Có 3 hình thức cơ bản:
- Thế giới quan huyền thoại: là thế giới quan có nội dung pha trộn một cách không tự giác giữa thực và ảo.
Thế giới quan quan huyền thoại đặc trưng cho “tư duy nguyên thuỷ”, được thê hiện rõ nét qua các các chuyên thần thoại, phản ánh nhận thức về thế giới của con người trong xã hội công xã nguyên thuỷ.
Thế giới quan huyền thoại chủ yếu là sản hẩm của nhận thứccảm tính nên n hững gì trừu tượng thường được con người hình dung dưới những dạng sự vật cụ thể. Thiện và ác chẳng hạn. Đây là khái niệm thể hiện sự đáng giá về mặt giá trị của xã hội, song trong huyền thoại, thiện – ác được mô tả là những vật có hình dáng, có kích thước và có cả nơi cất giữ, bảo quản. Thế giới quan đó thể hiện đậm nét trí tưởng tượng của tư duy nguyên thủy.
- Thế giới quan tôn giáo: là thế giới quan có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của lực lượng siêu nhân đối với thế giới, đối với con người, được thể hiện qua các hoạ động có tổ chức để suy tôn, sùng bái lực lượng siêu nhân ấy.
12 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 10208 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng Thế giới quan và thế giới quan khoa học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THẾ GIỚI QUAN VÀ THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC.
Thế giới quan và các hình thức cơ bản của thế giới quan.
Khái niệm về thế giới quan.
Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới ấy.
Những hình thức cơ bản của thế giớiquan.
Có 3 hình thức cơ bản:
Thế giới quan huyền thoại: là thế giới quan có nội dung pha trộn một cách không tự giác giữa thực và ảo.
Thế giới quan quan huyền thoại đặc trưng cho “tư duy nguyên thuỷ”, được thê hiện rõ nét qua các các chuyên thần thoại, phản ánh nhận thức về thế giới của con người trong xã hội công xã nguyên thuỷ.
Thế giới quan huyền thoại chủ yếu là sản hẩm của nhận thứccảm tính nên n hững gì trừu tượng thường được con người hình dung dưới những dạng sự vật cụ thể. Thiện và ác chẳng hạn. Đây là khái niệm thể hiện sự đáng giá về mặt giá trị của xã hội, song trong huyền thoại, thiện – ác được mô tả là những vật có hình dáng, có kích thước và có cả nơi cất giữ, bảo quản. Thế giới quan đó thể hiện đậm nét trí tưởng tượng của tư duy nguyên thủy.
Thế giới quan tôn giáo: là thế giới quan có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của lực lượng siêu nhân đối với thế giới, đối với con người, được thể hiện qua các hoạ động có tổ chức để suy tôn, sùng bái lực lượng siêu nhân ấy.
Thế giới quan tôn giáo ra đời khi trình độ nhậh thức và khả năng hoạt động thực tiễn của con người rất thấp. Những hình thức sơ khai của thế giới quan này như Bái vật giá, Tôtem giáo, Ma thuật giáo, Linh Vật Giáo, Saman giáo thể hiện sự yếu đuối, bất lực, sợ hãi của con người trước những lực lượng tự nhiên cũng như lực lượng xã hội đã dẫn đến việc con người thần thánh hoá chúng, quy chúng về những sức mạnh tự nhiên và đi đến tôn thờ chúng. Theo Ph. Ăngghen, “tất cả mọi gtôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào trong đầu óc của con người -của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế.
Đặc trưng chủ yếu của thế giới quan tôn giáo là niềm tin cao hơn lý trí, trong đó niềm tin vào một thế giới khác hoàn thiện, hoàn mỹ mà con người sẽ đến sau chết giữ vai trò chủ đạo. V.I.Lênin cho rằng:”Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào một cuộc đời tốt đẹp hơn ở thế giới bên kia, cũng giống như sự bất lực của con người dã man trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ, vào những phép màu, v.v.”
