Bài giảng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội

Đặt vấn đề Việt Nam là một quốc gia dân tộc tự chủ từ sớm. Nền độc lập tự chủ của Việt Nam gắn liền với quá trình dựng và giữ nước trải qua hàng ngàn năm lịch sử. Vào giữa thế kỷ XIX, với sự suy vong của triều đình phong kiến nhà Nguyễn, thực dân Pháp tiến hành xâm lược nước ta, biến nước ta thành thuộc địa của Pháp, nhân dân Việt Nam bị sống trong kiếp đọa đày nô lệ. Dưới ngọn cờ độc lập, tự do của Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam đã đoàn kết thành một khối, kiên cường chiến đấu bảo vệ và dựng xây đất nước, giành được những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử vĩ đại và có tính thời đại sâu sắc. Có được những thắng lợi vĩ đại đó là nhờ Đảng và nhân dân ta được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Vậy, trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm về vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội có những nội dung gì. Chúng ta cùng tìm hiểu, nghiên cứu qua bài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.

docx20 trang | Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 12252 | Lượt tải: 6download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NỘI DUNG BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Đặt vấn đề Việt Nam là một quốc gia dân tộc tự chủ từ sớm. Nền độc lập tự chủ của Việt Nam gắn liền với quá trình dựng và giữ nước trải qua hàng ngàn năm lịch sử. Vào giữa thế kỷ XIX, với sự suy vong của triều đình phong kiến nhà Nguyễn, thực dân Pháp tiến hành xâm lược nước ta, biến nước ta thành thuộc địa của Pháp, nhân dân Việt Nam bị sống trong kiếp đọa đày nô lệ. Dưới ngọn cờ độc lập, tự do của Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam đã đoàn kết thành một khối, kiên cường chiến đấu bảo vệ và dựng xây đất nước, giành được những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử vĩ đại và có tính thời đại sâu sắc. Có được những thắng lợi vĩ đại đó là nhờ Đảng và nhân dân ta được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Vậy, trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm về vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội có những nội dung gì. Chúng ta cùng tìm hiểu, nghiên cứu qua bài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. I. TÍNH TẤT YẾU CỦA ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG CÁCH MẠNG VIỆT NAM (40 phút; Phương pháp giảng: thuyết trình, đàm thoại; Đồ dùng dạy học: bảng phấn, giáo án lý thuyết) 1. Đòi hỏi khách quan của cách mạng Việt Nam từ đầu thế kỷ XX (15 phút) a. Thực dân Pháp xâm lược nước ta từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX - Cho đến khi thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam là một nước phong kiến độc lập, nhưng với chính sách cai trị hà khắc của triều đình Nhà Nguyễn, nhân dân ta vẫn bị áp bức bóc lột, vẫn chưa thực sự có tự do và hạnh phúc. Đầu thế kỷ XIX, sau khi lật đổ triều Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã lập nên triều đình phong kiến nhà Nguyễn, tự xưng hoàng đế, lấy niên hiệu là Gia Long, đặt tên nước là Việt Nam. Kể từ đó, các vua quan triều Nguyễn đã thi hành những chính sách đối nội và đối ngoại phản động, bảo thủ làm suy yếu sức mạnh quốc gia về kinh tế, quân sự. Về đối nội, tăng cường đàn áp bóc lột nhân dân, cự tuyệt mọi cải cách về chính trị, kinh tế, quân sự thậm chí còn đàn áp cả những người dám đứng lên kiến nghị cải cách. Với những chính sách đó của nhà Nguyễn, đã khiến cho đời sống của người dân vô cùng khó khăn, đói kém. Về đối ngoại, thực hiện chính sách “bế quan tỏa cảng”, đóng cửa không quan hệ với bên ngoài làm mất đi cơ hội tiếp xúc với sự phát triển bên ngoài, đặc biệt là đối với các nước phương Tây. Nhà Nguyễn đã không mở ra khả nắng nào cho Việt Nam cơ hội tiếp xúc và bắt nhịp với sự phát triển của thế giới, với cuộc cách mạng kỹ thuật ở châu Âu. Không tập trung được nhân dân, ngược lại luôn đối đầu với nhân dân làm giảm sức mạnh truyền thống của dân tộc. Trong số các nước tư bản phương Tây có ý định nhòm ngó Việt Nam, thì thực dân Pháp là nước có ý đồ quyết tâm xâm lược nước ta. Chính sách đóng cửa, không giao lưu với bên ngoài của triều đình nhà Nguyễn, nhất là chính sách cấm đạo và giết đạo không những không bảo vệ được nền độc lập dân tộc trước nguy cơ từ bên ngoài mà còn tạo lý do cho thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, bắt đầu từ bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng vào ngày 1-9-1858. Sự kiện này đã đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử Việt Nam, lúc ấy vận mệnh lịch sử nước ta đứng trước hai ngã rẽ: Một là, triều Nguyễn sẽ bị lật đổ và thay vào đó là một triều đại khác tiến theo xu hướng Tư bản chủ nghĩa có khả năng duy tân đất nước và bảo vệ nền độc lập dân tộc. Hai là, nước Việt Nam sẽ bị mất vào tay thực dân Pháp và trở thành nước thuộc địa của Pháp. