CHƯƠNG 4 HÀNG HOÁ CÔNG
Khu vực kinh tế công cộng sẽ cung cấp những hàng hoá và dịch vụ nào?
Những dịch vụ nào hiện nay đang được chính phủ cung cấp có cần được tư nhân hoá hay không?
Đáp ứng các câu hỏi trên, chương này gồm có các nội dung cơ bản sau đây:
34 trang |
Chia sẻ: thanhtuan.68 | Lượt xem: 2367 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Tài chính công - Chương 4 Hàng hoá công, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 4
HÀNG HOÁ CÔNG
Khu vực kinh tế công cộng sẽ cung cấp những
hàng hoá và dịch vụ nào?
Những dịch vụ nào hiện nay đang được chính
phủ cung cấp có cần được tư nhân hoá hay
không?
Đáp ứng các câu hỏi trên, chương này gồm có các
nội dung cơ bản sau đây:
CHƯƠNG 4
HÀNG HOÁ CÔNG (tt)
1- Định nghĩa hàng hoá công;
2- Vấn đề cung cấp hiệu quả hàng hoá công;
3- Các tranh luận về tư nhân hóa;
4- Giáo dục;
5- Hàng hoá công và lựa chọn của công chúng
6- Câu hỏi thảo luận & bài tập
4.1 ĐỊNH NGHĨA HÀNG HOÁ CÔNG
Điểm khác biệt giữa quốc phòng và chiếc bánh
nướng là gì?
Điểm khác biệt lớn nhất giữa hai lọai hàng hoá
nói trên là hai người không thể cùng ăn một
miếng bánh nướng ngay cùng một lúc, - nếu tôi
ăn thì bạn không được ăn
Ngược lại, việc hưởng thụ dịch vụ quốc phòng do
quân đội cung cấp của bạn không hề ảnh hưởng
gì đến sự tiêu thụ cùng dịch vụ này của tôi
4.1 ĐỊNH NGHĨA HÀNG HOÁ CÔNG(tt)
Quốc phòng là một ví dụ của hàng hoá công thuần tuý,
được định nghĩa như sau:
Khi hàng hoá công thuần tuý được cung cấp, chi phí
nguồn lực bổ sung của người khác để được hưởng hanøg
hoá này là bằng không – sự tiêu thụ là không cạnh tranh.
Ngăn cản người khác sử dụng hàng hoá này là rất tốn
kém hay hoàn toàn không thực hiện được. – sự tiêu thụ
là không loại trừ.
Ngược lại hàng hoá tư nhân như cái bánh nướng nói
trên là cạnh tranh và loại trừ được.
4.1 ĐỊNH NGHĨA HÀNG HOÁ CÔNG(tt)
Sự phân loại hàng hoá công là không mang tính
tuyệt đối, nó phụ thuộc vào các điều kiện thị
trường và tình trạng công nghệ
Trong nhiều trường hợp, ta có thể xét đến”tính
công cộng” của hàng hoá theo từng mức độ.
