Ngày nay phần lớn các giao dịch kinh tế của chúng ta đều được thực hiện thông qua tiền. Đối với cá nhân, tiền vừa là phương tiện vừa là mục đích của hoạt động kinh tế. Đối với quốc gia, tiền được sử dụng như một công cụ điều tiết vĩ mô. Trong thực tế tiền tệ đã trải qua nhiều hình thức, nhiều giai đoạn phát triển từ thấp đến cao theo thời gian của lịch sử và có nhiều nhà kinh tế học đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về tiền chẳng hạn như: Tiền là một hình thức tồn trữ tài sản để sẵn sàng cho các giao dịchhay tiền là bất cứ phương tiện nào được thừa nhận chung để làm trung gian cho việc mua bán hàng hóa. Chúng ta cần xác định rõ bản chất của đồng tiền đang được sử dụng để từ đó có thể nắm giữ chúng như một công cụ phục vụ cho ý muốn của con người.
15 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 1953 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng Tiền và lạm phát, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 5 : TIỀN VÀ LẠM PHÁT
I.TIỀN LÀ GÌ?
Ngày nay phần lớn các giao dịch kinh tế của chúng ta đều được thực hiện thông qua
tiền. Đối với cá nhân, tiền vừa là phương tiện vừa là mục đích của hoạt động kinh tế. Đối với
quốc gia, tiền được sử dụng như một công cụ điều tiết vĩ mô. Trong thực tế tiền tệ đã trải qua
nhiều hình thức, nhiều giai đoạn phát triển từ thấp đến cao theo thời gian của lịch sử và có
nhiều nhà kinh tế học đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về tiền chẳng hạn như: Tiền là một
hình thức tồn trữ tài sản để sẵn sàng cho các giao dịch hay tiền là bất cứ phương tiện nào
được thừa nhận chung để làm trung gian cho việc mua bán hàng hóa... Chúng ta cần xác định
rõ bản chất của đồng tiền đang được sử dụng để từ đó có thể nắm giữ chúng như một công cụ
phục vụ cho ý muốn của con người.
I.1. Chức năng của tiền
Tiền có 3 chức năng cơ bản thông dụng, đó là chức năng làm phương tiện trao đổi, phương
tiện cất giữ giá trị, phương tiện thanh toán.
a) Phương tiện trao đổi
Ý nghĩa của chức năng này là tiền được sử dụng như vật trung gian cho việc mua bán hàng
hóa. Đây là chức năng cơ bản nhất mà chúng ta đã dùng nó để đưa ra khái niệm về tiền.
Muốn trở thành một phương tiện trao đổi tốt thì hệ thống tiền tệ phải đủ cỡ: lớn, vừa và
nhở theo tỷ lệ phù hợp với cơ cấu kinh tế. Nếu nền kinh tế có nhiều loại hàng hóa có giá trị
thấp nhưng lại thiếu tiền lẻ thì sẽ gây khó khăn trong việc trong việc lưu thông hàng hóa.
Ngược lại, nếu nền kinh tế có nhiều loại hàng hóa có giá trị cao nhưng lại có ít tiền lẻ thì việc
di chuyển tiền bạc rất cồng kềnh, bất tiện.
Ví dụ ở Việt Nam, cuộc đổi tiền ngày 10/9/1985 với tờ giấy 50 đồng có giá trị lớn nhất
đã không thể chi tiêu được vì thiếu tiền lẻ. Lúc đó dân chúng đã tự hạn chế các cuộc giao dịch
nhỏ mà họ thấy không cần thiết lắm, làm thiệt hại cho sản xuất. Dưới thời Pháp thuộc, trước
năm 1945 cũng có hiện tượng thiếu tiền lẻ, dân chúng phải xé đôi tờ giấy bạc để trao đổi hàng
hóa.
