Khi thếgiới chuyển từtrạng thái dưcầu đến trạng thái dưcung, thì các lựa chọn marketing 
chiến lược cũng phải thay đổi. Các quan điểm của những năm 1980, mà tiêu biểu là Porter, 
cho rằng các đặc tính và động lực ngành là căn bản cho marketing thành công và hiệu suất 
kinh doanh, trong khi đến những năm 1990, các tác giảnhưPrahalad và Hamel lại tập trung 
vào khảnăng của tổchức khai thác các năng lực cốt lõi
١
. Điều này dẫn đến việc tập trung hơn 
vào các tài sản vô hình nhưthương hiệu, kiến thức, kỹnăng, các năng lực của nhân viên và 
kiến thức quản trị. Điểm bắt đầu của thảo luận vềgia tăng giá trịthông qua sửdụng các tài sản 
hữu hình và vô hình là xem xét lại ba cách tiếp cận marketing quen thuộc Hooley và các cộng 
sựnhận diện
٢
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 29 trang
29 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1930 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Tăng giá trị thông qua tài sản hữu hình và vô hình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 8 
TĂNG GIÁ TRỊ 
THÔNG QUA CÁC TÀI SẢN HỮU HÌNH VÀ VÔ HÌNH 
CÁCH TIẾP CẬN MARKETING VÀ QUAN ĐIỂM DỰA TRÊN NGUỒN LỰC 
Khi thế giới chuyển từ trạng thái dư cầu đến trạng thái dư cung, thì các lựa chọn marketing 
chiến lược cũng phải thay đổi. Các quan điểm của những năm 1980, mà tiêu biểu là Porter, 
cho rằng các đặc tính và động lực ngành là căn bản cho marketing thành công và hiệu suất 
kinh doanh, trong khi đến những năm 1990, các tác giả như Prahalad và Hamel lại tập trung 
vào khả năng của tổ chức khai thác các năng lực cốt lõi١. Điều này dẫn đến việc tập trung hơn 
vào các tài sản vô hình như thương hiệu, kiến thức, kỹ năng, các năng lực của nhân viên và 
kiến thức quản trị. Điểm bắt đầu của thảo luận về gia tăng giá trị thông qua sử dụng các tài sản 
hữu hình và vô hình là xem xét lại ba cách tiếp cận marketing quen thuộc Hooley và các cộng 
sự nhận diện٢ 
Các cách tiếp cận marketing 
− Marketing đẩy sản phẩm: điển hình là các tổ chức tập trung vào việc thuyết phục khách 
hàng mua sản phẩm, dịch vụ họ có thể sản xuất, cung cấp và cải thiện một cách dễ dàng, 
phần lớn sử dụng các kiến thức và nguồn lực sẵn có của họ. Điểm yếu của cách tiếp cận 
marketing này là việc thỏa mãn yêu cầu khách hàng ngày càng tăng lại được xem là thứ 
yếu và tập trung vào những gì mà tổ chức có khả năng cung cấp. 
− Marketing được dẫn dắt bởi khách hàng: điển hình là các tổ chức muốn làm mọi thứ họ 
có thể để thỏa mãn nhu cầu khách hàng. Một số tổ chức đã thực hiện điều này đến mức 
cực đoan và đáp ứng nhu cầu khách hàng bất kể chi phí. 
− Marketing dựa trên nguồn lực: được xem là một chiến lược cân bằng giữa đáp ứng yêu 
cầu thị trường và khai thác các khả năng của tổ chức để phục vụ thị trường. Marketing dựa 
trên nguồn lực tính đến tình thế cạnh tranh, phạm vi đầy đủ của các tài sản, kỹ năng và 
năng lực tổ chức và nhằm khai thác vai trò của tổ chức trong chuỗi cung cấp. Hình 8.1 
١ Prahalad, C.K. and Hamel, G. (1990) ‘The core competence of the corporation’, Harvard Business Review 
68(3). 
٢ Hooley, G.J., Saunders, J.A. and Piercy, N.F. (1998) Marketing Strategy and Competitive Positioning, 2nd edn, 
Harlow: Prentice Hall. 
