Trong khi tìm kiếm bản chất của cải tiến, dễdàng thừa nhận rằng công nghệlà lực lượng 
chính dẫn dắt các thay đổi chủyếu. Công nghệhay nghiên cứu khoa học có thểdẫn đến 
một phát minh gây ra một sựnhảy vọt. Tuy nhiên, các thay đổi chủyếu trong một lãnh 
vực ngành không chỉ đơn thuần là kết quảcủa tiến bộcông nghệmà còn có thểlà kết 
quảcủa một hoạt động có tính doanh nhân chỉra các cơhội tạo ra bởi các thay đổi trong 
điều kiện thịtrường và cách khai thác nó, thường thường là việc sửdụng hỗn hợp kỹ
thuật công nghệhiện tại và mới trong bối cảnh mới
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 33 trang
33 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1926 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Tăng trưởng thông qua cải tiến, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 7 
TĂNG TRƯỞNG NHANH THÔNG QUA CẢI TIẾN 
BẢN CHẤT, NGUỒN LỰC VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CẢI TIẾN 
Tiêu điểm của chúng ta trong chương này là các cải tiến tác động đến những khía cạnh 
kinh doanh nhờ việc đem đến những thay đổi về hiệu suất hay thậm chí sự phát minh 
hoàn toàn mới một hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, cải tiến cũng thực hiện dưới hình 
thức các cải thiện hơn nữa, là bộ phận của sự cập nhật liên tục cho đơn vị kinh doanh 
Bản chất của cải tiến 
Trong khi tìm kiếm bản chất của cải tiến, dễ dàng thừa nhận rằng công nghệ là lực lượng 
chính dẫn dắt các thay đổi chủ yếu. Công nghệ hay nghiên cứu khoa học có thể dẫn đến 
một phát minh gây ra một sự nhảy vọt. Tuy nhiên, các thay đổi chủ yếu trong một lãnh 
vực ngành không chỉ đơn thuần là kết quả của tiến bộ công nghệ mà còn có thể là kết 
quả của một hoạt động có tính doanh nhân chỉ ra các cơ hội tạo ra bởi các thay đổi trong 
điều kiện thị trường và cách khai thác nó, thường thường là việc sử dụng hỗn hợp kỹ 
thuật công nghệ hiện tại và mới trong bối cảnh mới. 
Các điểm ngắt trong ngành 
Bước thay đổi trong các ngành được Strebel gọi là các điểm ngắt trong ngành, và có tác 
động đáng kể làm tăng giá trị cho khách hàng hay tổ chức thông qua giảm chi phí.1 Thị 
trường máy tính cá nhân đã là chủ đề của một số điểm ngắt, bao gồm: 
− Sự giới thiệu máy tính cá nhân (PC) bên cạnh các máy tính khổ lớn, đuổi kịp 
người dẫn đầu 
− Tăng trưởng PC đáng kế từ châu Á 
− Các kênh phân phối mới (Siêu thị PC, marketing trực tiếp, bán hàng trực tuyến) 
− Giới thiệu sản phẩm lap top 
− Đưa ra Internets và kiên kết các PC với mạng điện thoại 
− Đưa ra các trò chơi 
− Sử dụng PC như một trung tâm đa phương tiện 
Nếu nhiều điểm ngắt là do công nghệ dẫn dắt, thì hành vi kinh doanh lại thường khai 
thác các cơ hội của điểm ngắt 
1 Strebel, P. (1996) ‘Breakpoint: how to stay in the game’, Financial Times Mastering Management, part 
17, pp. 13–14. 
Strebel nhận diện hai loại điểm ngắt: 
− Các điểm ngắt phân kỳ liên quan đến sự tăng lên một cách rõ nét các các thức 
cạnh tranh, làm tăng giá trị cho khách hàng 
− Các điểm ngắt hội tụ là kết quả của sự cải thiện về hệ thống và các quá trình 
nhằm cung cấp các giải pháp, hay dẫn tới hạ thấp chi phí cung cấp. 