Thế giới quan triết học: là thế giới quan được thể hiện bằng hệ thống lý luận thông qua các khái niệm, các phạm trù, các quy luật. Nó không chỉ nêu ra các quan điể, quan niệm của con người về thế giới và về bản thân on người, mà còn chứng minh quan điểm, quan niệm đó bằng lý luận.
Thế giới quan triết học và triết học không tách rời nhau. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, là bộ phận quan trọng nhấtvì nó chi phối tất cả những quan điểm, quan niệm còn lại của thế giới quan như những quan điểm về đạo đức, thẩm mỹ, kinh tế, chính trị, văn hóa, v.v.
Phân biệt thế giới quan triết học và thế giới quan khác, C.Mác viết:” … các vị hướng về tình cảm, triết học hướng về lý trí, các vị nguyền rủa, than vãn, triết học dạy bảo; các vị hứa hẹn thiên đường và toàn bộ thế giới, triết học không hứa hẹn gì cả ngoài chân lý; các vị đòi hỏi tin tưởng tín ngưỡng của các vị, triết học không đòi hỏi tin tưởng vào các kết luận của nó, nó đòi hỏi kiểm nghiệm những điều hoài nghi; các vị dọa dẫm, triết học an ủi. Và, thật thế, triết học biết cuộc sống khá đầy đủ để hiểu rằng những kết luận của nó không bao dung sự khao khát hưởng lac và lòng vị kỷ - của cả thiên giới lẫn thế giới trần tục”.
Thế giới quan còn có thể chia thành thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm; thế giới quan khoa học và thế giới quan phản khoa học
Thế giới quan duy vật và lịch sử phát triển thế giới quan duy vật.
Thế giới quan duy tâm và thế giới quan duy vật.
Thế giới quan duy tâm là thế giới quan thừa nhận bản chất của thế giới là tinh thần và thừa nhận vai trò quyết định của các yếu tố tinh thần đối với thế giới vật chất nói chung, đối với con người, xã hội loài người nói riêng.
Thế giới quan duy tâm thể hiện rất đa dạng dưới nhiều cấp độ khác nhau. Tính đa dạng của thế giới quan duy tâm trước hết phụ thuộc vào tính đa dạng trong quan niệm về “tinh thần” của những người có thế giới quan này. Tinh thần có thể là ý thức của con người như ý trí, tình cảm, tri thức, kinh nghiệm, v.v.; cũng có thể là một bản nguyên bên ngoài con người như “tinh thần tối cao”, “ý niệm tuyệt đối, “đấng sáng tạo”, v.v.
Thế giới quan duy vật là thế giới quan thừa nhận bản chất của thế giới vật chất, thừa nhận vai trò quyết định của vật chất đối các biểu hiện của đời sống tinh thần và thừa nhận vị trí, vai trò của con người trong cuo sống hiện thực.
Theo thế giới quan duy vật thì chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất, thế giới vật chất không sinh ra, không bị mất đi, nó tồn tại vĩnh viễn, vô hạn, vô tận.
Thế giới quan duy vật cũng thừa nhận sự tồn tại của các hiện tượng tinh thần song quan niệm mọi biểu hiện của tinh thần đều có nguồn gốc từ vật chất; vì vậy, trong mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần thì vật chất là cái có trước, tinh thần có sa và bị vật chất quyết định.
Phân biệt giữa thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm, V.I.Lênin cho rằng:”Không trừ một trường hợp nào, chúng ta thấy rằng, đằng sau một đống thuật ngữ tinh vi mới, đằng sau cái mớ lộn xộn những nghị luận uyên thâm kinh viện, là hai đường lối cơ bản, hai khuynh hướng cơ bản trong cách giải quyết các vấn đề triết học”. Chủ nghĩa duy vật cho rằng giới tự nhiên là cái có trước, tinh thần là cái co sau; nó đặt tồn tại lên hàng đầu vào tư duy vào hàng thứ hai. Chủ nghĩa duy tâm thì ngược lại”.
