2.1. Tìm ý chính của đoạn văn:
Ý chính của đoạn văn là ý bao trùm, ý chung mà tất cả các câu trong
đoạn đều tập trung thể hiện.
Có hai trường hợp thể hiện ý chính:
[1] Trường hợp đoạn văn có câu chủ đề ( đặc ở đầu – giữa – cuối)
thì câu chủ đề là câu nêu lên ý chính.
[2] Trường hợp đoạn văn không có câu chủ đề (thì các câu trong
đoạn nêu lên ý chung nhất trong toàn đoạn)
Vd 1: Nghệ thuật thơ trong Nhật kí trong tù thật là phong phú (1). Có
bài là lời phát biểu trực tiếp, đọc hiểu ngay(2). Có bài lại dùng lời
ngụ ngôn rất thâm thúy(3). Đó là cái thâm thúy đầy trí tuệ và hết
sức uyên bác của một học giả phương Đông(4). Lại có bài tự sự, có
bài trữ tình(5). Lại có bài châm biếm(6).Nghệ thuật châm biếm
cũng nhiều vẻ(7). Khi thì tiếng cười mỉa mai(8). Khi thì tiếng cười
phẫn nộ(9).Cũng có khi đằng sau tiếng cười là nước mắt(10).Vd 2: Thú mỏ vịt ngày nay còn mang nhiều đặc điểm của loài bò
sát(1). Ngoài ra cấu tạo hoá thạch của một số loài bò sát sống ở
Đại Trung Sinh đã có một số đặc điểm của giống thú: có răng
mọc trong lỗ chân răng ở xương hàm (2).Vì vậy, bò sát cổ hẳn
phải là tổ tiên của loài thú (3).
Vd 3: Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay
chém giết những người yêu nước thương nòi của chúng ta.
Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong các bể máu. (Hồ
Chí Minh)
Vd 4: Cờ mọc trước cửa mỗi nhà. Cờ bay lên những ngọn cây xanh
lá. Cờ đậu trên tay những người đang lũ lượt đổ về chợ. Trên
dòng sông mênh mông, bao nhiêu là xuồng với những lá cờ mỗi
lúc mỗi gần nhau, đổ về bến chợ. Xuồng nối nhau san sát, kết
thành một chiếc bè đầy cờ, bập bềnh trên sóng. (Theo Nguyễn
Quang Sáng)
25 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 1229 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Tiếng Việt thực hành - Chương III: Phân tích, tạo lập văn bản - đoạn văn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. PHÂN TÍCH VĂN BẢN:
Hằng ngày chúng ta luôn tiếp xúc với nhiều loại văn bản khác
nhau. Muốn hiểu và đánh giá được giá trị của chúng, cần tiến
hành phân tích văn bản. Phận tích văn bản chính là hoạt động
nằm trong quá trình lĩnh hội văn bản, một trong hai quá trình
giao tiếp. Sau đây cần nắm một số thao tác cần thiết để tiến hành
phân tích một văn bản.
* Người viết văn bản và đối tượng giao tiếp mà văn bản hướng tới.
* Hoàn cảnh giao tiếp văn bản
* Loại hình văn bản
* Đề tài của văn bản
* Chủ đề của văn bản
II. PHÂN TÍCH ĐOẠN VĂN:
1. Quan niệm về đoạn văn:
Đoạn văn là đơn vị cơ sở cấu thành văn bản, trực tiếp đứng trên
câu, diễn đạt một nội dung nhất định, được mở đầu bằng chỗ lùi
đầu dòng, viết hoa và kết thúc bằng dấu chấm ngắt đoạn.
2. Phân tích đoạn văn:
- Khi phân tích đoạn văn trong văn bản, chúng ta cần lần lượt làm sáng
tỏ một số vấn đề sau:
TÌM Ý
CHÍNH
CỦA
TỪNG
ĐOẠN
VĂN
CÁCH
LẬP
LUẬN
CỦA
ĐOẠN
VĂN
PHƯƠNG
THỨC
LIÊN KẾT
CÁC CÂU
TRONG
ĐOẠN
VĂN
2.1. Tìm ý chính của đoạn văn:
Ý chính của đoạn văn là ý bao trùm, ý chung mà tất cả các câu trong
đoạn đều tập trung thể hiện.