Sự phát triển liên tục giữa các điểm ngắt có thể tạo ra những tinh chỉnh và phát triển 
đưa vào trong sản phẩm, dịch vụ hay quá trình các giải pháp làm tăng giá trị và duy trì 
lợi ích cho khách hàng. Ví dụ, trong khi nghiên cứu hướng đến các tiến bộ công nghệ 
tiếp theo trong lĩnh vực giải trí gia đình, Sony đã đưa ra hàng loạt các sản phẩm mới dựa 
trên các định dạng hiện tại với các đặc tính tăng thêm và thiết kế hoàn thiện. 
Tính gián đoạn công nghệ 
Mối quan hệ giữa các cải thiện nhỏ liên tục trong một lĩnh vực và tính gián đoạn công 
nghệ được mô tả ở hình 7-1 
Hình 7-1 Các nỗ lực R&D và tính gián đoạn 
Các nỗ lực và vốn đầu tư 
H
iệ
u 
su
ất
Đường cong chữ S
Đường cong chữ S chỉ mối liên hệ giữa đầu tư tích lũy trong sản phẩm hay công nghệ và 
các cải thiện về hiệu suất. Đầu tư liên tục vào sản phẩm, dịch vụ hay phát triển quá trình 
tạo ra một chuỗi các cải thiện nhỏ về hiệu suất. Tuy nhiên, ở đỉnh của đường cong chữ S, 
ngay cả với giá trị đầu tư lớn vẫn chỉ có rất ít sự cải thiện hơn nữa về hiệu suất. Sản 
phẩm, quá trình hay công nghệ lúc này đã đạt đến giai đoạn bão hòa của chu kỳ sống, và 
có lẽ nó tồn tại như một hàng thông thường. Rõ ràng, điều này có thể là một lý do của 
sự sói mòn chiến lược, lúc đó có một ô bò sữa, tổ chức có thể đã bị gắn hoàn toàn vào 
công nghệ hay sản phẩm và đã có các tài sản đáng kể cho quá trình cụ thể này. Hậu quả 
là tổ chức có thể sẽ không sẵn lòng tìm kiếm một cách tích cực một sự thay thế mà có 
thể cần đến một sự đầu tư lớn vào sự phát triển mới và marketing để hỗ trợ nó. Vì điều 
đó có thể làm phá vỡ hành vi mua sắm và thu nhập, và có thể gây ra tiêu hao các hoạt 
động kinh doanh hiện tại. 
Tại điểm không liên tục của đường cong chữ S, một công nghệ, sản phẩm hay quá trình 
đột biến, hoàn toàn mới có thể xuất hiện. Rất phổ biến, là hiện tượng một tổ chức đang 
dẫn đầu về cải tiến mới sẽ không được biết đến trong lĩnh vực và không phải là một 
trong những đối thủ cạnh tranh thông thường. Có thể là nó ở một vùng xa trên thế giới 
và tầm quan trọng từ các hoạt động của nó có thể không nhận thấy rõ ràng. Trong các 
giai đoạn đầu, tổ chức mới và cải tiến của nó thậm chí có thể bị coi thường và không 
được các tổ chức hiện tại trên thị trường xem như là một đe dọa nghiêm trọng, kết quả 
là khi nó trở thành các doanh nghiệp được thiết lập tốt, các doanh nghiệp hiện có trong 
ngành sẽ phải đóng vai là người rượt đuổi. Dyson đã đưa ra công nghệ mới để tạo ra các 
sản phẩm tẩy rửa nội trợ, cải tiến, các hãng hàng không chi phí thấp với các hãng hàng 
không lớn, các nhà bán lẻ trực tuyên, như thách thức các quá trình bán lẻ truyền thống. 
Các loại cải tiến 
Có ba loại cải tiến chia theo cách nó phá vỡ các mô thức mua và sử dụng của khách 
hàng.2 Hàm ý của điều này là nếu các mô thức mua và sử dụng thay đổi có một nhu cầu 
lớn hơn về marketing để hướng dẫn lại các khách hàng về lý do các sản phẩm được 
mua, và cách thức khách hàng sử dụng. 