Như vậy theo Lênin, cơ sở quan trọng nhất để xác định một thếíơi quan nào đó thuộc về duy tâm hay duy vật – cho dù duy tâm dưới bất kỳ hình thứ nào (thô sơ, chất phac, tôn giáo hay văn minh, triết học) – là xem thế giới quan đó quan niệm như thế nào về vị trí, vai trò của vật chất, của ý thức trong mối quan hệ giữa chúng.
Lịch sử phát triển của thế giới quan duy vật.
Kể từ khi triết học ra đời, sự phát triển của thế giới quan duy vật gắn liền với sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Tương ứng với ba hình thức của của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình, chủ nghĩa duy vật biện chứng là ba hình thức cơ bản của thế giới quan: thế giới quan duy vật chất phác, thế giới quan duy vật siêu hình và thế giới quan duy vật biện chứng.
Thế giới quan duy vật chất phác: Là thế giới quan thể hiện trình độ nhận thức ngây thơ, chất phác của những nhà duy vật. Nó thể hiện rõ nét ở thời cổ đại.
Thế giới quan duy vật chất phác còn nhiều hạn chế, trong đó:
Nhận thức của các nhà duy vật mang nặng tính trực quan, phỏng đoán chứ chưa có những chứng cứ khoa học vững chắc.
Quan niệm vật chất là một hay một số chất đầu tiên sản sinh ra vạn vật chứng tỏ các nhà duy vật thời kỳ này đã đồng nhất vật chất với vật thể - một số dạng cụ thể vật chất.
Việc đồng nhất vật chất với vật thể là một trong những nguyên hân dẫn đến nhiều hạn chế trong những lĩnh vực khác nhau. Điều này dẫn đến những quan điểm duy vật không triệt để: khi giải quyết các vấn đề về tự nhiên họ đứng trên quan điểm duy vật, còn khi giải quyết các vấn đề về xã hội họ đã trượt sang quan điểm duy tâm.
Thế giới quan duy vật thời cổ đại chỉ dừng lại ở việc giải thích thế giới chứ chưa đóng được vai trò cải tạo thế giới.
Thế giới quan duy vật siêu hình:
Thể hiện rõ nét vào thế kỷ XVII-XVIII ở các nước Tây Âu. Thời kỳ này phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã được xác lập ở nhiều nước. Sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đòi hỏi khoa học tự nhiên có những bước phát triển mới, nhưng vào thế kỷ thứ XVII-XVIII, hóa học còn ở trong hình thức ấu trĩ, chủ yếu theo thuyết phlôgixtôn, sinh vật học ở trình độ phôi thai, v.v. Trong tất cả các khoa học tự nhiên, chỉ có cơ học về cơ bản đã đạt đến mức độ hoàn bị nên những định luật cơ học được coi là duy nhất đúng với mọi hoạt động nhận thức.
Thế giới quan duy vật biện chứng:
Thế giới quan duy vật biện chứng được C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng vào giữa thế kỷ XIX, V.I. Lênnin và những người kế tục ông phát triển.
Sự ra đời của thế giới quan duy vật biện chứng là kết quả kế thừa tinh hoa các quan điểm về thế giới trước đó, trực tiếp là những quan điểm duy vật của Phoiơbắc và phép biện chứng của Heghen; là kết quả sử dụng tối ưu thành tựu của khoa hoc, trước hết là thành tựu của Vật lý và Sinh học.
Sự ra đời của thế giới qun duy vật biện chứng còn là kết quả tổng kết các sự kiện lịch sử diễn ra ở các nước Tây Âu, khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã hình thành và đã bộc lộ những mặt mạnh cũng như hạn chế của có.