Hàng hoá công thuần tuý thoả mãn chính xác
định nghĩa
Sự tiêu thụ của hàng hoá công không thuần tuý là
có sự mở rộng của tính cạnh tranh và tính loại
trừ. Trong thực tế có không nhiều ví dụ của hàng
hoá công thuần tuý
4.1 ĐỊNH NGHĨA HÀNG HOÁ CÔNG(tt)
Liên quan chặt chẽ với quan điểm trên, một hàng
hoá có thể thoả mãn một phần định nghĩa hàng
hoá công. Nghĩa là, tính không loại trừ và tính
cạnh tranh không nhất thiết phải đi cùng với
nhau
Có nhiều thứ không được quy ước như hàng hoá
nhưng lại có tính chất của hàng hoá công. Một ví
dụ cụ thể là tính trung thực. Nếu mọi người đều
trung thực trong giao dịch buôn bán thì tất cả xã
hội sẽ hưởng được lợi ích do giảm chi phí giao
dịch
4.1 ĐỊNH NGHĨA HÀNG HOÁ CÔNG(tt)
Hàng hoá tư nhân không nhất thiết chỉ dành riêng cho
khu vực tư nhân cung cấp
Có nhiều loại hàng hoá tư nhân được cung cấp công
cộng – các hàng hoá có tính tiêu thụ cạnh tranh và có
tính loại trừ được chính phủ cung cấp. Các dịch vụ y tế
và nhà cửa là hai ví dụ của hàng hoá tư đôi khi do chính
phủ cung cấp
Cung cấp công một loại hàng hoá không nhất thiết có
nghĩa là nó được tạo ra từ khu vực công. Xét dịch vụ thu
gom rác, một vài cộng đồng tự thực hiện dịch vụ này –
các nhà quản lý khu vực kinh tế công mua xe thu gom
rác, thuê nhân công và tổ chức lịch trình làm việc
4.2 CUNG CẤP HIỆU QUẢ HÀNG HOÁ CÔNG
Giả sử rằng cộng đồng xã hội chỉ bao gồm hai
người, Adam và Eva. Có hai loại hàng hoá tư
nhân, đó là táo và lá nho. Trong hình 4.1A, số
lượng lá nho (f) được tính trên trục hoành, và giá
của mỗi lá nho (Pf) là theo trục tung
Đường cầu của Adam đối với lá nho -Df
A cho
thấy số lượng lá nho mà Adam sẵn sàng tiêu
dùng tương ứng với các mức giá, giả sử các điều
kiện khác là không đổi. Tương tự, Df
E trong hình
4.1B là đường cầu của Eva đối với lá nho
Hình 4.1: Tổng theo chiều ngang của các
đường cầu
1
Pf
DfA
f lá nho mỗi năm
5
2
Pf
DfE
f laù nho moãi
naêm
5
3
Pf
DfA+E
f laù nho moãi
naêm
5
A B C
Hình 4.2: Phân phối hiệu quả của một hàng
hoá tư nhân
1
Pf
DfA
f lá nho mỗi năm
5
2
Pf
DfE
f laù nho moãi
naêm
5
3
Pf
DfA+E
f lá nho mỗi nă
5
1,5 3 4 1/2
4
4
4
Sf
CBA
ĐƯỜNG CẦU THỊ TRƯỜNG ĐỐI VỚI LÁ NHO
Trong 4.1A. tại mức giá 5 đô la, lượng cầu của Adam là
một lá nho.
Trong 4.1B, với cùng một mức giá, lượng cầu của Eva
là hai lá nho. Tổng lượng cầu tại mức giá 5 đô la sẽ là
ba lá nho.
Đường cầu thị trường đối với lá nho là Df
A+E trên hình
4.1C
Tại mức giá 5 đô la, ta có số lượng 3 lá nho trên đường
cầu thị trường. Tương tự, xác định lượng cầu thị
trường tại bất kỳ mức giá cho trước nào là cộng lại các
khoảng cách theo trục hoành.
Quá trình này còn được gọi là phép tính tổng theo
chiều ngang
ĐIỀU KIỆN CẦN CHO HIỆU QUẢ PARETO
Hình 4.2 thể hiện lại thông tin từ hình 4.1.