Các cải tiến liên tục 
2 Robertson, R.S. (1967) ‘The process of innovation and the diffusion of innovation’, Journal of 
Marketing, 3(1): 14–19. 
Các cải tiến liên tục gây ra các hiệu ứng phá vỡ nhỏ, không đáng kể đối với việc mua 
sắm và tiêu thụ sản phẩm, yêu cầu chút ít sự hướng dẫn lại với khách hàng. Ví dụ, việc 
đưa ra flo trong nước, những tăng thêm về thực phẩm, các cơ chế hóa học mới trong 
phân bón, hay việc sử dụng, các chất làm lạnh không có CFC trong tủ lạnh không gây ra 
các hiệu ứng đáng kể lên quá trình mua sắm hay sử dụng sản phẩm, ít ra cũng không làm 
cho khách hàng quan tâm lắm. Các màn hình phẳng không làm thay đổi việc sử dụng Ti 
vi, khác hơn để làm cho không gian sống trở nên dễ chịu hơn. 
Tuy nhiên, khi các khách hàng trở nên có khả năng hiểu biết hơn, không có sự bảo đảm 
nào cho việc các sản phẩm đang được tiêu dùng theo cách thức tương tự nhưng với công 
dụng mới thay đổi đáng kể lại được khách hàng chấp nhận một cách tự động. Việc giới 
thiệu các thực phẩm biến đổi gien làm tăng sự lo sợ trong tâm trí khách hàng và họ mua 
sắm rất miễn cưỡng. 
Các cải tiến liên tục một cách năng động 
Cải tiến liên tục một cách năng động có một hiệu ứng phá vỡ nhiều hơn về các thức sử 
dụng sản phẩm hay dịch vụ. Ví dụ, việc đưa ra máy fax yếu cầu thay đổi lề thói làm việc 
văn phòng để bảo đảm sử dụng nó hiệu quả. Một máy ảnh kỹ thuật số có thể rơi vào cả 
loại này và các loại sau. Nếu máy ảnh kỹ thuật số được dùng để chụp ảnh và sau đó thẻ 
nhớ có thể đưa đến một cửa hàng để rửa ảnh, nó sẽ có ít hiệu ứng về sử dụng và mua 
sắm, nhưng chống lại sự suy giảm đáng kể doanh số các công ty rửa ảnh đã phải giải 
thích rằng dịch vụ của họ cũng đã mở rộng đối với ảnh kỹ thuật số. . 
Các cải tiến không liên tục 
Các cải tiến không liên tục có một hiệu ứng phá vỡ cao đối với các mô thức mua sắm và 
sử dụng, yêu cầu marketing ở mức cao để giải thích các ích lợi và hướng dẫn khách hàng 
về cách thức sử dụng sản phẩm. Các máy quay Video và các lò vi sóng đã có một hiệu 
ứng đáng kể đến phong cách sống của khách hàng. Máy MP3 cho nhạc tải từ Internet 
với một máy tính hay máy in chuyên dùng để rửa ảnh có một hiệu ứng phá vỡ mạnh hơn 
đến việc mua sắm và sử dụng. Cải tiến càng phá vỡ các mô thức mua sắm, sử dụng và 
thải loại bình thường của khác hàng càng cần đầu tư để hướng dẫn khách hàng về lý do 
họ cần cải tiến, lợi ích mà họ sẽ nhận được từ cải tiến và cách thức sử dụng cải tiến. Ví 
dụ, trong những ngày đầu của lò vi sóng, các nhà cung cấp đã lơ là trong việc nói với 
khách hàng rằng chúng không thích hợp với việc làm khô nhanh mọi thứ sau khi đã bị 
nhúng ướt. Nếu cải tiến cần một sự thay đổi căn bản trong các quá trình quản trị của 
doanh nghiệp chẳng hạn như chế tạo, kênh phân phối và marketing thì có thể cần phải 
tái định hướng hay thậm chí đổi mới hoàn toàn mô hình kinh doanh của doanh nghiệp. 
