi của
thu nhập) là cao hơn
Sau đây là biểu thức đánh giá độ luỹ tiến theo phương
pháp thứ hai v2 được định nghĩa như sau:
0
01
0
01
2
)()(
I
II
T
TT
v
(11.2)
11.3 CÁC MÔ HÌNH CÂN BẰNG TỪNG PHẦN
Với những cơ sở nêu trên, chúng ta chuyển sang vấn đề
nền tảng của chương: các loại thuế tác động lên phân
phối thu nhập như thế nào. Nhắc lại vấn đề cơ sở là
thuế thay đổi kéo theo sự thay đổi của giá
Trong phần này chúng ta sẽ phân tích các mô hình cân
bằng từng phần để xác định giá. Đây là mô hình của
các thị trường trong đó chỉ có tác động của thuế và bỏ
qua sự phân nhánh vào các thị trường khác. Phương
tiện phân tích là mô hình cung và cầu trong điều kiện
cạnh tranh hoàn hảo
11.3.1 Thuế Đơn Vị Trên Hàng Hoá
Trước hết chúng ta nghiên cứu phạm vi tác động của
thuế đơn vị (unit tax), được gọi như vậy bởi vì đây là
khoản tiền cố định trên mỗi đơn vị hàng hoá bán được.
Ví dụ, chính phủ áp một loại thuế lên rượu vang là 3,40
đô la cho mỗi lít rượu và thuế thuốc lá 0,34 đô la cho
mỗi gói
Giả sử giá và lượng rượu vang là cạnh tranh bởi lượng
cung Sc và lượng cầu Dc. Trước khi bị áp thuế, lượng
rượu yêu cầu và giá tương ứng là Q0 và P0
Giả sử có thuế đơn vị u đô la trên mỗi lít rượu được
mua. Phạm vi tác động pháp luật là người mua hàng.
Điều chủ chốt trong phân tích phạm vi tác động là nhận
thức: với sự hiện diện của thuế, giá người mua phải trả
và giá người bán nhận được là khác nhau
11.3.1 Thuế Đơn Vị Trên Hàng Hoá(tt)
Trước đây chúng ta có thể dùng phân tích cung-cầu để
xác định giá thị trường đơn. Bây giờ ta cần phát triển
phân tích và điều chỉnh cho thích nghi đối với hai loại
giá khác nhau: một cho người mua và một cho người
bán
Xác định thuế tác động lên đồ thị lượng cầu như thế
nào. Xét điểm a tuỳ ý trên đường cầu. Điểm này cho
thấy mức giá cao nhất mà người mua sẵn sàng chi trả
cho Qa là Pa
Sau khi được áp thuế u, khả năng lớn nhất mà người ta
sẵn lòng chi trả cho Qa vẫn là Pa
Khi người ta trả Pa cho mỗi lít rượu, nhà sản xuất không
nhận được trọn vẹn số tiền, họ chỉ nhận được (Pa– u) thể
hiện bằng điểm b trên hình 11.1
11.3.1 Thuế Đơn Vị Trên Hàng Hoá(tt)
Nói cách khác, sau khi áp thuế đơn vị, a không còn là
điểm trên đường cầu theo người sản xuất được nhận
nữa. Điểm b là ở trên đường cầu theo người sản xuất
được nhận bởi vì nhà sản xuất hiểu rằng nếu cung cấp
ra Qa, họ chỉ nhận được
giá (Pa – u) cho mỗi lít rượu
Việc người tiêu dùng trả bao nhiêu cho mỗi lít rượu là
không liên quan đến nhà sản xuất. Điều quan trọng có ý
nghĩa đối với nhà sản xuất là số tiền thực sự họ nhận
được trên mỗi lít rượu
Dĩ nhiên là điểm a được chọn tuỳ ý, do vậy tại mọi điểm
khác trên đường cung thì mọi việc đều diễn ra chính xác
như vậy. Ví dụ sau khi áp thuế, giá người sản xuất nhận
được cho đầu ra Qc là tại điểm n (xác định bằng cách trừ
đi khoảng u từ điểm m)
Hình 11.1: Giá và lượng hàng trước và sau thuế
u
Pc
P0
m
n
Pa
Sc
Dc
u
b
a
Qa Q0 Qc Lượng rượu bán hằng năm
Giá
trên
một lít
rượu
11.3.1 Thuế Đơn Vị Trên Hàng Hoá(tt)
Lặp lại quá trình này tại mỗi điểm trên đường cầu, ta
tạo ra được một đường cầu mới D’c cách đường cầu cũ
khoảng u đô la (hình 11.2)
Giản đồ D’c là liên quan đến người sản xuất vì nó cho
thấy họ nhận được bao nhiêu trên mỗi lít rượu bán ra.