Nội dung, bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng – đem lại cho chúng ta không chỉ một bức tranh trung thực về thế giới mà cò đem lại cho con người một định hướng, một phương pháp tư duy khoa học để con người tiếp tục nhận thứ và cải tạo thế giới.
NỘI DUNG, BẢN CHẤT CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỚI TƯ CÁCH LÀ HẠT NHÂN CỦA THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC.
Nội dung của chủ nghĩa vật biện chứng.
Thể hiện qua tất cả các quan điểm, quan niệm của nó song có thể nhận thức nội dung này qua quan điểm duy vật về thế giới nói chung và quan điểm duy vật về xã hội nói riêng.
Quan điểm duy vật về thế giới.
Kế thừa tư tưởng của các nhà triết học duy vật và căn cứ vào các thành tựu của khoa học tự nhiên, chủ nghĩa duy vật biện chứng đi đến khẳng định: bản chất của thế giới là vật chất; thế giới thống nhất ở tính vật chất và vật chất là thực tại khách quan, tồn tại độc lập với ý thức, quyết định ý thức và được ý thức phản ánh.
Quan điểm duy vật về xã hội.
Quan điểm duy vật về xã hội là một hệ thống quan điểm thống nhất chặt chẽ với nhau, về sự ra đời, tồn tại, vận động phát triển của xã hội và các lực lượng thực hiện nhiệm vụ lịch sử đặt ra trong sự vận động và phát triển ấy.
Bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng được thể hiện ở việc giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên quan điểm thực tiễn, ở sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng, ở quan niệm duy vật triệt để và ở tính thực tiễn – cách mạng của nó.
Giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của Triết học trên quan điểm thực tiễn.
Thực tiễn, với tư cách là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo hiện thực mà những dạng cơ bản của nó là hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị - xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học, được các nhà duy vật biện chứng coi là hoạt động bản chất của con người, là hoạt động đặc trưng cho con người. Hoạt động này là mắt khâu trung gian trong mối quan hệ giữa ý thức của con người với thế giới vật chất.
Thông qua thực tiễn, ý thức con người được vật chất hóa, tư tưởng trở thành hiện thực. Thông qua thực tiễn, ý thức con người đã không chỉ phản ánh thế giới mà còn sáng tạo ra thế giới.
Sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng.
Bằng việc kế thừa những tư tưởng hợp lý của các học thuyết trước đó, với việc tổng kết thành tựu các khoa học của xã hội đương thời, C.Mác và Ph. Ăngghen đã giải thoát thế giới quan duy vật khỏi hạn chế siêu hình và cứu phép biện chứng khỏi tính chất duy tâm thần bí để hình thành nên chủ nghĩa duy vật biện chứng với sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng. Sự thống nhất này đã đem lại cho con người một quan niệm hoàn toàn mới về thế giới – quan niệm thế giới là một quá trình với tính cách là vật chất không ngừng vận động, chuyển hóa và phát triển.
Quan niệm duy vật triệt để.
Chủ nghĩa duy vật trước Mác là chủ nghĩa duy vật không triệt để, vì họ không hiểu đúng về vật chất, không hiểu đúng nguồn gốc, bản chất của ý thức, thiếu quan điểm thực tiễn, thiếu phương pháp tư duy biện chứng và một số hạn chế khác về nhận thức, về lịch sử nên khi giải quyết những vấn đề xã hội, họ đã lấy các yếu tố tinh thần như tình cảm, ý chí, nguyện vọng, v.v. làm nền tảng.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục được tính không triệt để của chủ nghĩa duy vật cũ là do đã khẳng định nguồn gốc vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định quá trình sinh hoạt xã hội, cính trị và tinh thần nói chung; tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và coi sự phát trểin của xã hội loài người là một quá trình lịch sử - tự nhiên.
Tính thực tiễn – cách mạng.