Ngoài ra, nếu như đồng tiền bị mất giá trầm trọng thì cũng khó thực hiện chức năng
phương tiện trao đổi. Lúc đó mọi người không muốn bán hàng hóa để lấy những đồng tiền vô
giá trị. Cơ chế hàng đổi hàng lại xuất hiện trở lại. Nói cách khác, người ta không muốn dùng
đồng tiền đó để làm trung gian cho trao đổi hàng hóa. Điều này đã từng xảy ra ở nước Đức
vào năm 1923. khi tỷ lệ lạm phát lên đến 10 tỷ phần trăm!
b) Chức năng làm phương tiện cất trữ giá trị
Khi cất trữ một lượng tiền thì trong điều kiện giá cả không thay đổi, cũng có ý nghĩa là cất
trữ một lượng hàng hóa có giá trị tương đương. Vì vậy người ta sẵn sàng cất trữ giá trị hàng
hóa dưới dạng tiền tệ, để khi nào cần sử dụng hàng hóa thì mới mua. Dùng tiền để cất trữ giá
trị thuận tiện hơn cất trữ hàng hóa rất nhiều, bởi vì nó gọn nhẹ, kín đáo, dễ lưu động và khó hư
hỏng hơn nhiều loại hàng hóa khác.
Tiền có thực hiện được chức năng cất trữ giá trị thì mới thực hiện được chức năng cơ bản
của nó là làm phương tiện trao đổi. Sẽ không còn giá trị gì cả. Vì vậy đây là chức năng làm
điều kiện cho chức năng thứ nhất.
Tuy nhiên , cần lưu ý rằng tiền không nhất thiết là tốt nhất. Còn nhiều loại hàng hóa khác
có thể cất trữ giá trị rất tốt, chẳng hạn như nhà cửa, đất đai, vàng bạc hay cả một bộ sưu tâp
tem, một món đồ cổ,…Song những loại hàng hóa này cũng có những điểm bất tiện của nó.
Chẳng hạn như bạn muốn cất trữ giá trị dưới dạng đất đai thì đòi hỏi phải có một lượng tiền đủ
lớn; mặt khác, khi muốn chuyển đổi ra hàng hóa thì phải bán một mảnh đất đủ lớn và thường
là mất nhiều thời gian.
Tiền (cũng như tất cả các loại hàng hóa khác) muốn thực hiện tốt chức năng cất trữ giá trị
thì đòi hỏi giá trị của nó phải được ổn định hoặc tốt hơn là được gia tăng theo thời gian. Một
đồng tiền bị mất giá liên tục chắc chắn sẽ không ai muốn cất trữ nó, người ta sẽ chọn thứ khác
để cất trữ.
c) Chức năng phương tiện thanh toán
Ý nghĩa của chức năng này là khi bạn vay mượn tiền bằng đồng Việt Nam thì sau này số
tiền trả lại cũng bằng đồng Việt Nam.
Chức năng này cũng rất thuận lợi cho hoạt động kinh tế. Nó đã gắn tiền tệ với tín dụng. Mà
tín dụng ngày càng quan trọng đối với việc phát triển kinh tế. Vì vậy chức năng làm phương
tiện thanh toán cũng ngày càng quan trọng.
Thế nhưng chức năng này không phải lúc nào cũng được thực hiện. Có thể bạn vay bằng
tiền Việt Nam nhưng thanh toán lại sử dụng vàng hay một loại ngoại tệ mạnh nào đó. Điều đó
thường xuyên xảy ra khi đồng tiền dễ bị mất giá.
I.2.Các loại tiền
Theo lịch sử, tiền tệ đã trải qua 3 hình thái: tiền bằng hàng hóa, tiền qui ước và tiền qua
ngân hàng.
a) Tiền hàng hóa (commodity money)
Tiền hàng hóa xuất hiện sớm nhất và được lưu hành trong một thời gian rất dài. Thời điểm
xuất hiện vào thế kỷ13, 12 trước Công nguyên.
Tiền bằng hàng hóa hay “hóa tệ” là một quốc gia công nhận để làm vật trung gian cho việc
mua bán hàng hóa. Hóa tệ có hai loại: hóa tệ làm bằng kim loại và hóa tệ không phải là kim
loại.
