Bài giảng Tổng quan về pháp luật kinh tế

Nội dung • Hiểu được khái niệm, nội dung của quyền tựdo kinh doanh • Nắm được những nội dung chính của pháp luật kinh tế • Biết được nguồn của pháp luật kinh tế • Pháp luật kinh tếtrong nền kinh tế thịtrường • Khái niệm kinh doanh và quyền tựdo kinh doanh • Nội dung chính của pháp luật kinh tế • Nguồn của pháp luật kinh tế • Văn bản quy phạm pháp luật • Tập quán thương mại • Nguồn lưu trữvà tìm kiếm văn bản quy phạm pháp luật

pdf15 trang | Chia sẻ: maiphuongtt | Lượt xem: 2007 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng Tổng quan về pháp luật kinh tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài 1: Tổng quan về pháp luật kinh tế 1 BÀI 1: TỔNG QUAN VỀ PHÁP LUẬT KINH TẾ Nội dung Mục tiêu • Hiểu được khái niệm, nội dung của quyền tự do kinh doanh • Nắm được những nội dung chính của pháp luật kinh tế • Biết được nguồn của pháp luật kinh tế Thời lượng • 3 tiết • Pháp luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường • Khái niệm kinh doanh và quyền tự do kinh doanh • Nội dung chính của pháp luật kinh tế • Nguồn của pháp luật kinh tế • Văn bản quy phạm pháp luật • Tập quán thương mại • Nguồn lưu trữ và tìm kiếm văn bản quy phạm pháp luật Bài 1: Tổng quan về pháp luật kinh tế 2 TÌNH HUỐNG KHỞI ĐỘNG BÀI Tình huống Bắc, Trung và Nam muốn cùng nhau thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn có tên là BTN. Liên quan đến việc thành lập công ty, họ đã cùng nhau bàn bạc, thảo luận về nhiều vấn đề như ngành nghề kinh doanh, trụ sở công ty và khả năng huy động vốn. Khi xem xét các vấn đề pháp lý cho sự ra đời của công ty, cả ba thành viên đều cho rằng công ty phải có giấy phép kinh doanh thì mới được hoạt động và giấy phép kinh doanh đó sẽ do Sở Kế hoạch và Đầu tư của tỉnh nơi công ty dự định đặt trụ sở chính cấp. Câu hỏi gợi mở Theo anh (chị), suy nghĩ về giấy phép kinh doanh của Bắc, Trung và Nam như vậy có đúng không? Tại sao? Bài 1: Tổng quan về pháp luật kinh tế 3 1.1. Pháp luật trong nền kinh tế thị trường 1.1.1. Khái niệm kinh doanh và quyền tự do kinh doanh 1.1.1.1. Khái niệm kinh doanh Dưới góc độ kinh tế, kinh doanh là một phạm trù gắn liền với sản xuất hàng hóa, là tổng thể các hình thức, phương pháp và biện pháp nhằm tổ chức các hoạt động kinh tế. Kinh doanh phản ánh mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi tiêu dùng của cải vật chất xã hội nhằm thu về một giá trị lớn hơn giá trị đã bỏ ra ban đầu. Theo quy định tại Điều 4 Luật doanh nghiệp thì kinh doanh là việc các chủ thể thực hiện một cách thường xuyên, liên tục, một số hoặc toàn bộ các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm trên thị trường nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Với khái niệm trên, kinh doanh đã được hiểu một cách đầy đủ, đúng đắn bao gồm tất cả các hoạt động như: Đầu tư, sản xuất, trao đổi, dịch vụ nếu các hoạt động này nhằm mục đích sinh lợi. Kinh doanh không nhất thiết phải bao gồm tất cả các công đoạn để đạt đến kết quả cuối cùng mà chỉ cần một trong các hoạt động nói trên là đủ, miễn sao hoạt động đó có mục đích sinh lợi. Như vậy, khái niệm kinh doanh có nội dung rất rộng và ở mức độ khái quát có thể đưa ra những dấu hiệu đặc trưng sau: • Kinh doanh là hoạt động mang tính nghề nghiệp. Điều đó có nghĩa là trong xã hội đã có những người, nhóm người, tổ chức mà nghề nghiệp chính của họ là kinh doanh, họ sống bằng nghề kinh doanh. Kinh doanh mang