Hình 4.2C thể hiện đường cung thị trường Sf giao
nhau với đường cầu thị trường Df
A+E. Cân bằng
trên thị trường xác định tại điểm cung và cầu
bằng nhau tại mức giá $4 trên hình 4.2C. Tại
mức giá này, Adam dùng một lá nho rưỡi và Eva
dùng ba lá nho
Bởi vì có sở thích khác nhau, thu nhập và các
tính chất khác, Adam và Eva đòi hỏi số lượng lá
nho khác nhau. Điều này là có thể bởi vì lá nho là
hàng hoá tư
ĐIỀU KIỆN CẦN CHO HIỆU QUẢ PARETO (tt)
Cân bằng trong hình 4.2C có một đặc tính quan trọng:
phân phối của lá nho là hiệu quả Pareto. Theo lý thuyết
người tiêu dùng, một cá nhân tối đa hoá giá trị hữu
dụng đăït tỷ lệ thay thế biên tế của lá nho bởi táo
(MRSfa) là bằng giá của lá nho (Pf) chia cho giá táo (Pa):
MRSfa = Pf /Pa
Tại điểm cân bằng trong hình 4.2C, cả hai Adam và Eva
cùng đặt MRSfa bằng 4, và người sản xuất cũng đặt
MRTfa=4. Do đó, tại cân bằng:
MRSfa
Adam = MRSfa
Eva= MRTfa (4.1)
Biểu thức (4.1) là điều kiện cần cho hiệu quả Pareto từ
chương 3. Khi thị trường là cạnh tranh và hoạt động tốt,
Định lý Phúc lợi Thứ nhất (The First Welfare Theorem)
đảm bảo rằng điều kiện này được thực hiện
4.2.1 MANG LẠI SỰ ĐÓNG GÓP HIỆU QUẢ
Giả sử cả Adam và Eva cùng thích xem biểu diễn
pháo hoa. Sự thưởng thức pháo hoa của Eva
không làm giảm sự thưởng thức của Ađam và
ngược lại. Và cũng không thể loại trừ bất cứ
người nào ra khỏi việc xem trình diễn pháo hoa.
Do vậy, buổi trình diễn pháo hoa là hàng hoá
công
Quy mô kích thước của pháo hoa cũng có thể
khác nhau, và cả hai Adam và Eva đều thích các
buổi trình diễn lớn hơn là các buổi trình diễn
nhỏ, với các điều kiện khác không thay đổi
4.2.1 MANG LẠI SỰ ĐÓNG GÓP HIỆU QUẢ(tt)
Giả sử rằng buổi trình diễn bao gồm 19 quả pháo và có
thể kéo dài ra với chi phí 5 đô la mỗi quả pháo. Adam
sẵn sàng trả 6 đô la để kéo dài buổi biểu diễn bằng quả
pháo khác còn Eva chỉ sẵn sàng trả 4 đô la. Vậy có hiệu
quả không nếu kéo dài buổi trình diễn ra với thêm một
quả pháo?
Như thường lệ, chúng ta so sánh lợi ích biên tế với chi
phí biên tế. Để tính lợi ích biên tế, chú ý rằng bởi vì sự
tiêu dùng của buổi biểu diễn là không cạnh tranh, quả
pháo hoa thứ 20 có thể được sử dụng bởi cả hai Adam
và Eva. Do đó, lợi ích biên tế của quả pháo thứ hai mươi
là tổng của những gì họ sẵn sàng chi trả là 10 đô la
(=4+6).
4.2.1 MANG LẠI SỰ ĐÓNG GÓP HIỆU QUẢ(tt)
Bởi vì chi phí biên tế chỉ là 5 đô la để mua được quả
pháo hoa thứ hai mươi, cho nên nếu tổng thiện ý chi trả
của mọi người cho mỗi đơn vị hàng hoá công tăng thêm
vượt quá chi phí biên tế, thì tính hiệu quả đòi hỏi rằng
nên mua thêm đơn vị hàng hoá này; trường hợp ngược
lại thì không nên mua
Do vậy, tính hiệu quả đòi hỏi rằng sự cung cấp hàng hoá
công được mở rộng cho đến khi đạt đến mức mà tại đó
tổng giá trị biên tế trên đơn vị hàng hoá cuối cùng của
mỗi người là bằng chi phí biên tế
Pr
DrA
A
r mỗi năm
Pr
r mỗi năm
20
6
Pr
20
4
DrE
r mỗi năm
DrA+E
20
10
Hình 4.3: Tổng theo chiều