Lúc đầu người ta sử dụng các loại hàng hóa thông thường như lúa mì, súc vật, lông thú,
rượu vang,… để làm tiền. Vỏ sò, vỏ hến cũng được dùng để làm tiền ở Châu Phi. Ở Tây Tạng
người ta sử dụng trà đóng thành bánh để làm tiền. Những chiếc răng chó ở quần đảo
Admiralty, những điếu thuốc lá ở trong tù,… cũng được dùng làm tiền.
Việc sử dụng hóa tệ không phải là kim loại có nhiều bất tiện. Trước hết, chúng chỉ được
công nhận trong một nhóm người hay một địa phương nào đó. Kế đến là dễ bị hư hỏng, không
thuận lợi trong việc di chuyển. Và trong nhiều trường hợp khó phân thành các đơn vị nhỏ khi
cần thiết. Vì vậy dần dần người ta sử dụng hóa tệ kim loại để thay thế các loại hóa tệ nói trên.
Hóa tệ kim loại được tồn tại ở một số loại thông dụng như sắt, đồng, kẽm, bạc, vàng. Càng
về sau vàng và bạc càng ngày được ưa chuộng, do chúng có nhiều ưu điểm hơn các kim loại
khác.
Nguyên tắc chung của hóa tệ là giá trị của tiền bằng với giá trị vật dùng làm tiền. Ví dụ: 1
đồng tiền vàng có giá trị ghi trên bề mặt là 1000 đồng thì điều đó có nghĩa là số lượng vàng và
tiền công đúc (nếu có) của đồng vàng đó có giá trị đúng bằng 1000 đồng. Chính nhờ nguyên
tắc này mà chúng ta có thể phân biệt giữa tiền bằng hàng hóa và tiền qui ước.
b) Tiền quy ước ( token money)
Tiền qui ước còn được gọi là chỉ tệ (fiat money) là loại tiền được lưu hành do chỉ thị hay
do sự cho phép của chính phủ. Nó được gọi là tiền qui ước bởi vì giá trị ghi trên mặt đồng tiền
là giá trị tượng trưng, nó lớn hơn rất nhiều so với vật dùng làm tiền. Nó là cái biểu thị cho một
lượng giá trị nào đó mà mọi người thừa nhận chung và tin vào đó để sử dụng. Do đó các nhà
kinh tế Việt Nam gọi tiền này là “tín tệ”, nghĩa là tiền tệ do sự tín nhiệm mà có.
Tiền qui ước cũng có hai loại: Tiền kim loại (coin) và tiền giấy (paper money). Cả hai dạng
này đều lưu hành trên thể giới.
Đối với tiền giấy thì có hai loại: tiền khả hoán (convertible paper money) và tiền giấy bất
khả hoán (inconvertible paper money).
Tiền giấy bất khả hoán xuất hiện vào thế kỷ 17, lần đầu tiên do ngân hàng Amsterdam của
Hà Lan thực hiên. Nhưng người được công nhận đã sáng tạo loại tiền giấy khả hoán theo đúng
nghĩa là ông Palmstruck, người sáng lập ngân hàng Stockhom của Thụy Điển, cũng vào thế kỷ
17. Ý nghĩa của đồng tiền này là khi có một lượng tiền nào đó bạn có thể đến nơi mà chính phủ
qui định để đổi lấy một lượng bạc hay vàng tương đương. Lượng quí kim đó được căn cứ vào
bản vị tiền tệ, là cái mà chính phủ dùng để định nghĩa giá trị một đơn vị tiền tệ quốc gia.
Tiền giấy bất khả hoán là loại tiền bắt buộc lưu hành, dân chúng không thể mang tiền đến
ngân hàng để đổi lấy vàng hay bạc. Ngày nay mọi quốc gia đều sử dụng tiền giấy bất khả hoán,
dân chúng đã quen và không ai nghĩ đến chuyện lấy tiền để đổi lấy vàng cả. Còn việc phát
hành tiền mà gây ra lạm phát là do bản thân khối lượng tiền phát hành không phù hợp với sức
sản xuất của quốc gia, làm cho đồng tiền bị mất giá. Phát hành tiền không có bảo chứng bằng
vàng hoàn toàn không phải là nguyên mhân gây ra lạm phát.
c) Tiền qua ngân hàng (bank money)
Tiền qua ngân hàng hay còn gọi là tiền ký thác hay tiền ký thác không kỳ hạn sử dụng séc
hay tiền ghi nợ. Đó là loại tiền được tạo ra từ tài khoản séc. Theo định nghĩa của một số nhà
kinh tế thì “ tiền ghi nợ là một phương tiện trao đổi dựa trên khoản nợ của một hãng tư nhân
hay một cá nhân”.