tính thường xuyên, liên tục, ổn định và lâu dài. • Kinh doanh là hành vi diễn ra trên thị trường. Cụ thể, hoạt động kinh doanh phản ánh mối quan hệ giữa các nhà kinh doanh với nhau, với xã hội nói chung thông qua các quan hệ mua bán, trao đổi, … Những quan hệ này tự nó phản ánh quan hệ hàng hóa – tiền tệ. • Mục đích của kinh doanh là lợi nhuận. Đây là dấu hiệu rất quan trọng để phân biệt hành vi kinh doanh với các hoạt động khác. Khi xác định mục đích sinh lời trong hành vi kinh doanh cần hiểu ý định thu lợi nhuận của hành vi mới là tiêu chí quyết định, còn việc có đạt được lợi nhuận hay không cũng như việc sử dụng lợi nhuận đạt được cho mục đích gì không phải là dấu hiệu quyết định. 1.1.1.2. Khái niệm quyền tự do kinh doanh Quyền tự do kinh doanh tồn tại như một nhu cầu tất yếu của sự phát triển kinh tế, xã hội. Quyền tự do kinh doanh là một phần hợp thành và đóng vai trò quan trọng trong hệ thống các quyền tự do của con người. Giá trị to lớn của quyền tự do kinh doanh thể hiện ở chỗ nó là tự do trong hoạt động kinh tế. Hoạt động kinh tế luôn giữ vị trí trung tâm trong đời sống xã hội, quyết định các hoạt động khác. Chúng ta phải khẳng định rằng: Quyền tự do kinh doanh là một phạm trù pháp lý. Dưới góc độ này, quyền tự do kinh doanh được xem xét trên hai khía cạnh cơ bản sau: Bài 1: Tổng quan về pháp luật kinh tế 4 • Dưới góc độ quyền chủ thể: Quyền tự do kinh doanh được hiểu là khả năng hành động một cách có ý thức của các chủ thể trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Theo nghĩa này, quyền tự do kinh doanh bao hàm khả năng mà thể nhân hay pháp nhân có thể xử sự như: Tự do đầu tư vốn để thành lập doanh nghiệp, tự do lựa chọn mô hình tổ chức kinh doanh, tự do lựa chọn đối tác để thiết lập quan hệ kinh doanh, tự do cạnh tranh, tự do định đoạt việc giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, …. Những khả năng xử sự này là thuộc tính tự nhiên của các chủ thể chứ không phải do nhà nước ban tặng. Song những khả năng xử sự đó muốn trở thành hiện thực thì phải được nhà nước thể chế hoá bằng pháp luật và khi đó nó mới trở thành “Thực quyền”. • Dưới góc độ là một chế định pháp luật: Quyền tự do kinh doanh là một chế định pháp luật bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật và những bảo đảm pháp lý do nhà nước ban hành nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể thực hiện quyền tự do kinh doanh của mình. Tóm lại, với cách tiếp cận trên, quyền tự do kinh doanh – một mặt bao gồm những quyền mà các chủ thể kinh doanh được hưởng – mặt khác là trách nhiệm của nhà nước khi thực hiện chức năng quản lý của mình phải tôn trọng, bảo vệ những quyền năng đó. Nội dung của quyền tự do kinh doanh: Xác định đúng đắn, đầy đủ nội dung của quyền tự do kinh doanh có ý nghĩa rất quan trọng. Điều này giúp cho các nhà kinh doanh nắm được những quyền mà họ được hưởng và cách thức thực hiện những quyền đó như thế nào? Hiểu theo một cách chung nhất, quyền tự do kinh doanh là hệ thống các quyền gắn với chủ thể kinh doanh, đó là: • Quyền được bảo đảm sở hữu đối với tài sản: Sở hữu là hình thức xã hội của việc chiếm hữu. Nó phản ánh mối quan hệ giữa con người với con người về việc chiếm hữu những của cải vật chất trong xã hội mà đầu tiên là tư liệu sản xuất. Các hình thức sở hữu được pháp luật ghi nhận trở thành chế độ sở hữu – vấn đề quan trọng nhất của một chế độ kinh tế xã hội. Đối với quyền tự do kinh doanh thì quyền sở