Khi xem xét các cách thức tiếp cận marketing khác nhau, cần kể đến cách tiếp cận khác là 
marketing có tính doanh nhân, và khái niệm mới về marketing mạng lưới liên quan đến hiệp 
tác cao hơn với các tổ chức bên ngoài 
− Marketing có tính doanh nhân: có khuynh hướng tập trung vào cơ hội hay độ lệch thị 
trường, bất kể có hay không các tài sản để làm điều này. Marketing có tính doanh nhân 
mang dạng thức của một hoạt động kinh doanh mới hay bước thay đổi mang tính cải tiến 
trong phạm vi một doanh nghiệp hiện tại. Mặc dù có những quan điểm khác nhau về cách 
thức quản trị cải tiến công ty, nhiều tổ chức lớn hướng đến quản trị đa dạng hóa thông qua 
việc thiết lập các dự án kinh doanh mang tính doanh nhân riêng biệt, hơn là đặt chúng trong 
cấu trúc tổ chức hiện tại. 
Hình 8-1. Các tài sản vô hình và lý thuyết dụa trên nguồn lực 
Giá trị cho cổ đông 
Các lợi thế gây khác biệt
ổ
Các quan hệ khách hàng 
Quản trị chuỗi cung cấp 
Phát triển sản phẩm 
Các khả năng cốt lõi 
Các tài sản 
hữu hình 
Công nghệ 
Các tài sản 
chiến lược
Các tài sản 
danh tiếng
Nguồn 
nhân lực 
Văn hóa 
và tổ chức 
Các nguồn lực 
Lợi thế 
cạnh tranh 
Tính hấp dẫn 
thị trường 
− Marketing mạng lưới: tức là hướng đến khai thác giá trị thông qua việc tham gia vào 
một mạng lưới giá trị. Cách tiếp cận này đang dần trở nên quan trọng khi các tổ chức 
không còn hy vọng có không gian thích hợp để tăng trưởng, họ buộc phải sử dụng các liên 
kết thông qua các liên minh, các quan hệ đối tác, và tham dự một cách hợp lý vào trong các 
tổ chức để khai thác các cơ hội mà không thể thực hiện bằng các tài sản sở hữu một cách 
trực tiếp. Lý do căn bản của marketing mạng lưới, đó là, mỗi tổ chức có thể tăng thu nhập 
cho mình không nhất thiết phải tăng thị phần, hay doanh số thông qua phát triển thị trường, 
mà bằng cách chia sẻ một phần thu nhập tiềm tàng tăng lên nhờ mạng lưới của các tổ chức 
Ba cách tiếp cận marketing đầu thường được quan niệm như một chuỗi liên tục với các thái 
cực marketing đẩy sản phẩm và marketing được dẫn dắt bởi khách hàng. Và marketing dựa 
trên nguồn lực là cách tiếp cận nằm ở giữa. Tuy nhiên, trên thực tế hầu hết các tổ chức không 
thể đặt chiến lược của họ trên cơ sở của một quan điểm marketing để rồi loại trừ các quan 
điểm khác. Hầu hết, các tổ chức hướng đến dẫn dắt bởi khách hàng, bất kể chi phí. Cũng hầu 
hết các tổ chức hướng đến cực đại hóa thu nhập từ các sản phẩm hiện tại và địa điểm thích 
hợp, tối ưu hóa sử dụng các nhà xưởng máy móc thiết bị. Có lẽ, cũng hầu hết các tổ chức với 
mức độ thành công khác nhau đang cố gắng trở nên mang tính doanh nhân hơn và có cơ hội 
được tập trung, nó đang bắt đầu có cách tiếp cận dựa trên nguồn lực bằng việc đánh giá tổng 
thể hơn các nguồn lực của họ và khái thác các cơ hội làm tăng giá trị lớn nhất. Các tổ chức 
phải quyết định phương án nào là đúng trong bối cảnh đặc biệt tại thời điểm đặc biệt. Ví dụ, 
các doanh nghiệp người Trung Hoa thường được quản trị chặt chẽ, sở hữu gia đình và cha 
truyền con nối. Nhiều doanh nghiệp tập trung vào chế tạo các bộ phận và sản phẩm chất lượng 
cao với mức giá thấp trong các thị trường tương đối ổn định và do đó đẩy sản phẩm dường 
như lại là chiến lược thích hợp nhất. Các doanh nhân phương Tây không hưởng lợi về các hoạt 
động và lao động chi phí thấp, thay vì phải tập trung vào các cơ hội thị trường, thường khai 
thác các sản phẩm và dịch vụ từ các nhà cung cấp chi phí thấp để cung cấp các cơ hội này 
thông qua những người thứ ba. Những người cung cấp hàng hóa thông thường không có khác 
biệt có ít lựa chọn nhưng cố gắng để ngày càng trở thành được dẫn dắt bởi khách hàng. Các 
đơn vị kinh doanh trong các lĩnh vực công nghệ và chăm sóc sức khỏe phải có một cách tiếp 
cận marketing dựa trên nguồn lực. 