Có hai trường hợp thể hiện ý chính:
[1] Trường hợp đoạn văn có câu chủ đề ( đặc ở đầu – giữa – cuối)
thì câu chủ đề là câu nêu lên ý chính.
[2] Trường hợp đoạn văn không có câu chủ đề (thì các câu trong
đoạn nêu lên ý chung nhất trong toàn đoạn)
Vd 1: Nghệ thuật thơ trong Nhật kí trong tù thật là phong phú (1). Có
bài là lời phát biểu trực tiếp, đọc hiểu ngay(2). Có bài lại dùng lời
ngụ ngôn rất thâm thúy(3). Đó là cái thâm thúy đầy trí tuệ và hết
sức uyên bác của một học giả phương Đông(4). Lại có bài tự sự, có
bài trữ tình(5). Lại có bài châm biếm(6).Nghệ thuật châm biếm
cũng nhiều vẻ(7). Khi thì tiếng cười mỉa mai(8). Khi thì tiếng cười
phẫn nộ(9).Cũng có khi đằng sau tiếng cười là nước mắt(10).
Vd 2: Thú mỏ vịt ngày nay còn mang nhiều đặc điểm của loài bò
sát(1). Ngoài ra cấu tạo hoá thạch của một số loài bò sát sống ở
Đại Trung Sinh đã có một số đặc điểm của giống thú: có răng
mọc trong lỗ chân răng ở xương hàm(2).Vì vậy, bò sát cổ hẳn
phải là tổ tiên của loài thú (3).
Vd 3: Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay
chém giết những người yêu nước thương nòi của chúng ta.
Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong các bể máu. (Hồ
Chí Minh)
Vd 4: Cờ mọc trước cửa mỗi nhà. Cờ bay lên những ngọn cây xanh
lá. Cờ đậu trên tay những người đang lũ lượt đổ về chợ. Trên
dòng sông mênh mông, bao nhiêu là xuồng với những lá cờ mỗi
lúc mỗi gần nhau, đổ về bến chợ. Xuồng nối nhau san sát, kết
thành một chiếc bè đầy cờ, bập bềnh trên sóng. (Theo Nguyễn
Quang Sáng)
Vd 5. Hoa mận vừa tàn thì mùa xuân đến. Bầu trời càng thêm xanh.
Nắng vàng ngày càng rực rỡ. Vườn cây lại đâm chồi nẩy lộc. Rồi
vườn cây ra hoa. Hoa bưởi nồng nàn. Hoa nhãn ngọt. Hoa cau
thoảng qua. Rồi vườn cây lại đầy tiếng chim và bóng chim bay
nhảy. Những thím chích chòe nhanh nhảu. Những chú khướu lắm
điều. Những anh chào mào đỏm dáng. Những bác cu gáy trầm
ngâm.
Vd 6. Đã có hàng loạt đợt ra quân rầm rộ phòng chống mà túy ở
trường học, giảng đường. Nhiều văn bản phòng chống ma túy đã
được kí kết giữa các ban ngành, đoàn thể tại nhiều tỉnh thành.
Nhiều điểm buôn bán hêroin bị phanh phui. Mới đây tòa án nhân
dân Hà Nội đã tuyên nhiều án tử hình về tội buôn bán ma túy.
2.2. Tìm hiểu cách lập luận (cấu trúc) trong đoạn văn:
Lập luận là đưa ra một hoặc một số luận cứ (lí lẽ) nhằm dẫn dắt
người nghe, người đọc đến một kết luận nào đấy mà người viết,
người nói muốn đạt tới.
* Các phương pháp lập luận (cấu trúc) thường gặp trong đoạn văn:
Phương pháp lập luận Diễn dịch
Quy nạp
Tổng–Phân–Hợp
Song hành
Móc xích
So sánh
Nhân quả
Chú ý: Tùy vào từng nội dung người viết có thể sử dụng một hoặc nhiều
thao tác lập luận trong đoạn.
