Công việc thiết kế sáng tạo, 
với mục tiêu thỏa măn tối đa các yêu cầu của 
đối tượng sửdụng sản phẩm thiết kế, 
cũng có thể được coi nhưmột nghiên cứu khoa học, 
bởi vì trong quá trình đó, 
người thiết kếluôn phải có định hướng, 
luôn đặt ra các câu hỏi 
và gian khổ đi tìm các phương án trảlời, 
hay nói một cách khác, 
người thiết kếphải có tưduy của một nhà nghiên cứu khoa học 
và có một phương pháp thiết kế- 
phương pháp nghiên cứu khoa học đúng đắn. 
Trong bài tập này, 
học viên trình bày quá trình nghiên cứu của mình đểthực hiện một đềtài nhỏ: 
Thiết kếmới cho tủbếp. 
Đây là bài tham dựcuộc thi thiết kế: 
“Kitchen is the Heart of the Home“ 
do mạng Designboom.com (Italia) tổchức năm 2004
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                
9 trang | 
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 5855 | Lượt tải: 1
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập môn Phương pháp nghiên cứu khoa học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài tập môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học. 
Lời mở đầu 
Công việc thiết kế sáng tạo, 
 với mục tiêu thỏa măn tối đa các yêu cầu của 
 đối tượng sử dụng sản phẩm thiết kế, 
 cũng có thể được coi như một nghiên cứu khoa học, 
 bởi vì trong quá trình đó, 
người thiết kế luôn phải có định hướng, 
 luôn đặt ra các câu hỏi 
và gian khổ đi tìm các phương án trả lời, 
 hay nói một cách khác, 
 người thiết kế phải có tư duy của một nhà nghiên cứu khoa học 
 và có một phương pháp thiết kế - 
phương pháp nghiên cứu khoa học đúng đắn. 
Trong bài tập này, 
học viên trình bày quá trình nghiên cứu của mình để thực hiện một đề tài nhỏ: 
 Thiết kế mới cho tủ bếp. 
Đây là bài tham dự cuộc thi thiết kế: 
“Kitchen is the Heart of the Home“ 
do mạng Designboom.com (Italia) tổ chức năm 2004 
Trần Ngọc Hiếu - Lớp: CH04K. 
Bài tập môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học. 
Nội dung đề tài. 
1. Tên đề tài: 
Tìm ý tưởng mới cho tủ bếp trên trong hệ thống 
bếp nấu ăn gia đình. 
2. Lý do nghiên cứu: 
Thiết kế tham dự cuộc thi “Kitchen is the Heart of 
the Home” (các chữ viết hoa học viên để nguyên theo tên 
chính thức của cuộc thi) do mạng Designboom.com-
Italia tổ chức. (Designboom.com là cầu nối giữa người 
thiết kế và nhà sản xuất trong lĩnh vực đồ nội thất, tất cả 
các cuộc thi do mạng này tổ chức đều hướng tới mục 
đích chọn được các thiết kế tốt nhất đưa vào sản xuất 
phục vụ cuộc sống. Hàng năm, tùy theo yêu cầu của các 
hãng sản xuất, có thể có rất nhiều cuộc thi với các chủ đề 
khác nhau, thu hút đông đảo designer trên thế giới, số 
lượng trung bình khoảng 2000 người mỗi cuộc thi). 
3. Mục tiêu của đề tài: 
a. Đưa ra ý tưởng thiết kế tủ bếp treo trên kiểu mới, tiện 
lợi cho sử dụng, phù hợp về mặt công năng, mới lạ về 
hình thức…Đây là cơ hội thực hành nghiên cứu nghề 
nghiệp thuần túy. 
b. Đoạt giải thưởng của cuộc thi để có thể đưa thiết kế 
vào giai đoạn chi tiết và sản xuất. 
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài: tủ bếp trên trong hệ 
thống bếp nấu ăn gia đình. Cần nói thêm, cuộc thi chia ra 
3 thể loại: 
a. Thiết kế tổng thể bếp. 
b. Thiết kế chi tiết phụ kiện - đồ dùng làm bếp. 
 c. Thiết kế chi tiết riêng tủ trên của bếp. 
Học viên tham gia ở thể loại C. 
Về độ chi tiết của đề tài: nhấn mạnh về phần ý tưởng tạo 
hình (hình dáng-kích thước-vật liệu), công năng sử dụng 
(sự thuận tiện, phù hợp nhân trắc học…), ở giai đoạn 
này, phần chi tiết kỹ thuật ở mức độ chỉ cần dừng ở mức 
độ thấp, chưa cần quá kĩ lưỡng. 