Các cách tiếp cận marketing này là các thái cực và là những bức ảnh chụp nhanh về đơn vị 
kinh doanh vào thời điểm cụ thế. Thay vì tư duy về cách tiếp cận marketing nào là lý tưởng, 
các tổ chức nên tư duy về các tiếp cận nào là thích hợp để sinh ngân quỹ và lợi nhuận hôm 
nay, ngày mai, và trong tương lai. Các sự kiện quá khứ và các tài sản truyền thống có thể đóng 
góp vào giá trị tương lai nhưng có một nhu cầu về sự cân đối. Có thể có một sức ép mạnh mẽ 
từ các nhà quản trị dựa vào các đóng góp giá trị trong từ quá khứ và các phương pháp, các sản 
phẩm đã được kiểm nghiệm và tin cậy. Các nhà quản trị khác, say sưa chuẩn bị mục đích của 
họ, thường muốn vứt bỏ mọi thứ trong quá khứ mà họ xem là ít có giá trị trong các thị trường 
tương lai. 
TẠO GIÁ TRỊ TĂNG THÊM NHỜ TĂNG TRƯỞNG 
Điểm xuất phát là xem xét tăng trưởng, các mục tiêu sinh lợi tương lai và các khát vọng của 
công ty. Chúng sẽ tùy thuộc vào bối cảnh của tổ chức và tham vọng của các nhà quản trị cũng 
như các bên hữu quan cả bên trong lẫn bên ngoài. Mỗi nhóm sẽ có quan điểm khác nhau về 
giá trị và các khả năng tăng trưởng. 
Trong việc ra quyết định marketing xuất hiện một niềm tin phổ biến rằng tăng trưởng là điều 
chủ yếu để cải thiện hiệu suất. Thực vậy, một doanh nhân có tham vọng và tổ chức phi lợi 
nhuận bị thôi thúc bởi những niềm tin và lý tưởng, cả hai đều muốn phát triển hoạt động của 
họ hay tăng ảnh hưởng của họ. Nếu mô hình kinh doanh vẫn tương tự, nền tảng chi phí không 
thay đổi về cơ bản nhưng thu nhập sẽ đến từ sức ép cạnh tranh, lúc đó tăng trưởng là con 
đường duy nhất để cải thiện hiệu suất, đặc biệt là trong ngắn hạn. Mặc dù vậy, một số nhà 
quản trị có quyết định rất khó khăn trong việc quản trị tăng trưởng, định giá và chi phí. 
Tuy nhiên, trước khi tổ chức theo đuổi các chiến lược tăng trưởng, điều có ý nghĩa là quyết 
định xem có thay đổi về căn bản mô hình kinh doanh và nền tảng chi phí hay không, hơn là 
việc chỉ tập trung vào tăng doanh số làm cải thiện giá trị cho cổ đông. Ví dụ, thay đổi cách 
thức thương mại nhờ cấp phép bán hàng hay cấp phép kinh doanh, chứ không thiết lập các bộ 
phận phụ thuộc sở hữu toàn bộ, có thể cải thiện giá trị tăng thêm và thu nhập trên vốn đầu tư 
cho tổ chức với mức chi phí thấp đối với lượng bán trực tiếp. Việc loại bỏ các trung gian trong 
kênh phân phối và thay thế chúng bằng bán hàng trực tuyến có thể tạo giá trị, dẫu cho phải đầu 
tư một lượng đáng kể. 