dọc của các đường cầu
Pr
DrA
A
r mỗi năm
Pr
r mỗi năm
20
6
Pr
20
4
DrE
r mỗi năm
DrA+E
20
10
Hình 4.4: Cung cấp hiệu quả
hàng hoá công
B
C
B
C
Sr
45
45
45
4
2
6
4.2.1 MANG LẠI SỰ ĐÓNG GÓP HIỆU QUẢ(tt)
Để tìm tổng thiện chí sẵn sàng chi trả của nhóm cho
pháo hoa, ta cộng những mức giá mà mỗi người sẵn
sàng chi trả cho số lượng hàng cho trước
Đường cầu trong hình 4.3A cho ta thấy Adam sẵn sàng
chi trả 6 đô la mỗi quả với 20 quả pháo. Eva sẵn sàng
chi trả 4 đô la mỗi quả pháo khi chị ta tiêu dùng 20 quả
pháo. Tổng thiện chí sẵn sàng chi trả của nhóm cho 20
quả pháo là 10 đô la mỗi quả pháo
Do vậy, nếu ta xác định Dr
A+E trong hình 4.3C là tổng
thiện chí sẵn sàng chi trả của nhóm, khoảng cách thẳng
đứng theo trục tung giữa Dr
A+E và điểm r=20 phải bằng
10
4.2.1 MANG LẠI SỰ ĐÓNG GÓP HIỆU QUẢ(tt)
Các điểm khác trên Dr
A+E được xác định bằng
cách lặp lại quy trình này đối với mỗi mức sản
xuất đầu ra
Đối với hàng hoá công, tổng thiện chí sẵn sàng
chi trả được xác định bằng cộng tổng theo chiều
dọc của các đường cầu của các cá nhân
Một lần nữa, các mức giá có thể được giải thích
dưới dạng tỷ lệ thay thế biên tế
4.2.1 MANG LẠI SỰ ĐÓNG GÓP HIỆU QUẢ(tt)
Cũng lập luận như trên, thiện chí chi trả biên tế
cho mỗi quả pháo của Adam là tỷ lệ thay thế
biên tế (MRSra
Adam). Và thiện chí chi trả biên tế
cho mỗi quả pháo của Eva là tỷ lệ thay thế biên
tế (MRSra
Eva)
Do đó, tổng mức giá mà hai người sẵn sàng chi
trả là MRSra
Adam +MRSra
Eva. Trên quan điểm
người sản xuất, giá vẫn thể hiện tỷ lệ chuyển đổi
biên tế MRTra. Do đó cân bằng trong hình 4.4C
được xác định theo điều kiện sau:
MRSra
Adam +MRSra
Eva = MRTra (4.2)
4.2.1 MANG LẠI SỰ ĐÓNG GÓP HIỆU QUẢ(tt)
Động lực làm cho người khác chi trả trong khi bạn
hưởng thụ được lợi ích còn gọi là vấn đề người đi xe
miễn phí
Chúng ta có giải pháp nào khác không?
Giả sử ta có hai điều kiện sau:
(1) nhà doanh nghiệp biết được đường cầu của mỗi
người đối với hàng hoá công;
(2) rất khó hay không thể chuyển nhượng hàng hoá này
từ một người sang người khác.
Trong hai điều kiện này, nhà doanh nghiệp có thể thu
tiền vé đối với mỗi người theo từng mức giá riêng dựa
trên khả năng sẵn sàng chi trả của người đó, quy trình
này còn được biết đến như là giá phân biệt hoàn hảo
4.2.2 VẤN ĐỀ NGƯỜI ĐI XE MIỄN PHÍ
Một số người cho rằng vấn đề người đi xe miễn phí nhất
thiết dẫn đến mức không hiệu quả của hàng hoá công;
do đó, tính hiệu quả đòi hỏi sự phân phối của chính phủ
đối với các loại hàng hoá công này
Người ta lập luận rằng chính phủ có thể bằng cách nào
đó xác định được sở thích thực của mọi người, sau đó sử
dụng sức mạnh ép buộc mọi người chi trả cho hàng hoá
công. Nếu có thể thực hiện được điều này thì chính phủ
có thể loại trừ được vấn đề người đi xe miễn phí và bảo
đảm cung cấp hiệu quả hàng hoá công.
4.3 CÁC TRANH LUẬN VỀ TƯ NHÂN HOÁ
Các nước trên thế giới đang tranh cãi về bản chất
quá trình tư nhân hoá các chức năng của chính
phủ.