Tác động của công nghệ 
Nhiều bước tiến lớn trong những năm gần đây liên quan đến việc đưa ra các công nghệ 
chẳng hạn như hỗ trợ thương mại điện tử, quản trị thông tin, viễn thông, máy tính trợ 
giúp thiết kế, quá trình công nghệ, quản trị tồn kho và hậu cần. Những điều này là các 
công nghệ trong marketing cho phép cung cấp các giải pháp cho các vấn đề cũ chẳng 
hạn cách thức để khách hàng ngay ở nhà có thể điều khiển từ xa trên khắp thể giới đóng 
góp nhiều nhất vào thiết kế sản phẩm mới toàn cầu, và làm cách nào để một đơn vị kinh 
doanh chỉ có 10 người lại thương mại hóa sản phẩm của nó đến các khách hàng tiềm 
tàng ở 40 hay 50 nước? Việc quản trị thâm nhập thị trường trong nhiều quốc gia như vậy 
thông qua các đại diện các nhà phân phối có lẽ sẽ vượt quá nguồn lực của hầu hết các 
doanh nghiệp nhỏ. Công nghệ không làm thay đổi các yếu tố, các thách thức và những 
khó xử liên quan đến quá trình ra quyết định marketing, chẳng hạn tác động văn hóa đến 
marketing quốc tế và yêu cầu đạt được sự cân đối giữa tiêu chuẩn hóa và thích ứng trong 
các chương trình và quá trình marketing, nhưng nó có tác động lớn đến bản chất của 
chiến lược marketing và phát triển các giải pháp. 
Chúng ta đã nó đến một số trong các thách thức này ở các chương trước, nên rất có ích 
khi tập trung một cách rõ ràng vào các thức mà công nghệ giúp các doanh nghiệp và các 
nhà quản trị của họ giải quyết các thách thức này. Công nghệ vừa dẫn dăt sự thay đổi và 
vừa cung cấp một phương tiện để đáp ứng sự thay đổi. Phát triển của một công nghệ 
hiện tại và mới cho phép làm nhiều điều tốt hơn, nhanh hơn trước. Tuy nhiên, lúc đầu 
điều quan trọng là nhấn mạnh rằng công nghệ sẽ không có giá trị đến chừng nào nó có 
ứng dụng thực tiễn. Như diễn tả trong hình 7.2, những người tiên phong là những doanh 
nghiệp đầu tiên nắm lấy công nghệ mới thành công và tìm ra ứng dụng thực tiễn cho nó, 
trong việc tạo ra sản phẩm hay dịch vụ mới hay con đường mới để thương mại hóa ví dụ 
Amazon trong việc bán lẻ sách, sẽ giành được một nguồn lợi thế cạnh tranh mới. Tuy 
nhiên, điều này có thể thiết lập các chuẩn mực mới cho lãnh vực ngành mà có nghĩa là 
các đối thủ cạnh tranh, chẳng hạn Barnes và Noble, cũng sẽ phải đạt được các chuẩn 
mực đó nếu họ muốn cạnh tranh trong tương lai. Vì vậy tất cả các đối thủ cạnh tranh 
trong lãnh vực sẽ phải đuổi theo bằng việc nắm bắt công nghệ mới. Hậu quả là, doanh 
nghiệp cải tiến lại phải tìm một cải tiến mới hay tiến bộ công nghệ cho phép họ giành lại 
vị trí đứng đầu. Dell Computerslà một ví dụ về doanh nghiệp đã cố gắng liên tục để nắm 
bắt công nghệ mới xuyên suốt hoạt động kinh doanh của nó để tìm ra lợi thế cạnh tranh 
mới và các ứng dụng định hướng vào khách hàng. 