Trên thực tế, nhiều tổ chức vẫn xem doanh số tăng lên như là con đường cho khả năng sinh lợi 
tăng thêm. Trong ngắn hạn điều này có thế có, nhưng ngược lại khuynh hướng căn bản là cạnh 
tranh tăng lên và việc giảm lợi nhuận bên nó có thể không phải là giải pháp lâu dài chấp nhận 
được. Do đó, cần thận trọng phân tích tình thế thực sự, trước khi quyết định theo đuổi tăng 
trưởng như là điều cần thiết làm tăng hiệu suất. 
Trong phạm vi danh mục các sản phẩm và dịch vụ, đối với từng lợi sản phẩm khác khau sẽ có 
các khuynh hướng giá và chi phí khác nhau. Hơn nữa, khả năng marketing cho giá trị khách 
hàng tăng thêm sẽ khác nhau giữa các loại sản phẩm và nó sẽ không phải luôn luôn có khả 
năng cứu khỏi các thất bại chắc chắn. Trên thực tế, cần có một cách tiếp cận khách quan hơn 
trong đó các triển vọng tăng trưởng được đánh giá đầy đủ trong bối cảnh khách hàng và sức ép 
cạnh tranh. Điều này dường như dẫn đến tính hợp lý của một số sản phẩm và dịch vụ, và tập 
trung hơn các nguồn lực, kể cả tài chính và phi tài chính vào các sản phẩm và dịch vụ có tiềm 
năng thực sự đối với sự tăng trưởng có khả năng sinh lợi. 
C 
B 
A 
Trường hợp xấu nhất 
Tăng trưởng thêm 
Hiệu suất mong muốn 
Độ lệch 
tăng 
trưởng 
Hiệu 
suất kém 
so với 
cải tiến 
của đối 
thủ 
Thời gian 
Đ
ón
g 
gó
p 
Hình 8-2. Độ lệch đóng góp 
Cần phải thấy rằng nếu tiếp tục cách tiếp cận marketing chiến lược hiện tại và kết cục cải thiện 
hơn đối với giá trị tăng thêm cho tổ chức có thể đủ cho hiệu suất mong muốn hay có cần đến 
một các tiếp cần khác sáng tạo hơn. Trong hình 8-2٣ đường A dựa trên tăng trưởng từ hoạt 
động hiện tại và đạt được một mức độ lớn nhờ sử dụng các tài sản hữu hình của tổ chức. 
Đường B cần thiét để đạt được các mục tiêu mong muốn chẳng hạn như về thu nhập trên vốn 
đầu tư. Nó yêu cầu một sự thay đổi căn bản cách tiếp cận marketing và tùy thuộc vào một vài 
tài sản của tổ chức chưa được khai thác đầy đủ để đáp ứng độ lệch tăng trưởng. Trong một 
kịch bản có thể xảy ra ở tương lai độ lệch có thể lớn hơn nhiều nếu tổ chức chỉ có khả năng đạt 
đường đóng góp C vì các đối thủ cạnh tranh tăng sản lượng nhờ tính giá thấp hơn, giá cao hơn 
nhờ cải tiến và đạt được tốt hơn so với năng suất kỳ vọng. Chỉ có thể đáp ứng bằng cách tái 
cấu trúc tận gốc rễ tổ chức để tiết kiệm chi phí tập trung nguồn lực vào các sản phẩm và dịch 
vụ với tiềm năng tăng trưởng và nhờ đó giữ lại các khách hàng hiện tại. 
Các hoạt động có thể thực hiện để dạt tăng trưởng được mô tả trong hình 8-3, và tổ chức phải 
quyết định về những ưu tiên cho việc cạnh tranh phân bổ vốn. 
