Bài tập thực hành Luật kinh doanh

I. ĐỊNH NGHĨA “THÀNH VIÊN/ CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ LÀ AI?” Khái niệm “thành viên/cổ đông thiểu số” không được quy định trong LDN 2005 và các luật chuyên ngành có liên quan đến DN. Luật Chứng khoán 2006 thì lại có riêng một tiêu chí xác định cổ đông lớn, theo đó “Cổ đông lớn là cổ đông sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp từ 5% trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết của tổ chức phát hành” (khoản 6, Điều 9). Nhưng nếu chiểu theo quy định này mà suy luận rằng: cổ đông thiểu số là những cổ đông nắm giữ dưới 5% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết là sai Giả sử trong CTCP có cổ đông/nhóm cổ đông sở hữu tỷ lệ cổ phần có quyền biểu quyết từ 65% hoặc 75% trở lên thì cổ đông/nhóm cổ đông này (có thể gọi là cổ đông đa số) có thể thông qua các Nghị quyết có lợi cho mình, đặt cổ đông/nhóm cổ đông còn lại vào “vùng nguy hiểm”. Nói cách khác, những cổ đông/nhóm cổ đông này bị xem như là/xếp vào nhóm những cổ đông thiểu số trong công ty khi mà những vấn đề thuộc thẩm quyền của họ đã bị cổ đông/nhóm cổ đông đa số kia quyết định hết Theo luật tư bản, cổ đông chiếm 51% trở lên sẽ có quyền quyết định.  49% còn lại là cổ đông thiểu số II. CƠ CHẾ BẢO VỆ THÀNH VIÊN/CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ THEO LUẬT DOANH NGHIỆP VÀ NGHỊ ĐỊNH 102 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG. Để bảo vệ cổ đông thì phải sử dụng công cụ pháp luật mà trong đó quy định về quyền của cổ đông giữ vai trò quan trọng nhất. Về mặt pháp lý, cổ đông/nhóm cổ đông (dù là cổ đông lớn nắm giữ bao nhiêu cổ phần) thì trước hết, họ là những cổ đông phổ thông có đầy đủ các quyền như quy định tại Điều 79 LDN. 1. quyền thông tin, quyền yêu cầu kiểm tra, kiểm toán(đặc biệt là các công ty đại chúng/niêm yết trên TTCK) Điều 79.1(đ);79.2(b); 98.3 ; Điều 79.2(d) luật doanh nghiệp năm 2005ở cty cổ phần Điều 41.1(c) cho thành viên của cty TNHH Tuy nhiên, cò có rất nhiều vấn đề: các cổ đông lớn bưng bít thông tin Trong khi các cổ đông nhỏ - được coi là những người “thấp cổ bé họng” trong công ty hy vọng có một cuộc họp hiệu quả, được nghe những kết quả báo cáo, kết quả kiểm toán thì một số ban lãnh đạo doanh nghiệp lại tìm mọi cách hạn chế quyền tham dự của họ - Nghiên cứu của CIEM nhận định.

docx14 trang | Chia sẻ: hoang10 | Lượt xem: 756 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập thực hành Luật kinh doanh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI TẬP THỰC HÀNH LUẬT KINH DOANH PHÂN TÍCH CÁC QUY ĐỊNH VỀ BẢO VỆ CỔ ĐÔNG/THÀNH VIÊN THIỂU SỐ TRONG CÔNG TY THEO LUẬT DOANH NGHIỆP VÀ NGHỊ ĐỊNH 102 NHÓM 4 – D11QT2 I. ĐỊNH NGHĨA “THÀNH VIÊN/ CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ LÀ AI?” Khái niệm “thành viên/cổ đông thiểu số” không được quy định trong LDN 2005 và các luật chuyên ngành có liên quan đến DN. Luật Chứng khoán 2006 thì lại có riêng một tiêu chí xác định cổ đông lớn, theo đó “Cổ đông lớn là cổ đông sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp từ 5% trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết của tổ chức phát hành” (khoản 6, Điều 9). Nhưng nếu chiểu theo quy định này mà suy luận rằng: cổ đông thiểu số là những cổ đông nắm giữ dưới 5% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết là sai Giả sử trong CTCP có cổ đông/nhóm cổ đông sở hữu tỷ lệ cổ phần có quyền biểu quyết từ 65% hoặc 75% trở lên thì cổ đông/nhóm cổ đông này (có thể gọi là cổ đông đa số) có thể thông qua các Nghị quyết có lợi cho mình, đặt cổ đông/nhóm cổ đông còn lại vào “vùng nguy hiểm”. Nói cách khác, những cổ đông/nhóm cổ đông này bị xem như là/xếp vào nhóm những cổ đông thiểu số trong công ty khi mà những vấn đề thuộc thẩm quyền của họ đã bị cổ đông/nhóm cổ đông đa số kia quyết định hết Theo luật tư bản, cổ đông chiếm 51% trở lên sẽ có quyền quyết định. à 49% còn lại là cổ đông thiểu số II. CƠ CHẾ BẢO VỆ THÀNH VIÊN/CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ THEO LUẬT DOANH NGHIỆP VÀ NGHỊ ĐỊNH 102 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG. Để bảo vệ cổ đông thì phải sử dụng công cụ pháp luật mà trong đó quy định về quyền của cổ đông giữ vai trò quan trọng nhất. Về mặt pháp lý, cổ đông/nhóm cổ đông (dù là cổ đông lớn nắm giữ bao nhiêu cổ phần) thì trước hết, họ là những cổ đông phổ thông có đầy đủ các quyền như quy định tại Điều 79 LDN. 1. quyền thông tin, quyền yêu cầu kiểm tra, kiểm toán(đặc biệt là các công ty đại chúng/niêm yết trên TTCK) Điều 79.1(đ);79.2(b); 98.3 ; Điều 79.2(d) luật doanh nghiệp năm 2005ở cty cổ phần Điều 41.1(c) cho thành viên của cty TNHH Tuy nhiên, cò có rất nhiều vấn đề: các cổ đông lớn bưng bít thông tin Trong khi các cổ đông nhỏ - được coi là những người “thấp cổ bé họng” trong công ty hy vọng có một cuộc họp hiệu quả, được nghe những kết quả báo cáo, kết quả kiểm toán thì một số ban lãnh đạo doanh nghiệp lại tìm mọi cách hạn chế quyền tham dự của họ - Nghiên cứu của CIEM nhận định. Thậm chí, CIEM còn chỉ ra, có những trường hợp, doanh nghiệp lựa chọn các địa điểm thật xa trụ sở công ty, một số khác tổ chức họp ở những thành phố khác. Động thái này nhằm gây khó khăn cho các cổ đông nhỏ lẻ vì họ sẽ mất chi phí đi lại, sắp xếp công việc của mình để có thể tham gia cuộc họp. Nhiều doanh nghiệp tìm cách đưa ra các lý do không dựa trên cơ sở pháp lý mà chỉ dựa trên ý chí của lãnh đạo công ty để biện minh cho sự vi phạm của mình (do địa điểm tổ chức bé, không đủ diện tích cho tất cả cổ đông...). Trong trường hợp các cổ đông vẫn đến đông đủ thì diễn biến cuộc họp cũng không cho phép họ có thể gây ảnh hưởng tới Đại hội cổ đông vì một cuộc họp sẽ theo công thức định sẵn: Chủ tịch HĐQT hoặc giám đốc trình bày báo cáo chuẩn bị sẵn, Ban kiểm soát (BKS) đọc báo cáo đánh giá thẩm tra đã chuẩn bị sẵn và thảo luận chất vấn. 2.quyền yêu cầu mua lại cổ phần Điều 90.1; 90.2 cty cổ phần Điều 43 cty tnhh Tuy nhiên, quyền này chỉ được thực hiện khi thành viên/ cổ đông biểu quyết phản đối việc tổ chứ công ty hoặc thay đổi quyền và nghĩa vụ của cổ đông/ thành viên được qui định tại điều lệ công ty Hơn nữa Thời hạn 90 ngày là quá dài; nhiều trường hợp không ai mua hoặc giá đưa ra rất thấpà quyền ko đc sử dụng hiệu qur 3. Quyền triệu tập đại hội đồng cổ đông, hội đồng thành viên; Bổ nhiệm, miễn nhiệm các chức danh quản lý trong công ty Điều 104 ;Điều 79.1(a), 2.