Vd: Quan lại vì tiền mà bất chấp công lý. Sai nha vì tiền mà tra tấn cha
con Vương Ông. Tú Bà, Mã Giám Sinh, Bạc Hạnh Bạc Bà vì tiền mà
làm nghề buôn thịt bán người. Sở Khanh vì tiền mà táng tận lương
tâm. Khuyển Ưng vì tiền mà lao vào tội ác. Cả một xã hội chạy theo
đồng tiền.
a. Lập luận diễn dịch: Là đoạn có câu chủ đề (câu khái quát ý chính
toàn đoạn) nằm ở vị trí đầu đoạn, các câu còn lại triển khai, cụ thể
hóa cho nó.
Lược đồ: (1)
(2) (n)
Vd. Hoa mận vừa tàn thì mùa xuân đến. Bầu trời càng thêm xanh.
Nắng vàng ngày càng rực rỡ. Vườn cây lại đâm chồi nẩy lộc. Rồi
vườn cây ra hoa. Hoa bưởi nồng nàn. Hoa nhãn ngọt. Hoa cau
thoảng qua. Rồi vườn cây lại đầy tiếng chim và bóng chim bay
nhảy. Những thím chích chòe nhanh nhảu. Những chú khướu lắm
điều. Những anh chào mào đỏm dáng. Những bác cu gáy trầm
ngâm.
Vd: Dế Mèn được trẻ em yêu thích trước hết vì chú có ý muốn sống
độc lập từ thuở bé. Chú cần cù làm việc và vui thích khi được mẹ
cho ở riêng. Đáng yêu biết bao là hình ảnh chú dế cường tráng, tay
chân nở nang, thân hình vạm vỡ vì chú chăm chỉ rèn luyện thân thể.
b. Lập luận quy nạp: Trái ngược với diễn dịch, là đoạn văn có câu
chủ đề đặt ở vị trí cuối đoạn như là sự đúc kết lại nội dung của các
câu đã trình bày trước nó.
Lược đồ: (2) (1)
(n)
Vd: Quan lại vì tiền mà bất chấp công lý. Sai nha vì tiền mà tra tấn
cha con Vương Ông. Tú Bà, Mã Giám Sinh, Bạc Hạnh Bạc Bà vì
tiền mà làm nghề buôn thịt bán người. Sở Khanh vì tiền mà táng
tận lương tâm. Khuyển Ưng vì tiền mà lao vào tội ác. Cả một xã hội
chạy theo đồng tiền. (Hoài Thanh)
Vd: Nhìn xuống cánh đồng có đủ các màu xanh: xanh pha vàng của
ruộng mía, xanh rất mượt của lúa chiêm đang thì con gái, xanh
đậm của những rặng tre, đây đó có một vài cây phi lao xanh biếc và
rất nhiều màu xanh khác nữa. Cả cánh đồng thu gọn trong tầm mắt,
làng nối làng, ruộng tiếp ruộng. Cuộc sống nơi đây có một cái gì
mặn mà ấm áp. (Thanh Tịnh)
c. Lập luận “Tổng – phân – hợp”: Là kiểu phối hợp cả diễn dịch và
quy nạp, là đoạn văn có câu chủ đề mang ý nghĩa khái quát của
đoạn, các câu tiếp theo triển khai, cụ thể hóa câu đầu và câu cuối
đoạn là sự đúc kết lại những nội dung đã trình bày trong những câu
đứng trước.
Lược đồ: (1)
(2) (3)
(n)
Vd: Biển luôn thay đổi màu tùy theo sắc của trời. Trời xanh thẳm, biển
cũng thẳm xanh, như dâng cao lên, chắc nịch. Trời rải mây trắng
nhạt, biển mơ màng dịu hơi sương. Trời âm u mây mưa, biển xám
xịt, nặng nề. Trời ầm ầm dông gió, biển đục ngầu giận dữ. Như một
con người biết vui buồn, biển lúc tẻ nhạt, lạnh lùng, lúc sôi nổi, hả
hê, lúc đăm chiêu, gắt gỏng. (Vũ Tú Nam)
d. Lập luận song hành: Là đoạn văn không có câu chủ đề, mỗi câu
trong đoạn triển khai một hướng của chủ đề chung toàn đoạn, các
câu có quan hệ ngang hàng nhau, bình đẳng nhau về ngữ pháp.