Công nghệ truyền thông giúp mọi người trên khắp thế giới trở nên nhận thức tốt hơn các 
thay đổi về điều kiện thị trường và các đáp ứng khác nhau của các công ty trên khắp thế 
giới với các thay đổi này. Các khác hàng dễ bị nhàm chán với các sản phẩm và dịch vụ 
hiện và luôn luôn tìm kiếm các sản phẩm và dịch vụ mới đem lại lợi ích cho họ. Họ ít 
trung thành nhãn hiệu và nếu một doanh nghiệp không đáp ứng các nhu cầu của khách 
hàng quốc tế thì các đối thủ cũng sẽ làm điều đó. Khách hàng tìm ra sự phát triển của 
các sản phẩm mới hay cách thức mới để đến với thị trường họ muốn hưởng lợi từ các 
thay đổi. Khách hàng cần nó và cần nó ngay bây giờ. 
Các nguồn cải tiến 
Trong khi công nghệ mới có thể đuợc tạo ra bởi một tổ chức, các cơ hội để thương mại 
hóa sản phẩm hay dịch vụ mới phát sinh từ điều kiện thị trường dưới dạng nhu cầu 
khách hàng. Để phù hợp tổ chức phải nhận diện nguồn gốc cơ hội và đáp ứng nhanh hơn 
các đối thủ cạnh tranh để giành lợi thế cạnh tranh 
Có hai quan điểm về các nguồn gốc cải tiến của Ansoff và Drucker (1985). Ansoff nhấn 
mạnh hiệu ứng của các sự kiện gây sốc đến cải tiến. Ông cho rằng các sự kiện gây sốc 
đến một cách đột ngột, đặt ra các vấn đề mới và triển vọng làm thiệt hại lớn trong kinh 
doanh.3 Ví dụ về điều này là việc tải các file nhạc sử dụng máy tính và chơi MP3. Các 
website cá nhân cho phép khách hàng chia sẻ các file nhạc và do đó khỏi phải trả tiền 
cho nhạc bản quyền. Về phía các nghệ sĩ họ đã mất tiền tác giả, còn các công ty sao 
chép nhạc như Sony, Universal, Warner Brothers, EMI và Bertelsmann lại lỗ lớn hơn, 
họ đã đáp ứng rất chậm chạp với các đe dọa (hay cơ hội) tăng lên và kết quả là chịu thiệt 
đáng kể về thu nhập. Nhiều đối thủ hiện nay đang cạnh tranh trực tiếp hay thông qua liên 
minh với các nhà khổng lồ về phần mềm, phần cứng và bán lẻ như Apple, Dell, Hewlett 
Packard vàWal-Mart4 (Schwartz and Markoff 2004). 
Drucker đã nhận ra các nhân tố như: 
− Sự kiện không mong đợi làm bùng nổ một nhu cầu mới ( ví dụ thay đổi khí hậu 
và thiếu hụt dầu lửa tiềm tàng) 
− Một điều phi lý giữa cái sẵn có và cái khách hàng cần 
3 Ansoff, I. (1965) Corporate Strategy, New York: McGraw-Hill. 
4 Schwartz, J.; Markoff, J. (2004) ‘Power players’, New York Times, 12 January 
Công nghệ mới 
Các ứng dụng thực 
tiễn được áp dụng 
Doanh nghiệp nắm 
bắt công nghệ mới 
Khách hàng có các 
kỳ vọng mới 
Doanh nghiệp phát 
triển lợi thế cạnh 
tranh mới 
Thay đổi chuẩn 
mực trong ngành 
Các đối thủ cạnh tranh 
theo đuổi bắt chước 
Hình 7-2 Công nghệ và lợi thế cạnh tranh 
− Một quá trình cần thiết để đáp ứng nhu cầu mới đáng kể của khác hàng (ví dụ 
phần mềm bảo đảm an toàn cho thương mại điện tử) 
− Thay đổi trong cấu trúc ngành ( ví dụ sự bái bỏ các qui định) 
− Sự thay đổi về nhân khẩu học ( Ví dụ tăng số người giá trong các nước phát triển 
đang cung cấp các cơ hội cho sản phẩm mới) 
− Thay đổi về quan niệm hay mô thức của công đồng (ví dụ marketing xanh) 
− Phát triển kiến thức mới ( ví dụ, sinh học) 
Các kỹ thuật nhận diện cơ hội 