Tư nhân hoá có nghĩa là nắm lấy các dịch vụ và
hàng hoá do nhà nước cung cấp trước đây và
chuyển sang khu vực tư nhân để phân phối hay
sản xuất.
4.3.1 CUNG CẤP CÔNG CỘNG HAY CUNG CẤP
TƯ NHÂN CÁC DỊCH VỤ
Đôi khi các dịch vụ phân phối công cộng lại cung
cấp các hàng hoá mà có thể có được từ khu vực
tư nhân
Ví dụ, loại hàng hoá”bảo vệ” có thể có được một
cách công cộng do lực lượng cảnh sát cung cấp
Mở rộng ra, sự bảo vệ còn có thể đạt được bằng
cách mua các khoá cửa tốt, hệ thống báo động
hay thuê vệ sĩ riêng, tất cả đều được cung cấp từ
khu vực tư nhân.
4.3.2 SẢN XUẤT CÔNG CỘNG ĐỐI NGHỊCH
VỚI SẢN XUẤT TƯ NHÂN
Người ta có thể đồng ý rằng một số loại hàng hoá
dịch vụ nhất định nên được khu vực công cộng
cung cấp nhưng vẫn không thống nhất về việc
chúng nên được sản xuất trong khu vực công
cộng hay khu vực tư nhân
4.4 GIÁO DỤC
Giáo dục là một trong những điều khoản quan trọng
nhất trong ngân sách chính phủ.
Khung phân tích của kinh tế học phúc lợi yêu cầu chúng
ta phải bắt đầu bằng câu hỏi cơ bản sau:
Tại sao chính phủ tham gia tích cực vào sự nghiệp giáo
dục chứ không để cho thị trường cung cấp?
Như ta đã thấy trong chương này, thị trường không
cung cấp một cách hiệu quả hàng hoá nếu hàng hoá là
hàng hoá công, chúng làm tăng ngoại tác hay chúng
được cung cấp một cách độc quyền.
4.4 GIÁO DỤC (tt)
Giáo dục trước tiên là hàng hoá tư, làm tăng phúc lợi
của sinh viên bằng cách tăng khả năng tạo ra thu nhập
của họ (tăng kỹ năng làm việc) hay tổng thể hơn là tăng
khả năng quan hệ với cuộc sống
Nếu giáo dục đáp ứng được các yêu cầu của một hàng
hoá công, chính phủ có thể phải trợ giá cho giáo dục
Chúng ta đi xa hơn, vượt ra ngoài phạm vi của trợ cấp
khi chính phủ thực hiện giáo dục phổ thông cơ sở (tiểu
học và trung học) miễn phí và phổ cập (bắt buộc)
Hệ thống này, cũng tương tự như ở nhiều nước khác
trên thế giới, không thể lý giải hợp lý chỉ trên mặt bằng
tính hiệu quả.
4.4 GIÁO DỤC (tt)
Hơn thế, có điều gì đặc biệt làm cho chính phủ
không những cung cấp giáo dục mà còn tạo ra
giáo dục nữa?
Lý thuyết xây dựng nhà nước cho rằng giáo dục
công cộng tạo ra vốn con người đồng thời khắc
sâu ghi nhớ niềm tin vào hệ thống chính trị hiện
hành
4.4.1 Chi phí cho giáo dục công được thực
hiện như thế nào?
Một trong những vấn đề chủ đạo trong các cuộc tranh
luận về giáo dục công là chi phí cho nó có cao hay
không.
Các tranh luận này buộc chúng ta phải đối diện trước
câu hỏi:
Vậy chi phí cao hơn có cho ta nền giáo dục tốt hơn hay
không?