Trần Ngọc Hiếu - Lớp: CH04K. 
Bμi tËp m«n: Ph−¬ng ph¸p nghiªn cøu khoa häc. 
5. Các mẫu khảo sát: 
Các mẫu tủ bếp trên kiểu “cũ” có trên thị trường 
Việt Nam và thế giới (xem ảnh minh họa) về mặt chất 
liệu và hình dáng rất đa dạng, phong cách trang trí theo 
nhiều thời kì và chủ đề khác nhau, kích thước tủ trên và 
khoảng cách so với bàn bếp ở dưới thay đổi tùy theo số 
đo nhân trắc của mỗi dân tộc. Ví dụ: ở các quốc gia châu 
A’, nhất là Việt Nam, các số đo này thấp hơn khoảng 
5cm so với số đo ở các quốc gia châu Âu. 
Tủ trên có thể để trống, không có cửa, chỉ đơn 
thuần là các giá đồ hoặc có cửa đóng kín (bằng gỗ, kính, 
nhựa...) 
Cách mở cửa: đẩy ngang hoặc cánh mở. Nhìn chung, với 
các cánh mở này, người sử dụng thường gặp khó khăn 
khi lấy những đồ ở các vị trí cao, dễ gặp chấn thương khi 
cố gắng do rướn, với quá mức hoặc bị đồ rơi vào người, 
đặc biệt nguy hiểm khi va chạm vào phần mắt, mặt, cổ. 
TrÇn Ngäc HiÕu - Líp: CH04K. 
Bμi tËp m«n: Ph−¬ng ph¸p nghiªn cøu khoa häc. 
6. Các câu hỏi nghiên cứu: 
a. Khoảng cách giữa tủ trên và bàn bếp bao nhiêu là vừa 
phải? (tạm gọi là tham số A) 
b. Độ cao của tủ trên là bao nhiêu để nằm trong tầm với 
an toàn (không phải quá cố gắng) của nguời sử dụng, 
không bị đồ rơi vào người? (tạm gọi là tham số B) 
c. Vật liệu bằng gì? Vật liệu đó ảnh hưởng như thế nào 
đến sự quan sát của người sử dụng? 
d. Kết cấu ra sao? Hiện tại, các kết cấu tủ bếp (mà học 
viên được biết) đều tĩnh, liệu có giải pháp động - di 
chuyển linh hoạt hay không, nó góp phần gì giúp cải 
thiện thiết kế? 
e. Hình dáng thế nào cho mới lạ? 
g. Cách thức tiếp cận hiện tại (lấy, cất đồ từ tủ, quan sát 
từ bên ngoài… đã là tối ưu và duy nhất chưa? Liệu còn 
có cách thức nào khác? 
h. Các vấn đề a, b, c, d tồn tại một cách độc lập, không 
có sự tương tác với nhau hay có mối liên hệ nào giữa 
chúng, nếu có, với sự kết hợp của các yếu tố trên, ta 
được kết quả như thế nào? 
7. Luận điểm khoa học 
a. Các số liệu nhân trắc học và liên hệ với các kích thước 
của tủ bếp: theo Những dữ liệu của kiến trúc sư - Sổ tay 
các kiểu công trình xây dựng, tác giả Neufert do nhà xuất 
bản Khoa học và kỹ thuật tái bản lần thứ 2 năm 1998 
tầm với của một người bình thường là 2160mm (tỷ lệ cân 
đối của cơ thể do kiến trúc sư Le Corbusier nghiên cứu 
và đưa ra ), các tham số A, B lần lượt là 650 và 700mm, 
tầm với khi đứng bếp của phụ nữ là 1850. Đây là các 
tiêu chuẩn Âu, Mĩ. Các số đo này ở các châu lục khác có 
sự biến đổi, cụ thể như đã nói ở phần 5, sai lệch có thể 
lên tới 50mm 
b. Quan điểm của học viên - người thiết kế truớc vấn đề 
trên: 
Rõ ràng có sự khác biệt về mặt cấu trúc và hình dạng, số 
đo thể chất giữa các dân tộc trên các vùng miền, giữa các 
chủng tộc, không thể nhắm mắt tra sách và áp dụng một 
cách máy móc các thông số được. Ví dụ trong tỷ lệ nổi 
tiếng của Le Corbusier, chiều cao bình thường đặt ra 
(của đàn ông trưởng thành là 1.75), số liệu này đã cũ, 
cách đây 40 năm nhưng ở cụ thể Việt Nam, con số tương 
tự mới chỉ là 1.67m. Hơn nữa, đây là cuộc thi nhằm mục 
đích tìm các thiết kế để sản xuất hàng loạt và bán trên thị 
trường toàn cầu vì vậy theo quan điểm của học viên, cần 
xử lý vấn đề một các khéo léo, nêu ra một giải pháp tổng 
TrÇn Ngäc HiÕu - Líp: CH04K. 