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, trước sự xâm lược của thực dân Pháp, triều Nguyễn, trong nước thì sợ nhân dân, bên ngoài thì bạc nhược trước kẻ thù, lúc đầu có chống cự yếu ớt, nhưng sau đó đã từng bước nhân nhượng, cầu hòa và cuối cùng đã đầu hàng giặc Pháp và biến nước ta thành một nước phong kiến nửa thuộc địa, nhân dân ta một lần nữa lâm vào cảnh nô lệ, lầm than. b. Nhân dân ta nổi dậy chống thực dân Pháp, đòi độc lập dân tộc thời kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX Triều đình phong kiến nhà Nguyễn đã đầu hàng thực dân Pháp, với việc ký Hiệp ước Patơnốt (Patenôtre) năm 1884. Nhân dân ta đã không cam chịu sự áp bức bóc lột của thực dân Pháp đã nổi dậy chống lại thực dân Pháp và triều đình nhà Nguyễn. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến: Nửa cuối thế kỷ XIX, những phong trào yêu nước chống Pháp diễn ra mạnh mẽ. Đặc biệt là sau khi vua Hàm Nghi ban chiếu Cần Vương (7-1885). Tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa: Ba Đình của Phạm Bành và Đinh Công Tráng (1881-1887), khởi nghĩa Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật (1883-1892) và khởi nghĩa Hương Khê của Phan Đình Phùng (1885-1895), khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo. Tuy nhiên những cuộc khởi nghĩa này đã thất bại hoàn toàn. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản Sang đầu thế kỷ XX, cùng với sự xuất hiện của giai cấp tư sản và tầng lớp tiểu tư sản, thì những tư tưởng mới, tư tưởng cách tân lúc bấy giờ cũng được truyền bá vào Việt Nam. Như tư tưởng của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn. Điều này đã ảnh hưởng lớn đến phong trào yêu nước ở Việt Nam. Do đó, đã xuất hiện những phong trào yêu nước theo xu hướng dân chủ tư sản. Tiêu biểu như phong trào Đông Du, Đông kinh Nghĩa thục, Duy Tân, Việt Nam quang phục hội Tuy nhiên, do những hạn chế về lịch sử, về giai cấp, nên Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, cũng như các sĩ phu cấp tiến lãnh đạo phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản đầu thế kỷ XX không thể tìm được một phương hướng giải quyết chính xác cho cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc, nên chỉ sau một thời kỳ phát triển, những phong trào này đều đi đến kết cục thất bại. Nguyên nhân thất bại của những phong trào yêu nước thời kỳ này - Khuynh hướng phong kiến và dân chủ tư sản không còn phù hợp với thời đại mới. - Các phong trào này diễn ra lẻ tẻ và không thống nhất nên dễ dàng bị thực dân Pháp đàn áp. - Các phong trào này quá phụ thuộc vào người lãnh đạo. Sau khi người lãnh đạo bị bắt hoặc bị hy sinh thì các phong trào này đều thất bại. - Chỉ hô hào cổ động không quan tâm đến vận động quần chúng, không chủ động xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang. Như vậy, đến đầu thế kỷ XX, với sự thất bại của các phong trào yêu nước, công cuộc cứu nước lâm vào ngõ cụt, bị khủng hoảng về đường lối. c. Đòi hỏi mới về con đường cứu nước của Việt Nam ở đầu thế kỷ XX Thất bại của những phong trào yêu nước, chống Pháp của nhân dân ta ở đầu thế kỷ XX đặt đòi hỏi mới về con đường cứu nước của dân tộc Việt Nam. - Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và dân chủ tư sản đều thất bại. Điều đó cho thấy công cuộc cứu nước đang đứng trước sự khủng hoảng về đường lối cứu nước và thực tiễn lịch sử đặt ra yêu cầu phải có đường lối cứu nước đúng đắn để thực hiện thành công nhiệm vụ lịch sử lúc này là chiến thắng thực dân Pháp, giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Tóm lại, xuất phát từ thực tiễn xã hội Việt Nam và sự thất bại của những phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX đã đặt ra đòi hỏi khách quan của cách mạng Việt Nam thời kỳ này, là cần phải có một cong đường cứu nước mới, một ý thức hệ mới đủ sức tạo ra sức mạnh mới để đem lại những thắng lợi trong sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. 