Khái niệm nợ ở đây là chỉ khoản nợ của ngân hàng đối với người mở tài khoản séc tại ngân
hàng. Khi mở tài khoản séc tức là người ta đưa vào ngân hàng một lượng tiền ký thác không kỳ
hạn. Người chủ tài khoản có thể viết một tờ séc (checque) cho mình hoặc một người nào đó để
yêu cầu ngân hàng thanh toán một lượng tiền khi tờ séc được xuất trình và chưa quá hạn.
Lượng tiền ký thác không kỳ hạn đó chính là tiền qua ngân hàng.
I.3. Tiền giấy hình thành như thế nào?
Sự ra đời của tiền là một cuộc cách mạng lớn trong hoạt động kinh tế. Một nền kinh tế
không dùng tiền sẽ rất bất tiện, bởi vì một mặt người ta bỏ ra nhiều thời gian và công sức cho
việc trao đổi hàng hóa, mặt khác gây lãng phí của cải không ít. Trong chế độ trao đổi hàng đổi
hàng, đòi hỏi phải có sự trùng hợp kép về nhu cầu. Ví dụ: một người có gạo muốn đổi lấy thịt
thì phải tìm gặp một người có thịt muốn lấy gạo. Điều đó thật khó khăn, nhất là khi xét đến cả
số lượng hàng hóa mà hai người muốn trao đổi với nhau điều đó dẫn đến sự xuất hiện của tiền
hàng hóa xuất hiện để hỗ trợ cho giao dịch: người ta sẽ chấp nhận một số tiền loại tiền hàng
hóa như vàng với một giá trị nào đó, hãy hình dung một nền kinh tế trong đó người ta mang
theo hàng túi vàng khi đi mua hàng. Khi một giao dịch mua bán được thỏa thuận, người mua
phải trả một số vàng tương ứng với giá trị giao dịch. Nếu người bán tin khối lượng và chất
lượng thì cả hai sẽ thực hiện cuộc giao dịch.
Chánh phủ là người đầu tiên can thiệp vào để giảm chi phí giao dịch của việc sử dụng
tiền hàng hóa. Sử dụng vàng thô như tiền thì rất tốn kém vì cần phải có thời gian để kiểm định
chất lượng và đo lường chính xác số lượng. Để giúp giảm chi phí, cháng phủ đóng dấu chất
lượng và khối lượng cho vàng, nên các đồng tiền vàng. Các đồng tiền vàng dễ sử dụng hơn do
giá trị của nó được công nhận rộng rãi.
Bước kế tiếp là chánh phủ phát hành các chứng chỉ vàng – mảnh giấy có thể thay thế
cho một lượng vàng nào đó. Nếu người ta tin vào lời hứa của chánh phủ, các mãnh giấy này sẽ
được xem có giá trị như chính số vàng mà nó đảm bảo bởi chánh phủ trở thành tiêu chuẩn tiền
tệ. Cuối cùng, tiền dựa trên giá trị không còn cần thiết. Không ai quan tâm nhiều đến việc đem
những tờ giấy này đổ thành vàng và cũng không ai quan tâm đến việc cơ hội chuyển đổ này có
thể bị hủy bỏ hay không vì nếu như vậy nền kinh tế sẽ bị sụp đổ. Miễn người ta chấp nhận
dùng tiền giấy để trao đổi thì chúng sẽ có giá trị và được xem như là tiền. Vì vậy, hệ thống tiền
hàng hóa trở thành hệ thống tiền giấy.