Lược đồ:
(1) (2) (n)
Vd: Ca dao là bầu sữa nuôi dưỡng tuổi thơ. Ca dao là hình thức trò
chuyện tâm tình của những tràng trai, cô gái. Ca dao là tiếng nói
biết ơn, tự hào về công đức của tổ tiên và anh linh của những người
đã khuất. Ca dao là phương tiện bộc lộ nỗi tức giận hoặc lòng hân
hoan của người sản xuất.
Vd: Trời nắng chang chang, tiếng tu hú gần xa ran ran. Hoa ngô xơ
xác như hoa cỏ may. Lá ngô quắt lại rủ xuống. Những bắp ngô đã
mập và chắc, chỉ còn chờ tay người đến bẻ mang về. (Nguyên
Hồng)
e. Lập luận móc xích: Là đoạn văn không có câu chủ đề, chủ đề đoạn
được triển khai theo hướng ý của câu sau kế tục ý của câu trước, cứ
thế cho đến hết đoạn.
Lược đồ: (1)
(2)
(n)
Vd: Muốn tăng gia sản xuất thì phải làm thủy lợi. Muốn làm thủy lợi
thì phải có nhiều người, có sức lớn. Muốn vậy phải có hợp tác xã.
(Hồ Chí Minh)
Vd: Những lúc say sưa cũng muốn chừa. Muốn chừa nhưng tính lại
hay ưa. Hay ưa nên nỗi không chừa được. Chừa được nhưng ta
cũng chẳng chừa. (Chừa rượu – Nguyễn Khuyến)
Ngoài ra còn có đoạn văn được lập luận theo cấu trúc: Đặc biệt, nhân
quả, so sánh
* Thực hành bài tập xác định câu chủ đề (ý chính) và cấu trúc lập luận
trong đoạn văn:
Vd: Lòng sông rộng, nước xanh trong. Giữa khoảng trời nước mênh
mông ấy, thuyền êm trôi xuôi dòng khơi vơi trong bến mộng. Trời
chiều bảng lảng rơi dần vào hoàng hôn, trăng lơ lửng giãi xuống bàng
bạc. Sương mung lung giăng đầy trời đất.
Vd: Tôi quyết trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại
phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện
cùng lúc một hồn thơ rộng như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư,
hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo
não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan
Viên và rạo rực băn khoăn như Xuân Diệu. (Hoài Thanh).
Vd: Đọc thơ Nguyễn Trãi, nhiều người đọc khó mà biết có đúng là thơ
Nguyễn Trãi không. Đúng là thơ nguyễn Trãi rồi thì cũng không phải
là dễ hiểu đúng. Lại có khi chữ hiểu đúng, câu hiểu đúng mà toàn bài
không hiểu. Không hiểu vì không biết chắc bài thơ được viết ra lúc
nào trong cuộc đời nhiều chìm nổi của Nguyễn Trãi”.
2.2. Tìm hiểu sự liên kết giữa các câu trong đoạn văn:
Liên kết trong văn bản, đoạn văn là mạng lưới liên hệ chặt chẽ giữa
các câu, các mối quan hệ nội dung, hình thức trong văn bản, đoạn văn.
Vd: Con chó này bướng lắm. Dạy chỉ phí công.
Thần Chết hỏi: Làm sao bà tới đây được?
"Người pháp đổ máu đã nhiều. Dân ta hi sinh cũng không ít".
Để liên kết, phải sử dụng các yếu tố ngữ âm (vần, nhịp, số lượng âm
tiết, thực từ, hư từ, cụm từ, cấu trúc câu) theo một phương thức nhất
định.
* Có các phương thức liên kết như sau:
a. Phương thức lặp: Là cách dùng đi dùng lại một yếu tố ngôn ngữ, ở
những bộ phận khác nhau của văn bản, đoạn văn nhằm liên kết chúng
lại với nhau.
+ Lặp từ ngữ: Vd. Buổi sáng, Bé dậy sớm ngồi học bài (1). Dậy sớm học
bài là một thói quen tốt(2). Nhưng phải cố gắng lắm mới có được thói
quen ấy(3). Rét ghê, thế mà Bé vùng dậy, chui ra được khỏi cái chăn
ấm(4). Bé ngồi học bài(5).