Rõ ràng rằng công nghệ đóng vai trò như là chất xúc tác cho thay đổi lớn, nhưng cải 
tiến không chỉ tùy thuộc vào các phát minh hay tiến bộ công nghệ lớn. Nhiều tổ chức có 
tinh thần doanh nhân đã có những cải tiến lớn không phải trong lĩnh vực công nghệ. Về 
điểm này, điều có giá trị là xem xét các thức nhận diện các cơ hội cho cải tiến, đánh giá 
và phát triển về mặt thương mại. Nhiều tác giả đã thảo luận về các kỹ thuật để nhận 
diện cơ hội. Các kỹ thuật đó bao gồm: 
− Khai thác khoa học được dẫn dắt bởi sự hiếu kỳ và bắt đầu trong tâm trí với ứng 
dụng không trực tiếp rõ ràng, hay lợi ích khách hàng. Các trường đại học và các 
công ty khai thác công nghệ sinh học thường được tài trợ bởi các công ty dược phẩm 
đa quốc gia là ví dụ cho điều này 
− Phân tích các nhu cầu khác hàng hiện tại và dự đoán là một điểm bắt đầu rõ 
ràng. Việc hỏi khách hàng những gì họ muốn thường nhận ra việc phát triển sản 
phẩm và dịch vụ mới, nhưng thường khó cho khác hàng để kết nối những gì họ 
không biết là có thể. Bốn mươi năm trước một số khách hàng đã có thể giải thích 
rằng họ muốn mua sản phẩm và dịch vụ theo cách điện tử 
− Việc phân đoạn thị trường sâu hơn so với đã làm từ trước dẫn đến việc phát triển 
các sản phẩm hay dịch vụ đáp ứng hữu hiệu hơn với các nhu cầu của các phân đoạn 
khách hàng bộ phận. Đôi khi phân đoạn bộ phận có thể dấn đến cơ hội thị trường 
qui mô lớn như trường hợp xe hai bánh đa dụng 
− Việc nhận diện một phân đoạn mới phát sinh từ sự khai sinh của các thay đổi 
trong mô thức, thái độ, và các kỳ vọng của khác hàng và sự không thỏa mãn với các 
giải pháp hiện tại. Việc khai thác thành công đòi hỏi cải tiến có khả năng lường 
được điều này trước khi tình thế được khớp nối và viết lại đầy đủ trên trên báo chí. 
Điều này thường khó đạt được thành công vì thông thường các mô thức và thái độ 
thay đổi đáng kể trong các giai đoạn đầu của sự phát triển và vì thế các cơ hội 
thương mại cuối cùng thường khác so với dự tính ban đầu. Bodyshop định thời hạn 
thâm nhập thị trường đúng đắn phản ánh đúng lúc mô thức. 
− Áp dụng các kỹ thuật hiện tại trong lĩnh vực mới. Các nhà quản trị có thể tạo kết 
nối giữa các ý tưởng dường như không liên quan hay áp dụng một công nghệ, quá 
trình hay kỹ thuật từ một lĩnh vực kinh doanh này sang lĩnh vực khác, thường 
thường thông qua các đối tác giữa các lính vực 
− Hội nhập dọc trong chuỗi cung cấp của một tổ chức có thể loại trừ một liên kết 
trong chuỗi hay tạo ra con đường mới giá trị hơn đến thị trường. 
− Hợp lý hóa hay sáp nhập hoạt động kinh doanh thường dẫn đế sự chấm dứt một 
số sản phẩm hay dịch vụ và điều này có thể để lại đằng sau một nhu cầu thị trường 
chưa được thỏa mãn hay có thể là một cấu hình sản phẩm, dịch vụ hoạt toàn mới 
− Tách biệt một hoạt động kinh doanh hiện tại. Đôi khi cải tiến không phù hợp với 
hoạt động kinh doanh cốt lõi của các doanh nghiệp vì vậy doanh nghiệp bị kéo ra 
một cách tách biệt, ví dụ Lexmark từ IBM và các hãng hàng không chi phí thất từ 
BA, rốt cuộc là bị mua lại bởi easyJet, và Buzz từ KLM, bị mua lại bởi Ryanair. 