hữu tài sản giữ vị trí vai trò quan trọng nhất, nó được coi là nền tảng, tiền đề cho việc hình thành và thực hiện quyền tự do kinh doanh. Chỉ khi được sở hữu tài sản người ta mới có thể dùng tài sản đó đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Không ai có thể thành lập doanh nghiệp nếu không có trong tay những tư liệu sản xuất, số vốn nhất định. Và cũng không ai có thể mua bán, trao đổi hàng hoá nếu không xác định được sở hữu của người bán đối với hàng hoá là đối tượng của hợp đồng. • Quyền tự do thành lập doanh nghiệp. Đây là nội dung cơ bản, quan trọng trong hệ thống các quyền tự do kinh doanh. Quyền tự do thành lập doanh nghiệp là cơ sở để Bài 1: Tổng quan về pháp luật kinh tế 5 thể nhân, pháp nhân được nhà nước công nhận là chủ thể kinh doanh hợp pháp, là tiền đề để họ tiến hành các hoạt động kinh doanh khác. Với quyền tự do thành lập doanh nghiệp, các nhà đầu tư có khả năng quyết định lựa chọn mô hình, lĩnh vực, ngành nghề, địa điểm kinh doanh thích hợp để tiến hành hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao. • Quyền tự do hợp đồng. Hợp đồng là hình thức pháp lý chủ yếu của các quan hệ kinh doanh. Mọi hành vi kinh doanh như: Góp vốn thành lập doanh nghiệp, sử dụng lao động, mua sắm máy móc thiết bị, xây dựng, liên doanh, liên kết, vay vốn, trao đổi hàng hoá, thực hiện dịch vụ, … đều thông qua hợp đồng. Do vậy, quyền tự do hợp đồng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nhà kinh doanh. Về mặt lý luận, quyền tự do hợp đồng bao gồm: Tự do giao kết hợp đồng, tự do lựa chọn đối tác, tự do thoả thuận những nội dung của hợp đồng, tự do thoả thuận để thay đổi đình chỉ hay huỷ bỏ hợp đồng trong quá trình thực hiện hợp đồng. • Quyền tự do cạnh tranh lành mạnh. Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trường. Nó có vai trò quan trọng, không những với tư cách là động lực của sự phát triển, mà còn với tư cách là yếu tố then chốt làm lành mạnh các quan hệ kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, nếu lợi nhuận thúc đẩy các nhà kinh doanh thì cạnh tranh buộc họ phải điều hành hoạt động kinh doanh, họ phải sử dụng các nguồn lực có hiệu quả nhất nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển sự nghiệp kinh doanh của mình. Với ý nghĩa đó, cạnh tranh là thuộc tính tự nhiên của các nhà kinh doanh. Nó cần được pháp luật bảo hộ với tư cách là quyền của các nhà kinh doanh và trở thành nội dung không thể thiếu của quyền tự do kinh doanh. • Quyền tự định đoạt trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp. Hoạt động kinh doanh luôn luôn tiềm ẩn phát sinh các tranh chấp. Việc nhanh chóng loại bỏ chúng bằng những hình thức phù hợp, bảo đảm quyền lợi của các bên tranh chấp, sự an toàn của môi trường kinh doanh là một quyền tự nhiên, chính đáng của các chủ thể kinh doanh. Vì vậy quyền tự do lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh là một bộ phận trong tổng thể quyền tự do kinh doanh. Quyền này thể hiện ở chỗ: Khi có tranh chấp xảy ra, các bên có quyền quyết định đưa vụ tranh chấp đó ra cơ quan có thẩm quyền để giải quyết hay không cũng như lựa chọn cơ quan nào và giải quyết theo thủ tục nào. Các quyền tự do nói trên có mối quan hệ hữu cơ tạo thành thể thống nhất của nội dung quyền tự do kinh doanh. Quá trình phát triển của nền kinh tế chắc chắn sẽ làm phong phú thêm nội dung của quyền tự do kinh doanh. 