Vd: Lực lượng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là rất to
lớn. Nhưng lực lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo mới chắc chắn
thắng lợi. (Hồ Chí Minh)
+ Lặp ngữ âm: Vd: Muôn ngàn đời biết ơn chiếc gậy tầm vông đã
dựng lên Thành đồng tổ quốc. Và sông Hồng bất khuất có cái
chông tre. (Thép Mới); hoặc bài Thu điếu - Nguyễn Khuyến
+ Lặp cấu trúc (cú pháp):
Vd. "Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự
do dân chủ nào".
"Về kinh tế, chúng bốc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho
nhân dân ta ngèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều".
(Hồ Chí Minh)
Cả hai câu cùng mô hình: Đn – C - V
b. Phương thức thế: Là cách thay những từ ngữ nhất định bằng
những từ ngữ có ý nghĩa tương đương nhằm tạo tính liên kết giữa
các phần văn bản, đoạn văn chứa chúng.
+ Thế đại từ: Vd."Rõ ràng Trống Choai của chúng ta đã hết tuổi bé
bỏng thơ ngây. Chú chẳng còn phải quấn quýt quanh chân mẹ nữa
rồi.”
Vd: Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống. Nó do đấu
tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố.
+ Thế từ đồng nghĩa, gần nghĩa: Vd."Nghe chuyện Phù Đổng Thiên
Vương, tôi tưởng tượng đến một trang nam nhi, sức vóc khác
người, nhưng tâm hồn còn thô sơ giản dị, như tâm hồn tất cả mọi
người thời xưa(1). Tráng sĩ ấy gặp lúc quốc gia lâm nguy đã xông
pha ra trận đem sức khỏe mà đánh tan giặc, nhưng bị thương
nặng(2). Tuy thế người trai làng Phù Đổng vẫn còn ăn một bữa
cơm..“(3) (Nguyễn Đình Thi)
Vd: Sài Gòn làm cho thế giới kinh ngạc. Sức sống của thành phố
mãnh liệt không sao tưởng nổi.
Vd: Một cái mũ len xanh nếu chị sinh con gái. Chiếc mũ sẽ đỏ tươi
nếu chị đẻ con trai.(Anh Đức)
c. Phương thức liên tưởng: Là cách sử dụng những từ ngữ chỉ những
sự vật có thể nghĩ đến theo một định hướng nào đó, xuất phát từ
những từ ngữ ban đầu, nhằm tạo ra mối liên kết giữa các phần chứa
chúng trong văn bản, đoạn văn.
Vd: Cây lá, cành, quả, rễ...
Quân đội Sĩ quan, binh lính, vũ khí...
Chiến tranh Hi sinh, tàn khốc, đau thương...
+ Liên tưởng đồng loại:
Vd. Cóc chết bỏ nhái mồ côi
Chẫu ngồi chẫu khóc: Chàng ôi là chàng!
Ễnh ương đánh lệnh đã vang!
Tiền đâu mà trả nợ làng ngóe ơi!
Vd: Chim chóc cũng đua nhau đến hồ làm tổ. Những con sít lông tím,
mỏ hồng kêu vang như tiếng kèn đồng. Những con bói cá mỏ dài
lông sặc sỡ. Những con cuốc đen trũi len lủi giữa các bụi ven bờ.
+ Liên tưởng về số lượng: Vd. Năm hôm, mười hôm...Rồi nửa tháng,
lại một tháng.(Nguyễn Công Hoan)
+ Liên tưởng định vị: Vd. Nhân dân là bể - Văn nghệ là thuyền.
Vd: Hà Nội có Hồ Gươm
Nước xanh như pha mực
Bên hồ ngọn tháp bút
Viết thơ lên trời cao (Trần Đăng Khoa)
+ Liên tưởng theo đặc trưng sự vật.
Vd: Mặt trời lên bằng hai con sào thì ông về đến con đường nhỏ rẽ về
làng. Không cần phải hỏi thăm nữa cũng nhận ra rặng tre ở trước
mặt kia là làng mình rồi. Cái chấm xanh sẫm nhô lên đó là cây đa
đầu làng. Càng về đến gần càng trông rõ những quán chợ khẳng
khiu nấp dưới bóng đa. (Nguyễn Địch Dũng)
Làng được đặc trưng bằng rặng tre, cây đa, quán chợ
d. Phương thức nghịch đối: Là sử dụng những từ ngữ trái nghĩa vào
những bộ phận khác nhau có liên quan trong văn bản, đoạn văn, có
tác dụng liên kết các bộ phận ấy lại với nhau.