Bμi tËp m«n: Ph−¬ng ph¸p nghiªn cøu khoa häc. 
thể mang hiệu quả cao, linh hoạt nhờ một khả năng biến 
đổi nào đó… 
c. Trả lời các câu hỏi và đề xuất giải pháp mới (giả 
thuyết nghiên cứu) 
Để trả lời các câu hỏi-các vấn đề nêu ở phần 6, học viên 
đưa ra phuơng án làm tủ bếp theo kiểu vỏ diêm dựng 
đứng, mặt ngoài bằng nhựa trong có các lỗ nhỏ để có thể 
quan sát bên trong và thông khí, phần ruột có thể trượt 
lên và xuống được như một ngăn kéo. Do có thể kéo 
xuống sát mặt bàn bếp nên tham số A có thể được nâng 
lên 1000mm, tạo độ thông khí và chiếu sáng đáng kể cho 
khu bếp, tạo sự liên hệ “cởi mở” hơn với các không gian 
sinh hoạt xung quanh. Tham số B vẫn giữ nguyên. Chiều 
cao của người đứng bếp trở nên ít quan trọng hơn trong 
cân nhắc khi thiết kế, chỉ cần đảm bảo độ cao đến tay 
nắm để kéo xuống là 1900 (đây là độ cao của người cao 
1450 có thể dễ dàng với tới). Thiết kế đã thể hiện ý đồ 
qua hình vẽ. 
TrÇn Ngäc HiÕu - Líp: CH04K. 
Bμi tËp m«n: Ph−¬ng ph¸p nghiªn cøu khoa häc. 
8. Chứng minh tính khả dụng của giả thuyết: 
Các phương pháp chứng minh: 
. thực địa 
 - phỏng vấn 
 - điều tra 
 - hội thảo 
 - thực nghiệm thí điểm 
Do không có điều kiện thời gian, kinh phí và quy mô của 
đề tài nên học viên chỉ có thể thực hiện được phương 
TrÇn Ngäc HiÕu - Líp: CH04K. 
Bμi tËp m«n: Ph−¬ng ph¸p nghiªn cøu khoa häc. 
pháp phỏng vấn, trên nhiều độ tuổi, hình thể, nghề 
nghiệp, trình độ học vấn, mức độ sử dụng bếp … tuy 
nhiên cũng chỉ ở một quy mộ nhỏ hẹp. 
Đối tượng phỏng vấn và các ý kiến: 
• Mẹ: đã nghỉ hưu, nghề nghiệp trước đây: đầu bếp, 
hiện tại: nội trợ gia đình, 57 tuổi, trình độ: tốt nghiệp 
phổ thông trung học, cao 1.55m. 
Ý kiến: có vẻ hợp lý, không gian giữa tủ trên và bàn 
bếp sẽ thoáng hơn, không phải bắc ghế hay cố gắng 
với khi lấy đồ ở trên cao. 
• Chị gái: nhà báo, 29 tuổi, trình độ: cử nhân báo chí 
và ngoại ngữ chuyên ngành phiên dịch tiếng Nga, đã 
lập gia đình, có 1 con trai, thường xuyên làm công 
việc nội trợ cao 1.50m. 
Ý kiến: được, mới lạ, tiện lợi vì không phải bắc ghế 
hay cố gắng với khi lấy đồ ở trên cao (do hơi thấp). 
• Em gái (em họ): sinh viên năm cuối ĐH. Bách Khoa 
Hà Nội, 23 tuổi, ít khi vào bếp do bận học và lười, 
cao 1.65m 
Ý kiến: mới lạ, tuy nhiên không quan tâm lắm. 
• Bạn gái của em trai: kiến trúc sư, trình độ: đại học, 
25 tuổi, ít khi vào bếp do công việc quá bận, gần đây 
thường xuyên hơn do đang đi học nấu ăn, cao 1.63m. 