Bây giờ chúng ta tìm lượng hàng hoá cân bằng sau khi
áp thuế. Điểm cân bằng là Q1 nơi lượng cung bằng lượng
cầu theo ngươi sản xuất nhận được. Vậy thuế đã giảm
lượng hàng bán từ Q0 thành Q1
Bước tiếp theo là tìm mức giá cân bằng mới. Như đã nêu
ở trên, ta có hai mức giá tại điểm cân bằng mới: giá
người sản xuất nhận được và giá người mua chi trả. Giá
người sản xuất nhận được là điểm giao nhau của các đồ
thị cung và cầu hiệu quả là Pn. Giá người mua phải trả là
Pn cộng u là Pg
Hình 11.2 Phạm vi tác động của thuế đơn vị
lên phía cầu
Lượng rượu bán hằng năm
Giá
trên
một
liùt
rượu
P0
u
Pg
Sc
Dc
f
Q1 Q0
k
m
nPn
D’c
g
h
Pg: giá người tiêu
dùng phải trả bởi
Po: giá gốc
Pn: giá người sản xuất
nhận đượci
11.3.1 Thuế Đơn Vị Trên Hàng Hoá(tt)
Thuế làm cho người tiêu dùng thiệt hại bởi vì giá mới Pg lớn
hơn giá ban đầu P0. Nhưng giá theo người tiêu dùng không
tăng hoàn toàn bằng lượng thuế: (Pg – P0 ) là bé hơn u
Người sản xuất cũng trả một phần thuế dưới dạng mức giá
thấp hơn so vơi ban đầu : họ chỉ nhận được Pn so vơi trươc
thuế là P0.
Do vậy, thuế làm cho cả hai: người sản xuất và người tiêu
dùng thiệt hại. Người tiêu dùng và nhà sản xuất”chia sẻ”
thuế bằng tăng giá của người tiêu dùng (Pg – P0) và giảm giá
của nhà sản xuất (P0 - Pn) là vừa đủ bù cho thuế u đô la
Theo định nghĩa, tổng nguồn thu thuế là bằng thuế suất trên
mỗi đơn vị hàng hoá nhân với lượng hàng hoá bán ra Q1. Do
đó theo đồ thị thì doanh thu thuế là diện tích hình chữ nhật
kfhn trong đó Q1 là chiều dài còn u là chiều cao
Phân tích này có hai gợi ý quan trọng:
Thứ nhất, phạm vi tác động của thuế đơn vị là không phụ
thuộc vào việc đánh thuế đối với người tiêu dùng hay
người sản xuất: giả sử loại thuế tương tự u đô la cũng
đặt lên nhà cung cấp rượu vang thay vì lên khách hàng.
Xét giá Pi bất kỳ trên đường cung ban đầu trong hình
11.3
Đường cung cho thấy đối với nhà cung cấp Qi đơn vị
hàng hoá, họ phải nhận được ít nhất Pi trên mỗi đơn vị.
Sau thuế đơn vị, nhà cung cấp vẫn nhận được Pi. Để làm
được điều này, khách hàng phải chi trả Pi + u trên mỗi
đơn vị hàng (tại điểm j trên đồ thị)
Để xác định đường cung theo người tiêu dùng nhận
được, đường Sc phải dịch chuyển lên bằng đúng số thuế
đơn vị. Đường cung mới là Sc’. Điểm cân bằng sau thuế
là tại điểm Q1’ nơi các giản đồ Sc’ và Dc cắt nhau. Giá tại
điểm Pg’ này là giá do người tiêu dùng chi trả
Hình 11.3: Phạm vi tác động của thuế đơn vị lên
phía cung
Giá
trên
một
liùt
rượu
S’c
Lượng rượu bán hằng năm
P0
u
P’g
Sc
Dc
k
P’n
Q’1 Q0 Qi
j
Pi
P’g: giá được trả bởi
người tiêu dùng
Po: giá gốc
P’n: giá được nhận
bởi người sản xuất
Phân tích này có hai gợi ý quan trọng(tt):
Để tìm giá do nhà sản xuất nhận được, ta trừ đi số thuế
u từ Pg’ cho ta Pn’. So sánh hai đồ thị 11.2 và 11.3 ta
thấy Q1’= Q1 và Pn’ = Pn. Do vậy, phạm vi tác động của
thuế đơn vị không phụ thuộc vào các bên tham gia vào
thị trường: người mua hay người sản xuất
Hai đồ thị trên chứng minh rằng: Điều quan trọng là
quy mô của sự chênh lệch giá do người mua chi trả và
người bán nhận được chứ không phải là thuế thu từ
phía nào. Sự chênh lệch do thuế gây ra giữa giá người
mua chi trả và người bán nhận được còn được gọi là
khoảng đệm thuế (tax wedge)
Phân tích này có hai gợi ý quan trọng(tt):
Thứ hai, phạm vi tác động của thuế đơn vị phụ thuộc vào
độ co dãn cung và cầu. Trong hình 11.2, người mua hàng
chịu gánh nặng chủ yếu của thuế - số tiền họ trả tăng lên
nhiều hơn số tiền giảm xuống mà người bán nhận được
Kết quả này hoàn toàn xác định bởi hình thức của các
đường cung và đường cầu. Về tổng thể, đường cầu càng
co dãn thì người mua càng chịu ít thuế. Tương tự như
vậy, đường cung càng co dãn thì người bán càng chịu ít
thuế với các điều kiện khác không thay đổi
Hình 11.4 và 11.5 thể hiện hai trường hợp đặc biệt.