٣ Doyle, P. (2000) Value-based Marketing: Marketing Strategies for Corporate Growth and Shareholder Value, 
Chicester: John Wiley. 
 Tăng sự ghi nhớ của khác hàng 
 Tăng sự chia sẻ trong tổng mua sắm của khách hàng 
 Giành khách hàng mới 
 Phát triển các sản phẩm và dịch vụ mới 
 Thâm nhập các thị trường hay lĩnh vực kinh doanh mới 
 Tìm con đường mới, hạ thấp chi phí hay tăng giá trị cho thị 
trường 
 Tăng cường sự tăng trưởng thị trường quốc tế 
 Tăng trưởng vào các lĩnh vực mới 
 Mau lại hay thiết lập các liên minh và liên doanh 
Hình 8-3. Các hành động để đạt được tăng trưởng 
Một tổ chức sẽ cần phải quyết định lựa chọn nào trong số này sẽ cho thu nhập tốt nhất bằng 
việc phân tích yêu cầu đầu tư về tài chính, nguồn nhân lực và những cải thiện hiệu suất dự 
kiến (Giá trị tăng thêm cho cổ đông), kể cả các đánh giá rủi ro về khả năng thành công và các 
kết cục thất bại có thể có. Điều then chốt cho thành công là tập trung vào các chiến lược tăng 
trưởng trên các thị trường đang hấp dẫn và tổ chức có khả năng phát triển lợi thế cạnh tranh 
thông qua định vị khác biệt trong các thị trường đó. 
Do đó, cặp mục tiêu cho kinh doanh được sử dụng phổ biến là tăng khối lượng và tăng năng 
suất. Các hành động có thể thực hiện để đạt được những cải thiện như vậy trình bày trong 
bảng 8-1 
Bảng 8-1 Cải thiện khối lượng và năng suất 
Các mục tiêu 
chiến lược 
Các mục tiêu chiến 
lược marketing Các nhiệm vụ marketing 
Tăng giá o Định giá phân đoạn tốt hơn 
Cắt giảm chi phí o Chi phí biến đổi o Chi phí cố định 
Cải thiện 
năng suất 
Cải thiện hỗn hợp bán o Nhấn mạnh vào sản phẩm có lợi hơn 
Mở rộng thị trường 
o Chuyển đổi những người không sử dụng 
o Thâm nhập thị trường mới 
o Tăng mức sử dụng 
Tăng khối 
lượng 
Thâm nhập thị trường o Khách hàng của các đối thủ thắng cuộc 
TĂNG GIÁ TRỊ QUA CÁC TÀI SẢN VÔ HÌNH 
Chúng ta đã thảo luận về các quan niệm truyền thống để đạt được tăng trưởng trên thị trường. 
Nhiều tổ chức xây dựng chiến lược tăng trưởng của họ theo cách tiếp cận như vậy và các tài 
sản hữu hình dễ nhận thấy trong đơn vị kinh doanh của họ. Thực vậy, các doanh nghiệp chủ 
yếu được đánh giá qua các nguồn lực và tài sản hữu hình của họ. Tuy nhiên, kỷ nguyên thông 
tin cho thấy các tài sản hữu hình chỉ chiếm một tỷ lệ tăng thêm nhỏ trong tổng giá trị thị 
trường của tổ chức. Ví dụ, Doyle quan sát thấy rằng tỷ lệ giá trị thị trường với giá trị sổ sách 
của 500 công ty trong tạp chí Fortune bình quân là 8, hàm ý rằng chỉ có 12% trong tổng tài sản 
của tổ chức. Các tổ chức nhỏ hơn 500 công ty của Fortune có thể học được các bài học và tập 
trung đặc biệt và các tài sản vô hình của họ như một ccáh thức tăng trưởng và tăng giá trị cho 
cổ đông. 