Thể hiện ở:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản. Giai cấp vô sản được coi là lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại; nó có lợi ích mục đích phù hợp với lợi ích cơ bản, mục đích cơ bản của nhân dân lao động và sự phát triển của xã hội. Chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời đã được giai cấp vô sản tiếp nhận như một công cụ định hướng, một vũ khí lý luận trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình và giải phóng toàn thể nhân loại.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ giải thích thế giới mà còn đóng vai trò cải tạo thế giới. Sức mạh cả tạo thế giới của chủ nghĩa duy vật biện chứng thể hiện ở mối quan hệ mật thiết với hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân, với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản trên mọi lĩnh vực.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định sự tất thắng cái mới. Ph.Ăngghen cho rằng không có gì là tối hậu, là tuyệt đối, là thiêng liêng cả. Trên mọi sự vật và trong mọi sự vật đều mang dấu ấn của sự suy tàn tất yếu bởi không có gì tồn tại ngoài quá trình không ngừng của sự hình thành và tiêu vong, của sự tiến triển vô cùng tận từ thấp đến cao. Tính cách mạng sâu sắc của chủ nghĩa duy vật biện chứng thể hiện qua việc nó phản ánh đúng đắn các qui luật chi phối sự vận động và phát triển; qua đó, quá trình xoá bỏ cái cũ, cái lỗi thời để xác lập cái mới, cái tiến bộ hơn là tất yếu.
NHỮNG NGUYÊN TẮC PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ VIỆC VẬN DỤNG NÓ VÀO SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG Ở VIỆT NAM.
Tôn trọng khách quan.
Tôn trọng khách quan là tôn trọng vai trò quyết định của vật chất. Điều này đòi hỏi con người trong nhận thức và hành động của mình phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy khách quan làm cơ sở, phương tiện cho hành động của mình.
Một số biểu hiện của việc tôn trọng khách quan là:
Mục đích, đường lối, chủ trương con người đặt ra không được xuất phát từ ý muốn chủ quan mà phải xuất phát từ hiện thực, phản ánh nhu cầu chín muồi và tính tất yếu của đời sống vật chất trong từng giai đoạn cụ thể.
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, việc nhận định đúng thời cơ cách mạng để phát động quần chúng nổi dậy giành thắng lợi quyết định cho cách mạng là vấn đề hết sức quan trọng. Nếu phát động sớm, không đúng thời cơ, cách mạng sẽ gặp nhiều khó khăn, chiu nhiều tổn thất, nhưng trái lại nếu bỏ lỡ thời cơ lại là lỗi lầm lịch sử nguy hại cho cách mạng. Thời cơ có thể do hoàn cảnh bên ngoài đưa lại mang nhiều yếu tố bất ngờ; song nó phải được xem xét trong tương quan lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng ở trong nước. Một trong những bài học kinh nghiệm về phương pháp cách mạng của Đảng ta là nắm vũng phương châm chiến lược lâu dài, đồng thời biết tạo thời cơ và nắm vững thời cơ mở những cuộc tiến công chiến lược làm thay đổi cục diện chiến tranh, tiến lên thực hiện tổng tiến công và nổi dậy đè bẹp quan địch giành thắng lợi cuối cùng.
Trong khoảng 10 năm sau khi thống nhất đất nước, bên cạnh những thành tực đã đạt được, chúng ta nôn nóng, tách rời hiện thự, vi phạm nhiều quy luật khách quan trong đó quan trọng nhất là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nên đã phạm những sai lầm trong việc xác định mục tiêu, xác định các bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế.
Hiện nay thực trạng trình độ lực lượng sản xuất ở nước ta còn thấp; cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội chưa đủ, chưa vững chắc, đời sống của nhân dân chưa cao, trong khi chúng ta còn nhiều tiềm năng cả về tài nguyên thiên nhiên, con người cũng như các quan hệ trong và ngoài nước mà chúng ta chưa khai thách một cách tốt nhất thì việc Đảng và Nhà nước chủ trương thực hiện công ngh hoá, hiện đạ hoá; thực hiện chủ trương nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nhằm phát huy tối ưu tài lực, trí lực, nhân lực còn tiềm tàng ấy, nhằm tạo ra sự chuyển hoá về chất trong toàn bộ đời sống xã hội để đáp ứng nhu cầu thực tiễn cách mạng Việt Nam đang đặt ra.