(a), Điều 96.2(c) luật doanh nghiệp năm 2005 cho cty cổ phần Khoản 2 điều 79: cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất là 6 tháng thì có quyền đề cử người vào hội đồng quản trị/ ban kiểm sát nếu có. Tuy nhiên, số lượng 10% là quá lớn. cần có sự liên kết của các cổ đông áp dụng bầu dồn phiếu. Quy định bầu dồn phiếu k1/29/102: -1% ko có quyền đề cử -10-20% đề cử 1 người - 20-30% đề cử 2 người 30-40% đề cử 3 người 4. quyền tham dự, chất vấn và biểu quyết Điều 79.1a; điều 41.1a luật doanh nghiệp 2005 Tuy nhiên, khi sở hữu một tỷ lệ cổ phần phổ thông nhất định (ví dụ: 1%, 10%, 25% hay 35% trở lên), thì cổ đông/nhóm cổ đông này có các quyền về những vấn đề khác nhau (xem bảng 1). Tỷ lệ cổ phần sở hữu Quyền của cổ đông Bầu dồn phiếu thành viên HĐQT, BKS Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất 6 tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty Có các quyền quy định khoản 2 Điều 79 LDN Có (Điều 29, NĐ 102/2010) Với tỷ lệ trên 35% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết Phủ quyết tất cả các Nghị quyết của ĐHCĐ (khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 104 LDN) Có (Điều 29, NĐ 102/2010) Với tỷ lệ trên 25% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết Phủ quyết tất cả các Nghị quyết của ĐHCĐ (điểm b, khoản 3 và khoản 5 Điều 104 LDN): - Các Quyết định được thông qua quyết định dưới hình thức lấy ý kiến bằng văn bản Có (Điều 29, NĐ 102/2010) Cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu ít nhất 1% số cổ phần phổ thông liên tục trong thời hạn 06 tháng - Có quyền yêu cầu Ban kiểm soát khởi kiện trách nhiệm dân sự đối với thành viên HĐQT, giám đốc (tổng giám đốc) (Điều 25, khoản 1 NĐ 102/2010). - Có quyền trực tiếp khởi thành viên HĐQT, giám đốc (tổng giám đốc) (khoản 3 Điều 25, NĐ102). Không có Một thực tế khác là tại nhiều CTCP (bao gồm cả công ty đại chúng/công ty niêm yết), khi mà các cổ đông lớn đã sở hữu lượng cổ phần ở mức độ có thể thông qua các Nghị quyết có lợi cho mình (ví dụ 65% hay 75%), thì hầu như vai trò của cổ đông/nhóm cổ đông còn lại “không được đếm xỉa”. Tại cơ quan có quyền cao nhất của công ty là ĐHCĐ, mặc cho cổ đông nhỏ/thiểu số phát biểu, chất vấn, đề xuất các nội dung quan trọng hoặc có liên quan đến quyền lợi của họ, cổ đông lớn vẫn “bình chân như vại”, vì họ đã có được tỷ lệ biểu quyết đủ để thông qua các Nghị quyết có lợi cho mình, gạt cổ đông nhỏ/thiểu số ra bên lề, cho dù nội dung này có được đưa vào chương trình họp Nhưng cũng có trường hợp Do quá nhấn mạnh đến việc bảo vệ các cổ đông thiểu số nên không ít trường hợp gây những khó khăn không đáng có cho việc quản trị công ty. Các cụm từ: “ít nhất 65%”, “ít nhất 75%” và “tỷ lệ cụ thể do điều lệ công ty quy định” là nguyên nhân gây khó khăn cho việc quản trị các công ty TNHH có từ hai thành viên trở lên và các công ty cổ phần. Ví dụ: ba anh em nhà ông Quang nắm giữ 62% vốn cổ phần của một CTCP kinh doanh bất động sản cũng chẳng thể chi phối được công ty vì 5 người khác do ông Tuyền làm thủ lĩnh, tuy chỉ chiếm 35,2% vốn điều lệ nhưng họ ghét anh em nhà ông Quang, luôn phản đối những quyết định của ĐHĐCĐ. Họ luôn dự họp đầy đủ và đoàn kết trong bỏ phiếu, như vậy, chỉ cần 35,2% họ đã có khả năng phủ quyết đối với vấn đề ba anh em nhà ông Quang muốn thông qua. 5. quyền khởi kiện của thành viên/ cổ đông thiểu số với người quản lý, điều hành doanh nghiệp Nghị định 102/2010/NĐ-CP ngày 1-10-2010 có thể coi là một bước tiến lớn