Trong khi giải quyết câu hỏi điều gì tạo nên tài sản vô hình mà có thể sử dụng cho phép tổ 
chức tăng trưởng nhanh hơn, điều hữu ích là xem xét các hàm ý cho tổ chức về lý thuyết dựa 
trên nguồn lực diễn tả trong hình 8-1. Trên quan điểm dựa vào nguồn lực có năm loại tài sản 
và các đặc tính được thể hiện chi tiết trong bảng 8-2.٤ ở phần sau chúng ta sẽ nói đến cách sử 
dụng các tài sản thương hiệu. Phần này chúng ta sẽ xem xét về cách thức sử dụng các tài sản 
công nghệ để tạo giá trị và vai trò của các quyết định chiến lược marketing liên quan đến quản 
trị và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. 
٤ P’eterlaf, M.A. (1993) ‘The cornerstones of competitive advantage: a resource-based view’, Strategic 
Management Journal, 14. 
Bảng 8-2 Các loại tài sản và đặc tính của nó trng các doanh nghiệp dựa trên nguồn lực 
Các loại tài sản Các đặc tính 
Các tài sản danh 
tiếng 
− Tên của công ty, và các thương hiệu mà truyền đạt danh tiếng 
về các sản phẩm, dịch vụ của nó, và sự đáp ứng một cách trung 
thực với các bên hữu quan 
Các tài sản chiến 
lược 
− Cấp phép, độc quyền tự nhiên hay các đặc quyền khác mà có 
thể hạn chế cạnh tranh. 
Các tài sản công 
nghệ 
− Sở hữu công nghệ dưới dạng bản quyền, bằng sáng chế, và các 
bí mật thương mại hay bí quyết đặc biệt trong ứng dụng công nghệ 
Nguồn nhân lực − Các kỹ năng và khả năng thích ứng của nhân viên 
Văn hóa và tổ 
chức 
− Các giá trị và chuẩn mực xã hội định dạng sự gán bó và trung 
thành của nhân viên 
Trước khi thảo luận về những điều này, tốt hơn chúng ta nên xem xét sơ qua các tài sản còn 
lại. Các tài sản chẳng hạn như các độc quyền, cấp phép đại loại những điều giúp hạn chế cạnh 
tranh để doanh nghiệp có thể cực đại hóa khả năng sinh lợi của họ và nhờ vậy làm tăng đáng 
kể giá trị cho cổ đông. Nếu các doanh nghiệp vận hành tốt nó cũng sẽ làm tăng giá trị cho 
khách hàng, nhưng trên thực tế nhiều nhà độc quyền dường như lại coi trọng hơn các thứ như 
bảo đảm công việc cho nhân viên, và đáp ứng các tham vọng chính trị của chính phủ chứu 
không phải là việc cung cấp các dịch vụ được quản trị tốt hơn. Các vấn đề phát sinh khi các 
lĩnh vực như công ích và truyền thông được mở ra với những điều kiện cạnh tranh mới. Không 
chỉ có việc các nhà độc quyền hiện hữu bị thúc ép phải cạnh tranh với những người mới nhập 
cuộc cạnh tranh hăng hái mà họ còn phải xoay xở với sự suy giảm thu nhập không thể tránh 
khỏi và suy giảm về tinh thần liên quan đến mất việc làm kết cục tất yếu của tư nhân hóa. 
Không chỉ là ở tầm mức địa bàn hoạt động, mà một số người có quyền điều chỉnh quá háng 
say với việc tạo ra cạnh tranh bình đẳng đã từng bị hạn chế trong môi trường độc quyền cũ và 
đưa ra những khuyến khích không cân xứng cho các doanh nghiệp mới. 
SỬ DỤNG CÁC TÀI SẢN NHÃN HIỆU 
Thuộc về các tài sản vô hình của doanh nghiệp, thương hiệu ảnh hưởng cơ bản nhất đến các 
quyết định marketing chiến lược. Tất nhiên, với những lĩnh vực khác nhau tầm quan trọng của 
thương hiệu cũng sẽ khác nhau. Hơn nữa, tầm quan trọng tương đối của thương hiệu còn tùy 
thuộc vào tổ chức quan niệm về thương hiệu khác nhau. Nhà bán lẻ Nhật bản Muji thậm chí 
không quan tâm nhãn hiệu, nhưng có lẽ điệu này lại củng cố một cách đơn giản thương hiệu 
Muji. Trong nhiều năm Marks & Spencer tránh sử dụng bất kỳ thương hiệu nào trong các cửa 
hàng của nó ngoại trừ nhãn St Michael của nó, ít nhiều như một thương hiệu chất lượng. Dưới 
sức ép của thị trường, và các thế lực tài chính các doanh nghiệp đã phải làm một số hoạt động 
thương hiệu trong các cử hàng của mình. Tuy nhiên, mùa hè năm 2004 doanh số bán quần áo 
vẫn giảm, đe dọa mua lại đã lại ẩn hiện. 