2. Kinh nghiệm cách mạng thế giới (10 phút) a. Nguyễn Ái Quốc nghiên cứu kinh nghiệm các cuộc cách mạng tư sản Trước yêu cầu cấp bách phải tìm một con đường cứu nước mới, bằng thiên tài trí tuệ và nhãn quan chính trị sắc bén, tháng 6-1911, Nguyễn Ái Quốc, với tên gọi Văn Ba, đã lên đường sang các nước phương Tây, nơi có khoa học - kỹ thuật phát triển và những tư tưởng dân chủ tự do, để xem họ làm như thế nào, để rồi trở về nước giúp đồng bào cởi ách xiềng xích nô lệ. Người đã qua nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là các nước tư bản phát triển như Mỹ, Pháp, Anh. Nguyễn Ái Quốc đã nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm của các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới như cách mạng Mỹ (1776), cách mạng Pháp (1789), đồng thời tham gia lao động và đấu tranh trong hàng ngũ giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản cũng như các nước thuộc địa. Khi nghiên cứu cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra kết luận rằng: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”. Như vậy, kinh nghiệm của cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp đã không đáp ứng được mục tiêu mà Nguyễn Ái Quốc đang ấp ủ là độc lập dân tộc, và tự do hạnh phúc cho nhân dân. Nhưng với lòng yêu nước và ý chí quyết tâm tìm đường cứu nước, Người đã tiếp tục cuộc hành trình của mình. b. Nguyễn Ái Quốc nghiên cứu cách mạng vô sản Khi nghiên cứu về Công xã Paris (1871), Nguyễn Ái Quốc đã nhận xét rằng, Công xã thất bại là bởi vì tổ chức không khéo, lại không liên lạc với dân cày, và do tư bản Pháp khi đó lại được tư bản Đức giúp đỡ cho nên thất bại. Vào cuối năm 1917, khi Chiến tranh thế giới thứ nhất sắp kết thúc, Nguyễn Ái Quốc trở lại nước Pháp. Trong những ngày Người hoạt động cách mạng tại Pháp, thì cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 bùng nổ làm chấn động toàn cầu. Với sự nhạy cảm chính trị đặc biệt, Người hướng đến ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười và chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng của cuộc cách mạng vĩ đại đó. Nghiên cứu Cách máng Tháng Mười Nga năm 1917, Nguyễn Ái Quốc đã nhận xét rằng: “trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam”. - Từ những kinh nghiệm khi nghiên cứu các cuộc cách mạng, đặc biệt là cách mạng Tháng Mười Nga, Người đã khẳng định rằng: Việt Nam muốn giành được độc lập dân tộc, muốn đánh đuổi thực dân Pháp thì phải đi theo con đường của cách mạng Nga. Và “cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mênh thành công thì phải có dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, thống nhất. Hay nói cách khác là phải theo chủ nghĩa Mác và Lê nin. Như vậy, trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh đã nghiên cứu các cuộc cách mạng tư sản và vô sản trên thế giới. Từ đó, Người rút ra bài học kinh nghiệm, cũng như vạch ra con đường cho cách mạng Việt Nam là phải đi theo con đường của cách mạng Tháng Mười Nga và chủ nghĩa Mác – Lênin. 3. Chủ nghĩa Mác – Lênin soi đường cho cách mạng Việt Nam (15 phút) a. Nguyễn Ái Quốc từ người yêu nước trở thành người cộng sản Sau Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phát triển mạnh mẽ. Đầu năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gia nhập Đảng Xã Hội Pháp. Tháng 3-1919, Lê nin sáng lập Quốc tế Cộng sản và tuyên bố kiên quyết ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc ở các nước phương Đông. Từ đây, Nguyễn Ái Quốc tham gia vào tổ chức nghiên cứu Quốc tế III của Đảng Xã Hội Pháp. Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Bản Luận cương đó đã đáp ứng đúng nguyện vọng tha thiết mà Nguyễn Ái Quốc đang ấp ủ:  độc lập cho Tổ quốc, tự do cho đồng bào. Sau này, Người viết: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta! Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lê nin, tin theo Quốc tế thứ ba”. Nhận thức này đã dẫn tới quyết định của Nguyễn Ái Quốc ở đại hội lần 8 của Đảng Xã hội Pháp (12-1920). Nguyễn Ái  Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế thứ ba và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện đó đánh dấu bước ngoặt quyết định trong cuộc đời hoạt động của Người, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản; mở đường giải quyết đúng đắn về đường lối giải phóng dân tộc của Việt Nam. Bằng thiên tài trí tuệ và hoạt động cách mạng của mình, Nguyễn Ái Quốc đã kịp thời đáp ứng nhu cầu bức thiết của lịch sử. Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Nguyễn Ái Quốc đã đến với học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản. - Sự kiện Hồ Chí Minh tham gia sáng lập Đảng Cộng Sản Pháp đã đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản, từ người yêu nước thành người cộng sản của Hồ Chí Minh. b. Nguyễn Ái Quốc nghiên cứu lý luận cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác – Lênin Từ khi trở thành người cộng sản, cùng với việc nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lenin, Người cũng đã thực hiện những nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Cũng trong thời gian này, Người đã xúc tiến mạnh mẽ việc nghiên cứu lý luận giải phóng dân tộc theo học thuyết cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác - Lênin để truyền bá vào nước ta, từng bước chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập chính đảng cộng sản ở Việt Nam. Tiếp thu và nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin, Nguyễn Ái Quốc hiểu được rằng: chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có thể giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Trong quá trình tiếp thu lý luận Mác – Lênin, Nguyễn Ái Quốc rất chú trọng tới lý luận về cách mạng không ngừng của Các Mác và Lênin. Phát hiện ra vai trò lịch sử của giai cấp vô sản trên toàn thế giới. Các Mác chủ trương thực hiện cuộc cách mạng không ngừng. Lê Nin đã phát triển lý luận cách mạng không ngừng này của Mác, trong điều kiện mới là thời đại đế quốc chủ nghĩa. Lênin đã chỉ rõ rằng: Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, một dân tộc thực hành cách mạng dân tộc dân chủ mà có cương lĩnh đầy đủ, lại có một đảng cách mạng chân chính lãnh đạo, thì khi giành thắng lợi có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Nguyễn Ái Quốc đã nắm vững những đòi hỏi khách quan của Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn đầu thế kỷ XX, đồng thời tiếp thu những kinh nghiệm của cách mạng thế giới và thực tiễn lý luận của cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác – Lênin, Người xác định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Tóm lại, sau khi nghiên cứu lý luận cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác – Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã nhận ra rằng: để mưu cầu độc lập cho dân tộc và hạnh phúc cho nhân dân thì không có lựa chọn nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản, đi theo chủ nghĩa Mác – Lenin. Điều này đã cho thấy tính tất yếu của tính tất yếu của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong cách mạng Việt Nam. II. MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỘC LẬP DÂN TỘC VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH (110 phút; Phương pháp giảng: thuyết trình, đàm thoại; Đồ dùng dạy học: bảng phấn, giáo án lý thuyết) 1. Cách mạng Việt Nam có nhiều giai đoạn (20 phút) a. Cơ sở khách quan Cách mạng Việt Nam có nhiều giai đoạn được quy định bởi các mâu thuẫn có sẵn trong xã hội Việt Nam. Thực dân Pháp xâm lược và thống trị nước ta, nhưng chúng không thủ tiêu chế độ phong kiến lạc hậu mà còn duy trì triều đình nhà Nguyễn làm tay sai để chúng dễ bề thống trị và bóc lột nhân dân ta. Vì vậy, vào thời điểm này, bên cạnh mâu thuẫn vốn có giữa nhân dân ta mà chủ yếu là giữa nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến, xuất hiện thêm mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với thực dân Pháp và tay sai. Phải giải quyết được hai mâu thuẫn này thì mới đưa đất nước ta vào con đường phát triển được. Để làm được điều đó thì phải thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ. Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, đã mở ra một thời đại hoàn toàn mới không chỉ của riêng nước Nga, mà còn của lịch sử nhân loại – thời đại giải phóng các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc, thời đại từ chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi thế giới. Do đó, từ đầu thế kỷ XX, cách mạng Việt Nam thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên chủ nghĩa xã hội còn được quy định bởi tính chất thời đại. b. Mối quan hệ giữa các giai đoạn của cách mạng Việt Nam Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định: “Cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa”. Hai giai đoạn của cách mạng Việt Nam có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, giai đoạn trước làm cơ sở cho giai đoạn sau, giai đoạn sau kế tiếp giai đoạn trước Theo quan điểm biện chứng của Hồ Chí Minh, hai giai đoạn của cách mạng Việt Nam có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, giai đoạn trước gây những mầm mống cho giai đoạn sau, giai đoạn sau kế tiếp giai đoạn trước. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là hai giai đoạn của cách mạng Việt Nam, những giữa chúng không có bức tường ngăn cách mà có mối quan hệ biện chứng với nhau. Giai đoạn cách mạng thực hiện độc lập dân tộc tạo tiền đề cho giai đoạn thực hiện chủ nghĩa xã hội, và ngược lại thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ tạo ra những điều kiện, cơ sở để tiếp tục nhiệm vụ giai đoạn trước, để thực hiện cuộc cách mạng độc lập dân tộc. Tóm lại, với sự nhận định và phân tích của Hồ Chí Minh về các giai đoạn của cách mạng Việt Nam cũng như mối quan hệ của nó. Điều đó đã thể hiện tư duy biện chứng về con đường cách mạng Việt Nam của Đảng ta. Và thực tiễn cách mạng nước ta đã diễn ra đúng như tư tưởng chỉ đạo của Hồ Chí Minh và Đảng ta: Độc lập dân tộc luôn gắn liền với chủ nghĩa xã hội. 2. Mối quan hệ của độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội (25 phút) a. Quan niệm về độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh Quan niệm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản được thể hiện trên những luận điểm cơ bản sau đây: - Một là, độc lập dân tộc phải là một nền độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn với đầy đủ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh, quốc phòng. Quyền độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Đối với một người dân mất nước, cái quý nhất trên đời là độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân. Như Hồ Chí Minh đã từng nói: Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập Hồ Chí Minh là người đã đưa ra chân lý bất hủ, có giá trị cho mọi thời đại: “không có gì quý hơn độc lập tự do”. Đó không chỉ là lý tưởng mà còn là lẽ sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh, là lý do chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng, nguồn động viên đối với các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Nước Việt Nam của người Việt Nam, mọi vấn đề thuộc chủ quyền quốc gia Việt Nam phải do người Việt Nam tự giải quyết. Nhân dân Việt Nam không chấp nhận sự can thiệp dưới bất cứ hình thức nào. Theo Hồ Chí Minh quyền độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng, là trên hết, dù có phải hy sinh đến đâu cũng phải giành và giữ cho được quyền độc lập ấy. - Hai là, Giá trị thực sự của độc lập dân tộc phải được thể hiện ở các quyền tự do và hạnh phúc mà nhân dân được hưởng. Người từng nói: “Nếu nước được độc lập, mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Độc lập dân tộc phải được đặt trong khối thống nhất bền vững, đoàn kết chặt chẽ của các tộc người, các miền tổ quốc, giữa các tôn giáo và tất cả các giai cấp, tầng lớp nhân dân yêu nước, đồng bào trong nước và kiều bào ở nước ngoài. - Ba là, Độc lập dân tộc trong hòa bình chân chính. Người chỉ rõ: chỉ có độc lập dân tộc thực sự trong một nền hòa bình chân chính và chỉ có hòa bình mới có độc lập dân tộc. Và độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do của nhân dân. Trong thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh luôn tiêu biểu cho ý chí độc lập tự do của dân tộc, và Người luôn tìm cách đẩy lùi chiến tranh, cứu vãn hòa bình. - Bốn là, kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với Chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế. Hồ Chí Minh khẳng định: quyền tự do, độc lập là quyền bất khả xâm phạm của các dân tộc. Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức. Chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn luôn t