trong việc bảo vệ các cổ đông nhỏ, lần đầu tiên cho phép “con kiến” kiện “củ khoai” khi quy định: cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu ít nhất 1% số cổ phần phổ thông liên tục trong thời hạn 6 tháng có quyền yêu cầu Ban kiểm soát khởi kiện trách nhiệm dân sự đối với thành viên HĐQT, giám đốc (tổng giám đốc) khi các chức danh này không thực hiện đúng các quyền và nhiệm vụ được giao; không thực hiện, thực hiện không đầy đủ, không kịp thời quyết định của HĐQT; thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao trái với quy định của pháp luật, Điều lệ công ty hoặc Nghị quyết của ĐHCĐ Kiện ra tòa, Ban lãnh đạo thua kiện ví dụ, ngày 5/4/2013, Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội đã mở phiên toà xét xử vụ kiện của một nhóm cổ đông của CTCP Phát triển Kỹ thuật và Đầu tư (ITD) thuộc Viện Máy và Công nghiệp (IMI) với đề nghị: hủy nghị quyết Đại hội cổ đông thường niên ngày 26/4/2012 và nghị quyết Đại hội cổ đông bất thường ngày 12/5/2012 của ITD. Nguyên đơn là cổ đông đại diện cho nhóm cổ đông nhỏ lẻ (gần 10 người với tỷ lệ sở hữu hơn 1% vốn điều lệ). Lý do bắt nguồn từ việc kinh doanh năm 2012 thua lỗ được công bố là hơn 1,1 tỷ đồng nhưng những báo cáo kiểm toán thì lại bị kiểm toán từ chối đưa ra ý kiến tại các khoản mục quan trọng do không có đủ cơ sở; công ty chia cổ tức thấp nhưng mức lương thưởng của thành viên HĐQT thì vẫn cao. Trong trường hợp này, doanh nghiệp không những quên gửi tài liệu cho cổ đông trước khi tiến hành Đại hội cổ đông mà khi cổ đông yêu cầu giải trình, chủ tọa còn từ chối yêu cầu và lá phiếu chiếm 65% vốn điều lệ đã khiến cho tờ trình thù lao HĐQT nhanh chóng được thông qua. Căn cứ khởi kiện là do ITD gửi thiếu tài liệu Đại hội cổ đông năm 2012, sau gần 1 năm trời khởi kiện nhóm cổ đông này đã có được điều mình muốn. Tòa án phán quyết hủy kết quả Đại hội cổ đông và Công ty phải chịu án phí 2 triệu đồng. Trao quyền nửa vời TS. Nguyễn Ngọc Khánh, Trưởng phòng Pháp chế, CTCP Cửa sổ Châu Âu (Eurowindow Holding) nhìn nhận, việc trao quyền khởi kiện cho cổ đông theo kiểu gián tiếp thông qua Ban kiểm soát đang khiến cho quy định hiện hành không có tính khả thi. Mặt khác, các trường hợp (hay các căn cứ) mà thành viên, cổ đông có quyền khởi kiện như quy định tại Điều 19 và Điều 25 của Nghị định 102/2010 là quá rộng, dễ gây khiếu kiện tràn lan. “Quy định hiện hành chưa tạo thuận lợi cho cổ đông, thành viên thực hiện quyền khởi kiện người quản lý DN khi vi phạm bổn phận của họ. Lý do là bởi trình tự, thủ tục khởi kiện còn phức tạp, khi quy định Ban kiểm soát không khởi kiện theo yêu cầu, thì cổ đông mới được trực tiếp khởi kiện...”, thủ tục theo đuổi vụ kiện dân sự rườm rà, kéo dài với nghĩa vụ chứng minh của nguyên đơn phức tạp; chi phí khởi kiện tính cho bên khởi kiện, kể cả trường hợp khởi kiện nhân danh công ty. Tuy nhiên, quan trọng hơn là việc hạn chế đối tượng khởi kiện - tức là cổ đông nắm giữ dưới 1% hoặc nắm 1% nhưng không đủ sáu tháng liên tục sẽ không có quyền này. Cơ sở nào để Nghị định 102 lại tước quyền của cổ đông nắm dưới 1% cổ phần. Tại sao lại có sự phân biệt đối xử vô lý giữa các cổ đông như vậy? Và chỉ sau 15 ngày nếu ban kiểm soát không trả lời bằng văn bản hoặc không tiến hành khởi kiện hoặc công ty không có ban kiểm soát thì