− Cải tiến trong lĩnh vực bão hòa. Các cải tiến thành công nhất thường thực hiện 
trong các lĩnh vực bão hòa nhờ việc cung cấp cho khác hàng một sự đột biến về giá 
trị 
Các kỹ thuật tư duy sáng tạo 
Các nhà quản trị trong một tổ chức hiện tại có thể áp dụng các kỹ thuật tư duy sáng tạo 
để quan sát các khuynh hướng, hiểu được các nguyên nhân căn bản của các phàn nàn 
phổ biến, áp dụng các kiến thức tiên tiến và ý tưởng chuyên gia trong lĩnh vực, và chỉ ra 
các độ lệc thị trường, các nhu cầu chưa thỏa mẫn. Có thể sử dụng kỹ thuật tấn công não 
trong một nhóm các chuyên gia và nhân viên. Một trong các vấn đề của nhiều cách tiếp 
cận đó là cải tiến thường được đặt điều kiện bởi quan điểm truyền thống về ngành của 
các nhân viên và các chuyên gia 
Kim và Mabourgne cho rằng thành công tăng trưởng cao không phải gây ra từ việc cố 
gắng đánh bại các đối thủ, mà từ việc làm cho đối thủ không còn thích hợp với khách 
hàng bởi cung cấp một sự đột biến về giá trị. Về căn bản, điều này cần các nhà cải tiến 
tư duy về ngành theo một cách thức hoàn toàn mới bằng các đặt câu hỏi: 
− Các nhân tố nào mà ngành của bạn cho là hiển nhiên nên loại bỏ đi? 
− Các nhân tố làm ngành của bạn cạnh tranh bị giảm xuống dưới tiêu chuẩn là gì? 
− Nhân tố nào đưa vào cạnh tranh trong ngành của bạn sẽ làm tăng lên trên mức 
tiêu chuẩn? 
− Các nhân tố nào nên được tạo ra mà ngành chưa bao giờ có 
Nếu các câu hỏi này được áp dụng với các ngành trước điểm ngắt gần đây, chẳng hạn 
đưa ra hoạt động ngân hàng bằng điện thoại và hãng hàng không giá thấp, dễ hiểu tại sao 
các cải tiến mới không đến từ các nhà cung cấp các nhà cung cấp truyền thống cho thị 
trường, những người mà luôn tin rằng mô hình kinh doanh hiện tại nên được duy trì. 
Cũng rõ ràng tại sao các doanh nghiệp mới có thể đến với thị trường và thỏa mãn các 
khác hàng hơn các đối thủ truyền thống. 
Ra các quyết định cải tiến thành công 
Đến đây chúng ta đưa ra một số phương pháp có tính quan điểm và có lẽ là hợp lý về 
việc tìm kiếm các cơ hội trên thị trường. Tuy nhiên, cải tiến không nhất thiết theo các 
qui tắc và cách thức mà các doanh nhân và các tổ chức dám nghĩ dám làm nhận ra và 
phát triển các cơ hội, thường rất chủ quan và cá nhân chứ không phải là khách quan và 
hợp lý. 
Thường thường các tổ chức tin rằng một cơ hội mà rõ ràng và hiển nhiên với họ phải là 
rõ ràng và hiển nhiên đối với nhiều tổ chức khác, nhưng không phải như vậy. Cùng một 
cơ hội không phải luôn luôn hiển nhiên với mọi người và thường thường một ý tưởng 
đơn giản có thể được đưa ra mà không có sự cạnh tranh trực tiếp. Thậm chí nếu có sự 
khai thác, cạnh tranh theo các yếu tố của giải pháp sản phẩm tổng thể có thể cung cấp 
một sự độc đáo vượt trội. Ví dụ, Starbucks vận hành các quán cà phê là một phần của 
điều mà về cơ bản vẫn coi là thị trường hàng thông thường. Mặc dù, họ có cạnh tranh 
đáng kể, song họ cung cấp một sản phẩm khác biệt mà có giá trị với khách hàng ngay