1.1.2. Nội dung chính của pháp luật kinh tế Khi nghiên cứu về pháp luật kinh tế, nhiều học giả cho rằng đó là một khái niệm rộng, rất khó định lượng chính xác về mặt nội dung. Song nhìn chung, pháp luật kinh tế có thể được tiếp cận theo hai góc độ: Bài 1: Tổng quan về pháp luật kinh tế 6 • Theo nghĩa rộng: Pháp luật kinh tế điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất xã hội (sản xuất, lưu thông, phân phối, tiêu dùng) và trong tất cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh như xây dựng, vận tải, thương mại, ngân hàng, bảo hiểm, …) • Theo nghĩa hẹp: Pháp luật kinh tế điều chỉnh các quan hệ phát sinh trên cơ sở trực tiếp thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Trong giới hạn của môn học này, chúng ta chỉ nghiên cứu pháp luật kinh tế theo nghĩa hẹp và liên quan chặt chẽ với quyền tự do kinh doanh. Nói cách khác pháp luật kinh tế mà chúng ta xem xét sẽ xoay quanh những vấn đề thường thấy của một doanh nghiệp trong thời gian tồn tại của nó: Từ khi khởi sự thành lập doanh nghiệp, đến khi tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh (hợp đồng, cạnh tranh, bồi thường thiệt hại …) và cuối cùng là, khi rút lui khỏi thị trường (giải thể, phá sản). Với một tư duy như vậy, những nội dung chính của pháp luật kinh tế có thể bao gồm: • Pháp luật về doanh nghiệp: Điều chỉnh nhóm quan hệ tạo nên tư cách địa vị pháp lý của các doanh nghiệp, tạo khung pháp lý cho các hoạt động kinh doanh của từng loại hình doanh nghiệp. • Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh: Hợp đồng là hình thức pháp lý của các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nói cách khác, mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp (từ việc mua bán hàng hoá, nguyên vật liệu, thuê mướn nhân công, vay vốn ngân hàng, mua trang thiết bị máy móc, tiêu thụ sản phẩm, …) tất cả đều được thể hiện dưới hình thức là các hợp đồng. • Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh: Điều chỉnh nhóm quan hệ liên quan đến các hoạt động tài phán kinh tế, đến tổ chức và hoạt động của một hệ thống đa dạng các cơ quan tài phán kinh tế và thủ tục giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp. • Pháp luật về phá sản, giải thế doanh nghiệp: Điều chỉnh nhóm quan hệ pháp lý liên quan tới sự rút lui khỏi thương trường của các doanh nghiệp. 1.2. Nguồn của pháp luật kinh tế Nếu xem pháp luật là tất cả những chuẩn mực hành vi của con người được một nhà nước thừa nhận và cưỡng chế thi hành, thì nguồn của pháp luật, trong đó có pháp luật kinh tế, không chỉ bao gồm luật thành văn, mà còn bao gồm một trật tự vô hình của những quy tắc bất thành văn. Nói cách khác, nguồn của pháp luật kinh tế là tổng hợp tất cả các văn bản pháp luật và các hình thức khác chứa đựng những gì được xem là pháp luật liên quan đến kinh doanh. Với một cách tiếp cận như vậy, nguồn của pháp luật kinh tế ở nước ta bao gồm: Văn bản quy phạm pháp luật và tập quán thương mại. Bài 1: Tổng quan về pháp luật kinh tế 7 1.2.1. Văn bản quy phạm pháp luật Văn bản quy phạm pháp luật: Là sản phẩm của quá trình sáng tạo pháp luật, là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự và dưới hình thức nhất định. Nó chứa đựng các quy tắc xử sự chung nhằm điều chỉnh một loại quan hệ xã hội nhất định, được áp dụng nhiều lần trong thực tiễn đời sống và việc thực hiện văn bản đó không làm chấm dứt hiệu lực của nó. Ở Việt Nam, hình thức văn bản quy phạm pháp luật là hình thức chủ yếu và quan trọng nhất. Theo Hiến pháp 92, các văn bản quy