cổ đông mới được quyền trực tiếp khởi kiện. Trước hết, nói về thời hạn 15 ngày thông báo cho ban kiểm soát, đây có thể là quy định lợi bất cập hại. Trong 15 ngày này, các thông tin mà cổ đông cung cấp cho ban kiểm soát có thể bị rò rỉ cho các cán bộ quản lý liên quan. 15 ngày đó chẳng khác nào thời hạn để “đánh động” cho cán bộ quản lý để tạo điều kiện cho họ xóa bỏ chứng cứ, gây khó khăn cho việc khởi kiện của cổ đông. Do Luật không có quy định chi tiết về thời gian tiến hành họp ĐHĐCĐ bất thường (vì đại hội loại này có thể triệu tập nhiều lần trong năm tài chính) nên dẫn đến tình trạng, tại nhiều CTCP, HĐQT/BKS/cổ đông sở hữu trên 10% cổ phần vì lợi ích của nhóm cổ đông đa số đã tiến hành triệu tập ĐHĐCĐ bất thường ngay trong thời gian 6 tháng - vốn để dành cho triệu tập ĐHĐCĐ thường niên. Chính quy định không rõ ràng này đã khiến cho mẫu thuẫn giữa các nhóm lợi ích/cổ đông trong nhiều công ty càng thêm trầm trọng, vì bên triệu tập đại hội bất thường quan niệm rằng, họ triệu tập là vì “lợi ích của công ty” và vì luật không quy định/không cấm nên được phép triệu tập; trong khi bên phản đối thì cũng lập luận rằng, nếu đang trong thời gian tổ chức ĐHĐCĐ thường niên mà lại triệu tập đại hội bất thường là sai. Bản thân cụm từ “vì lợi ích công ty” tưởng là dễ hiểu, nhưng thực tế cũng rất mơ hồ vì trong công ty thì có nhiều lợi ích, lợi ích này phục vụ cho nhóm cổ đông nào, đa số hay thiểu số? Thực tế này đòi hỏi Luật Doanh nghiệp sửa đổi phải giải quyết dứt điểm những quy định pháp lý theo kiểu “nước đôi”, không rõ ràng hay “tùy nghi vận dụng”. Mới đây, tại CTCP Công nghệ phẩm Hải Phòng, nhóm cổ đông đa số chiếm 70% vốn điều lệ đã tiến hành triệu tập ĐHĐCĐ bất thường. Tuy nhiên, nhóm cổ đông thiểu số lại cho rằng, nếu đang trong thời gian có thể triệu tập họp ĐHĐCĐ thường niên mà lại đi triệu tập ĐHĐCĐ bất thường thì việc triệu tập họp này là sai. Chưa kể, cái mà nhóm cổ đông đa số viện dẫn là “vì lợi ích của Công ty” là nhằm phục vụ lợi ích chỉ cho nhóm cổ đông đa số/cổ đông “cá mập” đang thâu tóm Công ty bằng mọi giá, còn cổ đông thiểu số bị gạt ra ngoài rìa. Bảng 2: Chỉ số bảo vệ nhà đầu tư của Việt Nam (2006-2013) Bảng 3: Chỉ số bảo vệ nhà đầu tư của Việt Nam so sánh với khu vực và thế giới (2006-2013). Nguồn: Doing Business Database Do đó, yêu cầu lớn nhất đặt ra trong việc sửa đổi LDN năm 2005 liên quan đến nội dung bảo vệ cổ đông thiểu số là phải thực sự đưa đến cho cổ đông những công cụ pháp lý rõ ràng và đầy đủ hơn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, trong đó đặc biệt chú trọng đến quyền về thông tin, quyền khởi kiện, trách nhiệm của giám đốc, quyền tham dự và biểu quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền ĐHCĐ * Nguyên nhân gặp khó khăn -Thứ nhất, bất cập trong cách thức thực hiện quyền cổ đông: Một thực tế tại nhiều CTCP hiện nay là nhiều cổ đông, nhất là cổ đông thiểu số không thực sự quan tâm đến các quyền của mình. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân như: việc chủ động tìm hiểu các quy định pháp luật có liên quan của cổ đông; việc tuân thủ của chính công ty và ban lãnh đạo với các quy định của pháp luật về bảo vệ cổ đông; vai trò giám sát và xử lý vi phạm một cách kịp thời và nhanh chóng của các cơ quan có liên quan ( Sở KH&ĐT, UBCK, Tòa án) Ví dụ: 2 cổ đông, 13.600 cổ phần “quyết” tương lai KHB Ngày 4/12/2013, trong khi các DN đang hối hả tổng kết kinh doanh năm cũ để đưa ra phương hướng sản xuất - kinh doanh năm 2014, thì tại CTCP Khoáng sản Hòa Bình (mã KHB), diễn ra cuộc họp ĐHCĐ thường niên 2013. Vốn điều lệ 62,7 tỷ đồng, nhưng chỉ có 2 cổ đông, với 13.600 cổ phần sở hữu dự họp, KHB vẫn đủ điều kiện tổ chức họp ĐHCĐ thường niên và họp thành công, vì đây là lần thứ 3, HĐQT triệu tập họp. Hai lần trước đó, các cuộc họp diễn ra vào ngày 28/10/2013 và 18/11/2013 không được tổ chức thành công, vì cũng chỉ có 2 cổ đông, đại diện cho 13.600 cổ phần tham dự họp. III. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ BẢO VỆ CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ 1. Luật doanh nghiệp 2005 cần phải định nghĩa rõ ràng thành viên/cổ đông thiếu số là ai, đặc điểm của cổ đông thiểu số là gì để có thể nhận dạng được họ đồng thời để họ biết quyền và nghĩa vụ của mình ra sao. 2.Tăng cường ý thức tự bảo vệ mình của cổ đông thiểu số 3. Thiết lập chặt chẽ công cụ pháp lý tạo điều kiện cho các cổ đông thiểu số Đảm bảo quyền cơ bản của cổ đông và thiết lập cơ chế để cổ đông thực thi quyền một cách hiệu quả 4. Tăng thêm quy định về yêu cầu công khai, minh bạch đối với CTCP, tăng cường trách nhiệm của BKS 5. Xây dựng và thực thi các chế tài nghiêm khắc đối với CTCP có những hoạt động vi phạm quyền lợi của cổ đông, đặc biệt CĐTS KẾT LUẬN Quyền của cổ đông là điều kiện tiên quyết và quan trọng nhất để bảo vệ cổ đông, là phương tiện để cổ đông có thể sử dụng để bảo vệ mình. Ở các phần trên đã làm rõ các vấn đề về bảo vệ cổ đông thiểu số, phân tích các quy định của pháp luật về bảo vệ cổ đông thiểu số và liên hệ với thực tiễn để thấy rõ các bất cập còn tồn tại. Nhằm bảo vệ quyền lợi của cổ đông thiểu số, pháp luật cần thiết phải hoàn thiện hơn nữa cơ chế pháp lý đã có, cùng với việc xây dựng các biện pháp mới nhằm xử lý triệt để các hành vi vi phạm của cổ đông lớn, nhằm bảo vệ có hiệu quả quyền lợi của cổ đông thiểu số ngay cả trên lý luận thực thi trong thực tiễn. Bên cạnh đó các cổ đông thiểu số không nên trông chờ thụ dộng vào sự bảo vệ từ các cơ quan chức năng có thẩm quyền, mà họ phải ý thức được sự cần thiết của việc họ phải bảo vệ quyền lợi của mình, đẻ có thể chủ động bảo vệ quyền lợi của mình một cách tốt nhất Một trong các quy định đang gây tranh luận hiện nay chính là quy định về hiệu lực nghị quyết, quyết định của ĐHCĐ, HĐTV/HĐQT nhưng bị khởi kiện (Điều 27 Nghị định 102/2010). Theo đó, “Nếu Điều lệ công ty không quy định khác, nghị quyết, quyết định của ĐHCĐ, HĐTV, HĐQT có hiệu lực thi hành kể từ ngày được thông qua hoặc từ ngày có hiệu lực được ghi rõ trong nghị quyết, quyết định đó. Trường hợp có cổ đông, nhóm cổ đông, thành viên HĐTV hoặc thành viên HĐQT yêu cầu khởi kiện hoặc trực tiếp khởi kiện đối với nghị quyết, quyết định đã được thông qua thì nghị quyết, quyết định bị khởi kiện vẫn tiếp tục được thi hành cho đến khi Tòa án hoặc Trọng tài có quyết định khác”. Mục đích của quy định này là bảo đảm cho việc các nghị quyết, quyết định của ĐHCĐ, HĐTV, HĐQT có hiệu lực thi hành, giúp hoạt động của DN diễn ra liên tục (kể cả trong trường hợp bị khởi kiện). Tuy nhiên, có hai vấn đề đặt ra. Thứ nhất, nghị quyết, quyết