Khi đã có mục đích, đường lối, chủ trương đúng, phải tổ chức được lượng vật chất để thực hiện nó.
Mục đích, đường lối, chủ trương thuộc lĩnh vực tư tưởng. Tự bản thân tư tưởng không thể trở thành hiện thực mà phải thông qua hoạt động của con người. Mặt khác, khi lịch sử đặt ra cho con người những nhiệm vụ phải giải quyết thì nó cũng đã sản sinh ra những điều kiện vật chất để giải quyết nhiệm vụ đó nên vấn đề trọng yếu trước tiên, quyết định con người thành công hay thất bại là con người có tìm ra, có huy dộng được, có tổ chức được những yếu tố vật chất thành lực lượng vật chất để thực hiện mục đích, đường lối, chủ trương của mình hay không.
Thời kỳ chiến tranh, chúng ta rất thành công trong việc huy động, tổ chức sức mạnh của mỗi người, mỗi vùng, sức mạnh của cả nước, sức mạnh trong và ngoài nướx, sức mạnh quá khứ và tương lai tạo nên một lực lượng vật chất khổng lồ của chiến tranh nhân dân, đánh bại những thế lực hơn chúng ta nhiều lần về tiềm lực kinh tế và quân sự để bảo vệ độc lập, chủ quyền hoàn toàn thống nhất đất nước.
Ngày nay với quan điểm cách mạng là sự nghiệp của toàn dân, chúng ta xác định:” động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội phát huy mọi tiềm năng và mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế và của toàn xã hội” chúng ta kêu gọi kiều bào ở nước ngoài về xây dựng đất nước và bằng chứng là đã có rất nhiều kiều bào ta ở nước ngoài đã trở về quê hương để kinh doanh góp phần xây dựng và phát triển đất nước. Đây chính là tạo lực lượng vật chất để thực hiện nhiệm cách mạng trong giai đoạn mới.
Phát huy tính năng động chủ quan.
Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của ý thưc và phát huy vai trò nhân tố con người trong việc vật chất hóa những tính chất ấy.
Một số biểu hiện cơ bản:
Phải tôn trọng tri thức khoa học.
Tri thức khoa học là tri thức chân thực về thế giới được khái quát từ thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm. Tri thức khoa học giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống con người vì nó là một trong những động lực phát triển xã hội. Mọi bước tiến trong lịch sử nhân loại đều gắn liền với những thành tựu mới của tri thức khoa học.
Tri thức khoa học thể hiện trong các khoa học khác nhau phản ánh những lĩnh vực khác nhau của thế giới, song bản thân các lĩnh vực khác nhau này không tồn tại cô lập, tách rời nhau nên tri thức khoa học phản ánh chúng không cô lập, tách rời nhau. Việc phân chia khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ, khoa học xã hội, khoa học nhân văn hay khoa học cơ bản, khoa học ứng dụng, v.v. chỉ có tính tương đối. Vì vậy tôn trọng tri thức khoa học không chỉ là chống sự tuyệt đối hóa vai trò của kinh nghiệm, xem thường khoa học mà còn là không tuyệt đối hóa một loại khoa học nào trong hệ thống các khoa học. Đây là tiền đề giúp con người không chỉ hoạt động có hiệu quả trong ngành nghề của mình mà còn giúp con người thực hiện hoạt động ấy theo những giá trị nhân văn của xã hội.
Nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của khoa học, đối với cách mạng Việt Nam, Đảng và nhà nước ta khẳng định:” Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu”; trong đó, “nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng” nhằm “đào