Vd. Gia đình mất hẳn vui. Bà khổ, Liên khổ, mà ngay chính cả y
cũng khổ. (Nam Cao)
Vd. Những vấn đề vật chất giải quyết không khó đâu. Bây giờ các
đồng chí gặp khó khăn, theo tôi nghĩ một phần lớn là do không có
người quản lí. Có người quản lí rất tận tụy, đồng thời rất kiên trì,
thì giải quyết được rất nhiều việc. (Phạm Văn Đồng)
Vd. Dẫu sao thì tôi vẫn mắc nợ anh ấy một chút lòng tử tế. Gặp lúc
cần đến tôi, tôi phải lấy sự tự tế ra mà đối lại. Không lẽ tôi ghẻ
lạnh? Tôi đành xếp tập giấy đang viết dở lại, đi theo anh ấy vậy
(Nam Cao)
e. Phương thức nối: Là cách dùng những từ ngữ sẵn mang ý nghĩa
chỉ quan hệ, và chỉ các quan hệ cú pháp khác trong câu, vào mục
đích liên kết các phần trong văn bản, đoạn văn.
+ Nối bằng kết từ: (và, với, thì, mà, còn, nhưng, vì, nếu, tuy, cho nên..)
Vd. Nguyễn Trãi sẽ sống mãi trong trí nhớ và tình cảm của người Việt
Nam. Và chúng ta phải làm cho tên tuổi và sự nghiệp của Nguyễn
Trãi rạng rỡ ra ngoài bờ cõi nước ta. (Phạm Văn Đồng)
+ Nối bằng kết ngữ: (vì vậy, do đó, bởi thế, tuy vậy, nếu vậy, vậy mà,
vậy nên, thế thì, với lại, vả lại...hay nghĩa là, trên đây, tiếp theo,
nhìn chung, tóm lại, một là, ngược lại...)
Vd. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế
này hay thế khác đều dòng dõi tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan
hồng đại độ, ta phải nhận rằng đã là con Lạc, cháu Hồng thì ai
cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. (Hồ Chí Minh)
Vd. Một hòi còi khàn khàn vang lên. Tiếp theo là những tiếng bước
chân bình bịch, những tiếng khua rội rã: phu nhà máy rượu bia
chạy vào làm. (Nam Cao)
+ Nối bằng trợ từ, phụ từ, tính từ: (Cũng, cả, lại, khác, chỉ, là, vẫn...)
Vd. "Tôi biết trong vụ này anh không phải là thủ phạm. Thủ phạm là
người khác cơ".
Vd: Gà lên chuồng từ lúc nãy. Hai bác ngan cũng đã ì ạch về chuồng
rồi. Chỉ duy có hai chú ngỗng vẫn tha thẩn đứng giữa sân. (Tô
Hoài)
g. Phương thức dùng câu hỏi và tỉnh lược
Vd: “Hạnh phúc là gì? Một số người cho đó là sự thỏa mãn.”(Vd 1.
2 tr 52 GT)
2.3. Tìm hiểu bố cục và lập luận toàn văn bản.
- Văn bản bao giờ cũng có kết cấu 3 phần rõ rệt:
Phần mở đầu
Phần phát triển
Phần kết thúc
2.4. Tái tạo đề cương văn bản. (xem giáo trình)
Thực hành viết lại đề cương văn bản “Chống thói ba hoa” (Giáo
trình – tr 57)
III. TẠO LẬP VĂN BẢN
Tạo lập văn bản là một trong hai quá trình lớn của hoạt động giao
tiếp bằng văn bản (tạo lập và lĩnh hội). Nó không đơn thuần chỉ là
việc viết văn bản, mà bao gồm nhiều giai đoạn, tạo nên một quy
trình. Có các giai đoạn sau đây:
1. Định hướng - xác định các nhân tố giao tiếp của văn bản.