định này bị cổ đông/nhóm cổ đông, thành viên HĐTV/HĐQT yêu cầu kiện hoặc trực tiếp kiện ra Tòa án hoặc Trọng tài. Trong thời gian chờ phán quyết của Tòa án, Trọng tài, nghị quyết, quyết định bị khởi kiện vẫn tiếp tục được thi hành, nhưng gây thiệt hại cho bên khởi kiện thì ai chịu trách nhiệm, nhất là khi các nghị quyết, quyết định này đã thực hiện được một khoảng thời gian và có nhiều thay đổi gây bất lợi cho đối tượng đi kiện? Thứ hai, liệu một nghị quyết, quyết định vừa ban hành đã bị khởi kiện ngay lập tức mà vẫn có hiệu lực thi hành, thì quy định này tại Nghị định 102/2010 có mâu thuẫn với những quy định của pháp luật tố tụng hay Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật không (Nghị định hướng dẫn thi hành luật tư - LDN, thì không thể trái với Luật, nhất là với các luật công - Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật)? Bởi lẽ theo pháp luật TTDS, bên khởi kiện có quyền yêu cầu Tòa án, Trọng tài áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đình chỉ việc thực hiện các quyết định hoặc nghị quyết (như vụ việc xảy ra tại SUDICO, CTCP Công nghệ phẩm Hải Phòng). Trả lời câu hỏi thứ nhất, các bên có thể vận dụng chính các quy định của LDN 2005 để ràng buộc trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân ban hành hoặc thông qua quyết định, nghị quyết. Theo đó, khi thông qua các nghị quyết, quyết định trái với pháp luật và Điều lệ công ty thì những tổ chức, cá nhân thông qua nghị quyết, quyết định đó “phải cùng liên đới chịu trách nhiệm cá nhân về quyết định đó và phải đền bù thiệt hại cho công ty; thành viên phản đối thông qua quyết định nói trên được miễn trừ trách nhiệm” (khoản 4 Điều 108 LDN 2005). Liên quan đến câu hỏi thứ hai, rõ ràng quy định tại Điều 27 NĐ102/2010 tưởng như “hỗ trợ” cho phía thông qua nghị quyết, quyết định, nhưng thực tiễn lại không giải quyết được gì nhiều. Có lẽ quy định này vẫn đang “khả thi” và được các cổ đông đa số (bao gồm cả các nhóm lợi ích lớn của công ty) vận dụng suốt thời gian vừa qua. Hơn nữa, quy định về việc phải có biện pháp bảo đảm bằng tài sản khi yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án, Trọng tài hay thủ tục tố tụng kéo dài khiến cho bên khởi kiện (nhóm cổ đông thiểu số) nản lòng, dù quyền lợi bị ảnh hưởng. Hơn 50 cổ đông thiểu số là những người lao động của Công ty cổ phần (CTCP) Công nghệ phẩm Hải Phòng đang đứng trước nguy cơ mất việc vì sự thâu tóm của nhóm cổ đông lớn. Đại diện nhóm cổ đông thiểu số tại CTCP Công nghệ phẩm Hải Phòng (CNPHP) vừa gửi đơn khởi kiện lên TAND TP. Hải Phòng đề nghị Tòa án hủy bỏ toàn bộ các nghị quyết của Đại hội cổ đông (ĐHCĐ) bất thường ngày 28/5/2013 và ngăn chặn cổ đông lớn của công ty này (sau khi đã tổ chức ĐHCĐ trái luật), tiến hành thay đổi lại Đăng ký kinh doanh để loại bỏ người đại diện theo pháp luật và ép cổ đông thiểu số phải bán lại cổ phần với giá rẻ nhằm thâu tóm Công ty với 1 Trụ sở và 11 địa điểm kinh doanh nằm tại các vị trí đắc địa. “Bất thường” từ việc triệu tập Theo Luật Doanh nghiệp, DN phải tổ chức ĐHCĐ thường niên trong thời hạn 4 tháng kể từ khi kết thúc năm tài chính, có thể gia hạn thêm 2 tháng theo đề nghị của HĐQT. Tuy nhiên, dựa vào một quyết định được ban hành trái luật của HĐQT ngày 25/4/2013, các thành viên HĐQT đã bỏ qua việc tổ ch