Trong hình 11.4, hàng hoá được cung cấp với độ co dãn
không hoàn toàn. Khi áp thuế đơn vị, đường cầu hiệu
quả trở thành Dx’.
Phân tích này có hai gợi ý quan trọng(tt):
Giá người sản xuất nhận được Pn là giao điểm của Sx và
D’x. Chú ý Pn nhỏ hơn P0 đúng bằng khoảng u. Do đó,
người sản xuất nhận được giá giảm đúng bằng lượng
thuế. Lúc này giá của người tiêu dùng Pg (= Pn + u) vẫn
bằng P0.
Khi lượng cung không co dãn thì người sản xuất chịu
hoàn toàn gánh nặng thuế. Hình 11.5 thể hiện tình
huống hoàn toàn ngược lại. Lượng cung của hàng hoá Z
là co dãn hoàn toàn. Khi phải chịu thuế đơn vị thì dẫn
đến đường cầu Dz’
Tại điểm cân bằng mới, lượng cầu là Z1 và giá người sản
xuất nhận được Pn vẫn còn là P0. Gía của người tiêu
dùng chi trả Pg do đó bằng P0+u. Trong trường hợp này,
khách hàng chịu hoàn toàn gánh nặng thuế
Hình 11.4: Tác động của thuế khi lượng cung là
không co dãn hoàn toàn
Giá nhà cung cấp nhận được
giảm bằng số tiền thuế
Pg = P0
Dx
D’x
u
Pn
X hằng năm
Giá trên
một đơn vị
X Sx
Hình 11.5 Tác động của thuế khi lượng cung là co
dãn hoàn toàn
Giá trên một
đơn vị Z
Giá người tiêu dùng chi
trả tăng bằng số tiền
thuế
Pn = P0
Dz
D’Z
u
Pg
Z hằng năm
SZ
Z1 Z0
11.3.2 Thuế Tỷ Lệ
Bây giờ chúng ta chuyển sang phạm vi tác động của thuế
tỷ lệ (Ad Valorem Tax) là loại thuế trong đó thuế suất là
một tỷ lệ của giá bán.
Phân tích thuế tỷ lệ cũng tương tự như thuế đơn vị. Tuy
nhiên, thay vì dịch chuyển đồ thị xuống một khoảng
tuyệt đối cho mỗi số lượng, thuế tỷ lệ sẽ giảm nó xuống
theo cùng một tỷ lệ
Để thấy được điều này, xét đường cầu Df và đường cung
Sf thực phẩm trong hình 11.6
Khi không có thuế, giá cân bằng và lượng hàng tương
ứng là P0 và Q0. Bây giờ giả sử đánh thuế 25 phần trăm
tổng giá đối với tiêu dùng thực phẩm. Xét điểm m trên
Df. Sau khi áp thuế, Pm vẫn là mức giá cao nhất người
mua trả cho lượng Qm thực phẩm
11.3.2 Thuế Tỷ Lệ(tt)
Người sản xuất sẽ nhận được 75% khoảng cách giữa m
và trục hoành. Điểm n thể hiện trên đồ thị là một điểm
trên đường cầu nhà sản xuất nhận được. Tương tự, giá
tại điểm r dịch chuyển từ trên xuống một phần tư
khoảng cách giữa điểm s và trục hoành.
Lặp lại quy trình này trên mỗi điểm của đường Df, ta có
đường cầu hiệu quả cho người sản xuất là Df’ (hình 11.7)