Ở Mỹ các kế hoạch nâng cao chất lượng trường công
bằng cách gia tăng đáng kể giới hạn lựa chọn thông qua
một hệ thống hoá đơn trợ cấp (voucher system). Phương
pháp tiếp cận cơ bản là cung cấp các hỗ trợ tài chính
trực tiếp cho sinh viên chứ không cho các trường học
4.5 HÀNG HOÁ CÔNG VÀ LỰA CHỌN
CỦA CÔNG CHÚNG
Việc sử dụng từ”công cộng” để miêu tả một số loại hàng hoá
không cạnh tranh và không loại trừ dường như đã vội vàng
phê phán vấn đề liệu chúng có phải được cung cấp qua khu
vực công cộng hay không
Thật sự như vậy, chúng ta đã chỉ ra rằng các thị trường tư
nhân thường không tạo ra hàng hoá công thuần tuý theo số
lượng hiệu quả Paretto
Bàn luận của chúng ta về giáo dục cho thấy rằng giáo dục
không giống hàng hoá công thuần tuý như quốc phòng mà
nó đôi khi được thay thế bổ sung từ khu vực tư nhân
Nhưng quyết định của cộng đồng cũng cần thiết trong các
trường hợp này. Do vậy, đối tượng của hàng hoá công và lựa
chọn công chúng là hoàn toàn liên hệ chặt chẽ với nhau
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1.Bạn hãy phân loại các hàng hoá dịch vụ sau đây:
hàng hoá công? Hàng hoá tư? Tại sao?
a. Các vùng đất hoang
b. Các nhà tù
c. Giáo dục của trường Y
d. Các chương trình TV công cộng
e. Internet web site cung cấp thông tin về lịch hoạt
động của hãng hàng không
CÂU HỎI THẢO LUẬN(tt)
2. Tarzan và Jane sống một mình trong rừng rậm và đã
huấn luyện được chú khỉ Cheetah canh gác trang trại,
thu hoạch trái cây. Cheetah có thể thu được 3 kg trái
cây trong một giờ. Hiện tại chú dành 6 giờ để canh gác,
8 giờ để haí trái cây, và 10 giờ để ngủ.
a. Cái gì là hàng hoá công và hàng hoá tư trong ví dụ
này
b. Nếu mỗi người Tarzan và Jane sẵn sàng từ bỏ một
giờ canh gác cho 2kg trái cây, phân phối thời gian của
Cheetah có phải là Paretto hiệu quả không? Cheetah có
nên canh gác nhiều hơn hay ít hơn?
CÂU HỎI THẢO LUẬN(tt)
3. Tại Tây Ban Nha các công ty tư nhân đã xây dựng đường vành
đai xung quanh thủ đô Madrid. Các công ty kiếm tiền bằng cách
thu phí. Vậy đường cao tốc này có phải là hàng hoá công hay
không? Phân phối tư nhân đường cao tốc có phải là một ý tưởng
hợp lý hay không?
4. Năm 1997, Bang Texas đã mời thầu từ các công ty tư nhân để
quản lý hệ thống phúc lợi xã hội của bang. Chính quyền Clinton
đã yêu cầu Bang Texas tạm ngưng tiến trình này và cho rằng
phúc lợi xã hội phải do những quan chức nhà nước quản lý. Vậy
phúc lợi xã hội có phải là hàng hoá công hay không?
Nó có nên được tạo ra qua khu vực công cộng hay qua tư nhân?
Liên hệ câu trả lời của bạn với vấn đề đây có phải là trường hợp
các”hợp đồng tương đối hoàn chỉnh” cần được ký kết với các
công ty khu vực tư nhân hay không?
CÂU HỎI THẢO LUẬN(tt)
5. Thelma và Luis là hai người hàng xóm với nhau. Vào
mùa đông, máy dọn tuyết không thể dọn sạch mặt
đường trước nhà Thelma nếu không dọn sạch trước nhà
Luis
Lợi ích biên tế của Thelma từ dịch vụ dọn tuyết là 12 –
Z, trong đó Z số lần đường phố được dọn tuyết. Lợi ích
biên tế của Luis là 8 – 2Z. Chi phí biên tế dọn tuyết là 16
đô la.
Vẽ hai đồ thị lợi ích biên tế và đồ thị tổng lợi ích biên tế.
Vẽ đồ thị chi phí biên tế và tìm mức phân bố hiệu quả
của dịch vụ dọn tuyết