Ý kiến: mới lạ, cần quan tâm hơn đến kết cấu và khả 
năng chịu tải. 
• Một em gái hàng xóm: bán phở, trình độ: lớp 7/12, 
20 tuổi, làm bếp chuyên nghiệp, cao 1.67m. 
Ý kiến: mới lạ, tuy nhiên chưa hiểu lắm, cần có mẫu 
thật để thử nghiệm trực tiếp. Hiện tại không thấy có 
vấn đề gì với tủ bếp trên đang sử dụng. 
• Bố: nhân viên kĩ thuật đường sắt đã nghỉ hưu, 62 
tuổi, ít khi phải làm bếp, cao 1.60m. 
Ý kiến: lạ, tiếp cận dễ dàng, kết cấu ray trượt như thế 
nào để đảm bảo và khả năng chịu tải. 
• Em trai: kiến trúc sư, trình độ: đại học, 24 tuổi, chưa 
bao giờ phải làm bếp một cách đúng nghĩa, cao 
1.68m. 
Ý kiến: cách đặt vấn đề khác lạ. 
• Bạn cùng cơ quan, nam giới,kiến trúc sư, 27 tuổi, nấu 
ăn khá ngon, cao 1.72m 
Ý kiến: OK! Thích ý tưởng trên,mới lạ, cần đẩy kỹ 
hơn. 
9. Luận cứ lý thuyết: 
Về mặt lý thuyết, tuy ý tưởng-giả thuyết đưa ra là mới 
mẻ nhưng hết sức đơn giản về mọi khía cạnh: sự sẵn có 
của vật liệu, đơn giản của kết cấu, tương đối hợp lý trong 
TrÇn Ngäc HiÕu - Líp: CH04K. 
Bμi tËp m«n: Ph−¬ng ph¸p nghiªn cøu khoa häc. 
cách lập luận nên học viên tin vào khả năng hiện thực 
của đồ ăn, có thể đạt được mục tiêu đề ra ở phần 3. 
10. Các quan sát thực tế để củng cố, chứng minh tính 
thiết thực của phương án thiết kế: 
Cuộc thi ở giai đoạn tìm ý tưởng nên học viên lúc này 
chưa vạch ra giải pháp cụ thể cho phần kỹ thuật (phần có 
nhiều ý kiến băn khoăn nhất) nhưng theo quan sát, các 
kết cấu tương tụ, có thể chỉnh sửa và đưa vào áp dụng 
trong trường hợp này là: cửa gara đẩy tay lên phía trên – 
rất phổ biến ở các nước Âu, Mĩ. Để đưa vào thực tế, thiết 
kế cần hoàn thiện nhiều nhưng có thể chắc, ý tưởng có 
thể trở thành hiện thực 
11. Kết quả cuộc thi: 
a. Các nghiên cứu gần giống đã có và đang tiến hành 
trong cùng thời gian: đây là một thiết kế ý tưởng - tham 
dự một cuộc thi, được đánh giá bởi hội đồng các nhà sản 
xuất, designer chuyên nghiệp, sự đánh giá của họ, phần 
nào thể hiện tính đúng đắn trong định hướng nghiên cứu. 
Trong 3000 bài dự thi, nghiên cứu của học viên lọt vào 
vòng 2 (100 bài). Giải 1 cuộc thi, cùng thể loại cũng là 
một ý tưởng về sự linh hoạt của tủ bếp, trong phương án 
mang tên LIFT (nâng) này tủ bếp cũng được bố trí trượt 
lên và xuống 
b. Nhận xét và đánh giá của bản thân. 
Trong 2 mục tiêu đề ra, nghiên cứu chỉ có được 
cơ hội cọ xát, nghiên cứu học hỏi về nghề nghiệp trong 
cách đặt vấn đề và giải quyết vấn đề (gồm cả giải quyết 
vấn đề bằng nhạy cảm và năng lực trong thiết kế). 
Bài tập này sử dụng một đồ án cũ để rèn luyện 
phương pháp nghiên cứu khoa học - phương pháp làm 
việc, thiết kế có định hướng và hiệu quả. 
Bài thi giải 1 (cùng thể loại) mang tên LIFT (nâng) 
của michel cornu + jean-pierre schoch + mattia brianza + 
andrea guarisco 
TrÇn Ngäc HiÕu - Líp: CH04K. 
Bμi tËp m«n: Ph−¬ng ph¸p nghiªn cøu khoa häc. 
Thụy Sĩ 
TrÇn Ngäc HiÕu - Líp: CH04K.