I.4 Làm thế nào để kiểm soát được lượng tiền?
Lượng tiền sẵn có để tiêu xài được gọi là số cung tiền. Trong nền kinh tế sử dụng tiền
hàng hóa, số cung tiền chính là số lượng hàng hóa đó. Trong nền kinh tế sử dụng tiền giấy như
nền kinh tế hiện nay, chánh phủ kiểm soát lượng tiền theo số cung tiền vì theo quy định của
pháp luật chánh phủ sẽ độc quyền in và phát hành tiền. Cũng như thuế hay chi tiêu chánh phủ
là các công cụ chánh sách của chánh phủ thì số cung tiền tệ cũng do chánh phủ quyết định.
Ở hầu hết quốc gia trên thế giới, kiểm soát số cung tiền là công việc của ngân hàng trung
ương. Số cung tiền được thực hiện trong khuôn khổ chánh sách tiền tệ. Một trong những cách
mà các ngân hàng trung ương kiểm soát số cung tiền tệ là thông qua các hoạt động trên thị
trường mở - đó là mua và bán các trái phiếu chánh phủ trên thị trường. Để tăng số cung tiền,
ngân hàng trung ương sử dụng tiền để mua trái phiếu chính phủ từ công chúng. Việc mua này
làm tăng số cung tiền ngân hàng trung ương sẽ bán đi trái phiếu chánh phủ mà mình sở hữu.
Việc bán trái phiếu chánh phủ này sẽ lấy bớt tiền ra khỏi lưu thông.
I.5. Làm thế nào để định lượng được tiền?
Để đo được mức cung tiền tệ trên thị trường người ta đưa khái niệm khối tiền tệ.
Loại tài sản đầu tiên được bao gồm trong tổng lượng tiền là tổng tiền giấy cộng với tiền
kim loại. Hầu hêt các giao dịch hàng ngày đều sử dụng tiền giấy hay kim loại để làm phương
tiện giao dịch và chúng được ký hiệu là C.
Loại tài sản thứ hai được sử dụng trong giao dịch là các khoản tiền gửi không kỳ hạn –
đó là các khoản tiền gửi ngân hàng không kỳ hạn mà người mở tài khoản có thể rút bất kỳ lúc
nào từ tài khoản séc. Hầu hết người bán đều chấp nhận séc, tài khoản nằm trong tài khoản séc
tiện lợi gần như tiền giấy hay tiền kim loại vì trong cả hai trường hợp tài sản đang ở hiện
trạng thái sẵn sàng cho các giao dịch. Các khoản tiền gửi không kỳ hạn vì vậy được cộng vào
tiền giấy và tiền kim loại khi đo lường số lượng tiền.
Khi cho rằng các khoản tiền gửi không kỳ hạn nên được bao gồm vào số lượng tiền thì
cũng nên bao gồm một số loại tiền khác.Tiền trong tiết kiệm, chẳng hạn, có thể dễ dàng
chuyển thành séc nên cũng râts thuận tiện cho các giao dịch. Các quỹ lợi ích song phương cho
phép các nhà đầu tư phát hành séc dựa trên đó mặc dù có sự hạn chế về quy mô séc và số
lượng phát hành. Do các tài sản này không dễ sử dụng trong các giao dịch nên đôi khi người ta
ngại bao gồm chúng vào lượng tiền.
Do không biết chính xác loại tài sản nào nên được bao gồm vào trong số lượng tiền nên
có nhiều số đo tiền được sử dụng. Bảng số đo tiền dưới đây sẽ cho ta biết một cách chi tiết hơn:
Ký hiệu Tài sản đựợc bao gồm
C Tiền giấy và tiền kim loại
M1 C, tiền gửi không kỳ hạn, séc du lịch và các khoản séc khác
M2 M1, các đồng mua bán, Euro, dollar, tài khoản tiền gửi thị trường tiền tệ, cổ phần
Các quỹ cùng có lợi, tiền gửi tiết kiệm và có kỳ hạn ngắn
M3 M2, tiền gửi có kỳ hạn dài và các hợp đồng mua bán có kỳ hạn
L M3, các trái phiếu tiết kiệm, trái phiếu kho bạc, và các tài sản thanh khoản khác
II. LÝ THUYẾT ĐỊNH LƯỢNG TIỀN TỆ
II.1. Giao dịch và phương trình định lượng
Người ta giữ tiền để mua hàng hóa, dịch vụ. Nếu cần thiết cho các giao dịch này thì
người ta sẽ giữ nhiều tiền. Vì vậy, số lượng tiền trong nền kinh tế có liên hệ chặt chẽ với số
lượng tiền sử dụng trong các giao dịch.