phạm pháp luật bao gồm: Văn bản luật và văn bản dưới luật. • Các văn bản luật: Là văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội – cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ban hành. Trình tự, thủ tục, hình thức ban hành văn bản luật được quy định tại Điều 84, 88, 147 Hiến pháp 92. Các văn bản luật có giá trị pháp lý cao nhất, có hiệu lực pháp lý cao nhất vì: o Chỉ Quốc hội mới có quyền thông qua, sửa đổi hoặc huỷ bỏ. o Tất cả những văn bản pháp luật khác đều phải ban hành trong sự phù hợp nghiêm ngặt với luật. o Các văn bản dưới luật trái với các văn bản luật đều không có hiệu lực pháp lý và bị bãi bỏ. o Các văn bản luật không chịu sự kiểm tra, phê chuẩn và đình chỉ của bất kỳ cơ quan nào ngoài Quốc hội. o Tất cả các văn bản khác khi ban hành phải căn cứ vào văn bản luật, không được trái, không được mâu thuẫn với các quy định trong các văn bản luật. • Văn bản luật có hai hình thức: o Hiến pháp 92 là đạo luật cơ bản, có giá trị pháp lý cao nhất. Hiến pháp 92 đã dành toàn bộ chương II để quy định về chế độ kinh tế với mong muốn thể hiện những nét cơ bản nhất về nội dung và tính chất của pháp luật kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. o Các đạo luật: Cũng là văn bản do Quốc hội ban hành để cụ thể hoá Hiến pháp, điều chỉnh một hoặc một số nhóm quan hệ xã hội nhất định. Liên quan tới hoạt động kinh doanh của các chủ thể, chúng ta có những luật, bộ luật sau: Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự, Luật Phá sản, … • Văn bản dưới luật: Là các văn bản do Ủy ban thường vụ Quốc hội, các cơ quan nhà nước khác ban hành để giải thích Hiến pháp và các đạo luật của Quốc hội gồm: o Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Pháp lệnh có hiệu lực pháp lý thấp hơn so với Hiến pháp, Luật và Nghị quyết của Quốc hội, nhưng nó lại là văn bản có hiệu lực cao nhất trong các văn bản dưới luật khác. Trong điều kiện hiện nay, pháp lệnh là một hình thức lập pháp còn rất phổ biến. Nhiều vấn đề Bài 1: Tổng quan về pháp luật kinh tế 8 thuộc phạm vi và mức độ điều chỉnh của các đạo luật nhưng đang được pháp lệnh điều chỉnh (ví dụ: Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, pháp lệnh trọng tài thương mại, …). Các pháp lệnh này được Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành theo uỷ quyền của Quốc hội. Chính vì vậy, có thể nói rằng có nhiều pháp lệnh mang tính chất luật. o Nghị định của Chính phủ: Là những văn bản được ban hành nhân danh tập thể Chính phủ. Nghị quyết và nghị định của Chính phủ là phương tiện pháp lý cơ bản mà Chính phủ sử dụng để thực hiện nhiệm vụ, chức năng của mình. Điều đó quy định các đặc trưng của loại văn bản này: ƒ Có hiệu lực pháp lý thấp hơn văn bản của Quốc hội, Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội. ƒ Phải phù hợp với văn bản của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội…, nếu mâu thuẫn sẽ bị đình chỉ, sửa đổi hoặc bãi bỏ. ƒ Mặt khác, nó là loại văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất so với các văn bản dưới luật còn lại (văn bản của Bộ, Uỷ ban nhân dân, Hội đồng nhân dân, …). o Quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ: Là phương tiện pháp luật mà Thủ tướng sử dụng trong hoạt động điều hành Chính phủ, chỉ đạo, giám sát hoạt động của mọi cơ quan nhà nước thuộc Chính phủ ở Trung ương và địa phương. Trong quan hệ với các văn bản pháp luật khác, văn bản của Thủ tướng có vai trò như văn bản của tập thể