Việc xác định này cần đảm bảo các nhân tố:
Viết cho ai? (nhân vật giao tiếp)
Viết cái gì? (nội dung giao tiếp)
Viết để làm gì? (mục đích giao tiếp)
Viết như thế nào? (hoàn cảnh và cách thức giao tiếp)
2. Lập đề cương cho văn bản.
a. Xác định mục đích, yêu cầu việc lập đề cương: (xem Giáo trình)
b. Một số loại đề cương thường dùng: Có 2 loại đề cương sơ giản và
đề cương chi tiết.
c. Các thao tác lập đề cương cho văn bản:
[1] Xác lập các thành tố nội dung trong đề cương: Các thành tố nội
dung là các bộ phận của chủ đề văn bản, các ý lớn, ý nhỏ, các luận
điểm lớn, nhỏ và các luận cứ thuộc các loại khác nhau. Việc xác lập
các thành tố nội dung phụ thuộc vào nội dung chung của văn bản
(chủ đề), mục đích, hình thức của văn bản (thể loại văn bản)
[2] Sắp xếp các thành tố nội dung theo một trình tự khách quan, lôgic.
Vd: Lòng yêu nước biểu lộ trong suốt lịch sử phát triển của dân tộc:
+ Trong lịch sử xa xưa
+Trong thời kì cận, hiện đại
+ Trong giai đoạn hiện nay
[3] Trình bày đề cương: Sau khi xây dựng xong hai thao tác trên, tiến
hành trình bày đề cương.
Chú ý: Khi trình bày đề cương, cần đặt tiêu đề cho các phần, các
chương, các mục, ý lớn, ý nhỏ, luận điểm, luận cứ(có thể dùng
các số La mã, Ả rập, các kí hiệu - , + , * ,)
d. Một số lỗi thường gặp khi lập đề cương:
- Xa đề hoặc lạc đề
- Nội dung triển khai không đầy đủ ý (thiếu ý)
- Nội dung trùng lập
- Nội dung mâu thuẫn, không hợp logic
- Nội dung lộn xộn, trình tự không hợp lí.
3. Viết đoạn văn vào văn bản với đề cương đã lập (tạo lập văn
bản).
Sau giai đoạn định hướng và xác lập đề cương là đến giai đoạn viết
văn bản. Việc viết văn bản chính là việc hiện thực hóa đề cương. Đề
cương mới là bộ khung, là bản thiết kế chứ chưa phải là văn bản.
Muốn viết văn bản , cần phải dựa vào đề cương mà chuyển hóa
thành văn bản. Trong quá trình viết cần lần lượt tiến hành các hoạt
động viết chữ, dùng từ, đặt câu, dựng đoạn và tạo văn bản.
* Yêu cầu về đoạn văn trong văn bản: Gồm 4 yêu cầu (Giáo trình –
Trang 117, 118)
* Các thao tác viết đoạn văn:
- Thao tác 1: Căn cứ vào đề cương đã xác lập, mỗi thành tố nội dung
trong đề cương viết thành một hoặc nhiều đoạn văn.
- Thao tác 2: Lựa chọn hướng triển khai nội dung trong đoạn, cách
lập luận trong đoạn và kết cấu của đoạn.
- Thao tác 3: Viết đoạn văn có hoặc không có câu chủ đề.
- Thao tác 4: Tách đoạn, chuyển đoạn và liên kết đoạn cho phù hợp.
4. Sửa chữa và hoàn thiện văn bản.
Sau khi viết xong văn bản, cần tiến hành công việc cuối cùng là đọc
lại văn bản, kiểm tra, phát hiện các lỗi, các sai sót và tiến hành sửa
chữa, điều chỉnh hợp lý.
* Chú ý một số lỗi khi tạo lập đoạn văn, văn bản:
- Các lỗi trong đoạn: (lạc đề, thiếu chủ đề, lặp chủ đề, đứt mạch, mâu
thuẫn về ý, thiếu hoặc liên kết lỏng lẻo)
- Các lỗi về cấu tạo văn bản: (không tách đoạn, tách đoạn tùy tiện,
không chuyển đoạn, liên kết đoạn ).
THỰC HÀNH BÀI TẬP
CHƯƠNG 1, CHƯƠNG 2,
CHƯƠNG 3