Mối quan hệ giữa số lượng tiền sử dụng trong các khoản giao dịch và lượng tiền được
diễn tả qua đẳng thức sau, được gọi là phương trình định lượng:
M x V= P x T
Trong đó: M: Số lượng tiền
V: Tốc độ chu chuyển tiền
P: Giá
T: Số lần giao dịch
Hãy xem xét từng biến số một trong phương trình này. Vế phải của phương trình này đề
cập đến giao dịch trên thị trường hàng hóa, dịch vụ. T cho biết số lượng giao dịch trong một
khoảng thời gian nào đó, một năm chẳng hạn. Nói cách khác, T là số lần mà trong đó hàng
hóa, dịch vụ được trao đổi thành tiền. P là giá của một giao dịch tiêu biểu hay số tiền được trao
đổi. Như vậy tích số PxT chính là số tiền được trao đổi trong một năm.
Vế trái của phương trình này đề cập đến tổng số lượng tiền được sử dụng trong giao
dịch
Ví dụ: Trong một năm 100 chiếc xe ôtô được bán với giá 1000 đvt. Khi đó T=100 và
P=1000. Như vậy, tổng số tiền giao dịch là:
PxT= 1000đvt/chiếc x 100 chiếc/ năm =100000đvt/ năm.
Giả sử số lượng tiền của nền kinh tế là M=50000đvt. Khi đó tốc độ chu chuyển tiền V
trên thị trường là:
V = (P xT)/ M = (100000 đvt/ năm)/(50000đvt)= 2 lần/ năm
Phương trình định lượng này rất hữu ích vì nó cho biết một trong các biến số này thay
đổi thì một hay nhiều biến số khác thay đổi để duy trì sự cân bằng trong nền kinh tế.
II.2. Từ giao dịch đến thu nhập
Các nhà kinh tế sử dụng phương trình định lượng khác đôi chút so với phương trình
định lượng được giới thiệu trên. Khó khăn đối với phương trình định lượng trên là làm thế nào
để đo lường được số giao dịch. Để giải quyết vấn đề này, số giao dịch T được thay thế bằng
sản lượng của nền kinh tế Y.
Số giao dịch và sản lượng có mối quan hệ chặt chẽ vì nếu sản lượng nhiều hơn thì nhiều
hàng hóa, dịch vụ mua bán hơn. Tuy nhiên, chúng không hoàn toàn giống nhau. Thí dụ: Khi
một cá nhân bán một chiếc xe sử dụng cho ai đó, cá nhân này đã tạo ra một giao dịch sử dụng
tiền mặc dù chiếc xe này không phải là một bộ phận của sản lượng hiện thời. Tuy nhiên, giá trị
giao dịch xấp xỉ giá trị sản lượng.
Nếu ký hiệu Y cũng là sản lượng và P là giá của mỗi đơn vị sản lượng thì giá trị sản
lượng là PY. Chúng ta đã gặp ký hiệu này trong hệ thống tài khoản quốc gia ở Chương 2, trong
đó Y là GDP thực, P là chỉ số điều chỉnh GDP, và PY chính là GDP danh nghĩa. Như vậy,
phương trình định lượng trở thành:
M xV = P xY
Do Y là thu nhập nên V trong trường hợp này được gọi là tốc độ chu chuyển tiền tệ
theo thu nhập. Tốc độ chu chuyển này cho chúng ta biết số lần tiền đi vào thu nhập trong một
khoảng thời gian nào đó.