Các thương hiệu như là các tài sản vầ đầu tư và khai thác 
Vấn đề cơ bản với một tổ chức là nó có nên ra quyết định marketing chiến lược đầu tư hỗ trợ 
và tạo dựng thương hiệu hay không. Trong việc ra quyết định tổ chức phải trả lời các câu hỏi 
sau: 
− Có nhất thiết có thương hiệu không 
− Tổ chức có xem thương hiệu như tài sản hay chỉ đơn giản cái tên đặt cho các sản phẩm 
hay dịch vụ? 
− Thương hiệu của tổ chức hiện nay đóng góp giá trị cho kinh doanh như thế nào? 
− Với sự hỗ trợ, thương hiệu có thể tăng giá trị như thế nào cho doanh nghiệp trong 
tương lai? 
Nhiều thương hiệu có giá trị nhất trên thế giới đã nhận được khoản đầu tư lớn và được duy trì 
hàng thập kỷ trên từng khía cạnh chiến lược marketing của họ, từ nghiên cứu khách hàng, 
phân đoạn, định vị thông qua từng khía cạnh của hoạt động marketing mix. Thông thường đầu 
tư bao gồm phần lớn gắn với quảng cáo những các yếu tố khác chất lượng hoàn toàn nhất 
quán, tin cậy, cải tiến liên tục và cam kết của nhân viên cũng không kém quan trọng để đạt 
được sự trung thành và tiến cử rộng rãi của khách hàng. 
Nên xem xét một cách cẩn trọng các sản phẩm mới, hay sản phẩm cải tiến, mở rộng hay sửa 
đổi tuyến sản phẩm có làm tăng cường thương hiệu về tổng thể cũng như giúp làm tăng luợng 
bán của sản phẩm hay không. Điều đó nói lên rằng các thương hiệu mạnh nhất truyền đạt một 
giá trị cốt lõi tới cho tất cả các khách hàng của họ bằng những sự liên tưởng gắn với cái tên 
của chúng. Nhờ thêm “-ness” vào các tên thương hiệu khách hàng ngay lập tức liên tưởng tới 
giá trị được nhận thức toàn cầu. Levi’s đưa ra một loạt quần áo bình thường theo mốt dưới 
thương hiệu Levi’s nhưng các sản phẩm không được làm từ vải bông chéo. Các sản phẩm 
không bán được, có lẽ bởi vì loại sản phẩm này không hỗ trợ và tăng thêm cho thương hiệu 
điều gì đó liên quan đến vải bông chéo. Vấn đề là các sản phẩm có ‘Levi-ness’ hay không. Vài 
năm sau Levi’s đưa lại các sản phẩm dướia thương hiệu Dockers. 
Tuy nhiên, trong nhiều tổ chức ít phức tạp, các nhà quản trị sử dụng tên hay thương hiệu cho 
các sản phẩm mới, những sửa đổi hay mở rộng tuyến sản phẩm mà không thực sự nghĩ xem 
tên có giúp nâng cao hay làm giảm giá trị sản phẩm hoặc danh tiếng chung của tổ chức không. 
Mục đích của họ thường là rất ngắn hạn. Họ chỉ đơn giản là muốn khách hàng mua một sản 
phẩm hay dịch vụ dưới một cái tên thương hiệu mà thôi. Các loại quyết định này tốt nhất là 
làm tăng cường một ít cho thương hiệu và xấu nhất thì sẽ làm sói mòn thương hiệu. Ngay cả 
với các t