Chính phủ. o Thông tư của các Bộ, cơ quan ngang Bộ: Để thi hành luật, pháp lệnh, các văn bản của Chính phủ và Thủ tướng, trong phạm vi quyền hạn của mình, các Bộ, cơ quan ngang Bộ ban hành các văn bản dưới hình thức quyết định, chỉ thị, thông tư. Xuất phát từ vị trí của Bộ, cơ quan ngang Bộ, nên văn bản của các cơ quan này có hiệu lực thấp hơn văn bản của Chính phủ, Thủ tướng và các cơ quan cấp trên khác phải phù hợp với chúng, và về nguyên tắc, có hiệu lực pháp lý cao hơn văn bản của các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương về những vấn đề mà những cơ quan này được nhà nước giao quản lý thống nhất trong cả nước. o Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp: Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan đại diện của nhân dân địa phương có quyền ra các nghị quyết để điều chỉnh các quan hệ xã hội trên các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của mình. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân phải phù hợp, không được trái, không mâu thuẫn với pháp luật, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp trên và văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp trên. o Quyết định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân các cấp: Trong phạm vi thẩm quyền luật định, Uỷ ban nhân dân các cấp ra quyết định, chỉ thị để thực hiện những văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và Hội đồng nhân dân cùng cấp, và để điều hành hoạt động quản lý nhà nước ở địa phương. Bài 1: Tổng quan về pháp luật kinh tế 9 Trong thực tiễn, nguồn văn bản chính yếu điều chỉnh hoạt động kinh doanh của các chủ thể lại là các văn bản dưới luật chứ không phải là Hiến pháp và các bộ luật. Chính điều này đã làm giảm tính minh bạch và độ tin cậy cũng như tính dự báo trước được của pháp luật kinh doanh Việt Nam. Đây là một trong những vấn đề cần giải quyết để hoàn thiện pháp luật kinh doanh ở Việt Nam. 1.2.2. Tập quán thương mại Nói đến nguồn của pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh không thể không nói đến tập quán thương mại. Mặc dù hệ thống pháp luật nước ta không phải là hệ thống “Luật tập quán”, các án lệ không được coi là nguồn của pháp luật nhưng trong hoạt động kinh doanh, tập quán thương mại thường được áp dụng. Pháp luật Việt Nam cũng có những quy định về việc áp dụng tập quán trong những trường hợp nhất định. "Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thoả thuận, thì có thể áp dụng tập quán, nếu không có tập quán thì áp dụng quy định tương tự của pháp luật. Tập quán và quy định tương tự của pháp luật không trái với các nguyên tắc của pháp luật Việt Nam" [Điều 3, BLDS]. Như vậy, điều luật này đã công nhận tập quán là một nguồn luật bổ sung của pháp luật. Đây là giải pháp hợp lý bởi quy phạm pháp luật không thể bao quát hết được mọi trường hợp, do đó không phải quan hệ nào cũng có quy phạm pháp luật điều chỉnh. Tập quán thương mại có thể được hiểu là những quy tắc cư xử hoặc thói quen hình thành từ xa xưa, được thừa nhận một cách rộng rãi trên một vùng lãnh thổ hoặc một lĩnh vực thương mại có nội dung rõ ràng được các bên thừa nhận để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên. Những thói quen thương mại sẽ được công nhận và trở thành tập quán thương mại khi thoả mãn các yêu cầu: • Là một thói quen phổ biến được nhiều người áp dụng và áp dụng thường xuyên. • Về từng vấn đề và ở từng địa phương đó là thói quen duy nhất. • Là một t