II. 3. Số cầu tiền tệ và phương trình định lượng
Để tiện lợi hơn khi biểu thị số lượng tiền tệ thông qua số lượng hàng hóa, dịch vụ có
thể mua được. Con số này chính là M/P và được gọi là tiền tệ thực.
Tiền tệ thực đo lường sức mua của một số lượng tiền nào đó. Thí dụ, hãy xét xem một
nền kinh tế chỉ sản xuất bánh mì. Nếu số lượng tiền là 10 đvt và giá của một ổ bánh mì là 0.5
đvt/ ổ thì số lượng tiền thực của nền kinh tế là 20 ổ bánh mì. Nghĩa là, số lượng tiền trong nền
kinh tế đủ mua 20 ổ bánh mì ở mức giá trị hiện tại.
Hàm số cầu đổi với tiền là một phương trình cho biết yếu tố quyết định số lượng tiền
thực mà người ta muốn có. Hàm số cầu đối với tiền đơn giản là:
(M/P)d = kY
Trong đó k là hằng số. Hàm số này cho biết số lượng tiền thực mà người ta cần tỷ lệ
với thu nhập thực Y.
Hàm số cầu đối với tiền cũng giống như số cầu hàng hóa khác. Ở đây, hàng hóa tiện
lợi của việc cất giữ một số tiền nào đó. Cũng giống như việc sở hữu một chiếc xe máy giúp đi
lại dễ dàng hơn. Vì vậy, cũng giống như thu nhập cao hơn sẽ có thể làm tăng nhu cầu đối với
xe máy, thu nhập cao hơn sẽ dẫn đến nhu cầu đối với tiền tệ thực cao hơn.
Từ hàm số cầu tiền tệ thực này, ta có thể xây dựng nên phương trình định lượng. Để
làm điều này, ta phải làm thêm điều kiện là số cầu đối với tiền thực (M/P) d phải bằng với số
cung tiền tệ thực M/P. Vì vậy:
M/P = kY
Sắp xếp lại đẳng thức này, ta được:
M/k = PY hay MV = PY
Trong đó: V = 1/k. Vì vậy, khi sử dụng phương trình định lượng, ta phải giả định là
số cung tiền tệ thực bằng với số cầu của nó và số cầu là một tỷ lệ nào đó của thu nhập.
II.4. Tốc độ chu chuyển tiền cố định
Cũng giống như nhiều giả định trong kinh tế học, ta có thể cho rằng giả định tốc độ
chu chuyển cố định là chính xác ở mức độ tương đối nào đó. Tốc độ chu chuyển thay đổi khi
hàm số cầu tiền tệ thay đổi. Thí dụ, khi máy rút tiền tự động xuất hiện cho phép giảm số tiền
tệ cần phải cất giữ nên cũng làm giảm tham số nhu cầu đối với tiền tệ k. Loại máy này cũng
làm tăng tốc độ chu chuyển của tiền trong nền kinh tế hay làm tăng V. Tuy nhiên, giả định
rằng tốc độ chu chuyển là số cố định và xem giả định này có tác dụng như thế nào đối với số
cung tiền tệ lên nền kinh tế.
Khi đã giả định tốc độ chu chuyển là cố định, phương trình định lượng có thể được
xem như là một lý thuyết về GDP danh nghĩa. Phương trình định lượng này nói rằng:
MV = PY
Trong đó V cho biết tốc độ chu chuyển tiền cố định. Vì vậy, sự thay đổi trong đó cung
tiền tệ (M) sẽ tạo ra sự thay đổi tương ứng của GDP danh nghĩa (PY). Nghĩa là, số cung tiền sẽ
quyết định GDP danh nghĩa của nền kinh tế.
II.5. Tiền và lạm phát
Do lạm phát là số phần trăm thay đổi của giá nên lý thuyết này cũng chính là lý thuyết
lạm phát . Phương trình định lượng có thể viết dưới dạng phần trăm như sau:
%thay đổi của M + % thay đổi của V = %thay đổi của P + % thay đổi của Y
Hãy nghi