Pháp luật về phá sản doanh nghiệp là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành đề điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong việc giải quyết tuyên bố phá sản. Pháp luật về phá sản là một bộ phận cấu thành nhóm các chế định pháp luật về giải quyết hậu quả của khung pháp luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Trong hệ thống các văn bản pháp luật về phá sản thì luật phá sản đóng vai trò chủ đạo.
2 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2319 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập Thương mại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Mục lục
1
Lời nói đầu:
2
B, Nội dung:
3
I,Một số nội dung cơ bản của pháp luật phá sản.
3
1- Phạm vi áp dụng của LPS:
3
2- Khái niệm doanh Nghiệp lâm vào tình trạng phá sản:
3
3- Chủ thể có quyền nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu tòa án mở thủ tục phá sản
4
4 – Thẩm quyền giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản:
4
5 – Thủ tục giải quyết phá sản:
5
6 - Địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia thủ tục phá sản:
5
II, Việc thực hiện pháp luật phá sản doanh nghiệp hợp tác xã:
6
* Giai đoạn 1993 – 2003
6
* Giai đoạn 2004 đến nay
7
Qua thực tiễn thi hành Luật Phá sản thời gian vừa qua, có thể rút ra một số nhận xét sau đây:
8
1. Ưu điểm:
8
2. Nhược điểm
8
Thứ nhất, Số lượng các vụ việc yêu cầu tuyên bố phá sản là rất ít không phản ánh đúng thực tế hoạt động của các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
8
Thứ hai, Số lượng vụ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản chủ yếu tập trung tại các tỉnh, thành phố lớn
9
Thứ ba, các doanh nghiệp với tư cách là những đối tượng có quyền làm đơn yêu cầu tuyên bố phá sản còn thiếu hiểu biết về pháp luật phá sản.
9
Thứ tư, nhiều vụ việc phá sản bị tạm đình chỉ, đình chỉ
10
Thứ năm, Các doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản chủ yếu là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
10
Thứ sáu, Tình trạng vi phạm các quy định về tố tụng trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản còn xảy ra
11
Thứ bảy, Các doanh nghiệp bị tuyen bố phá sản có số nợ vượt quá nhiều so với giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp
12
Thứ tám, Nhiều vụ phá sản liên quan tới các vụ án hình sự
12
Thứ chin, tỷ lệ phục hồi doanh nghiệp sau khi mở thủ tục phá sản là rất thấp.
12
Thứ mười, quá trình tiến hành thủ tục phá sản còn bị kéo dài.
13
Nguyên nhân của những hạn chế.
13
C. Kết luận- Một số kiến nghị:
15
Tài liệu tham khảo.
17
Lời nói đầu:
Lời nói đầu:
Pháp luật về phá sản doanh nghiệp là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành đề điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong việc giải quyết tuyên bố phá sản. Pháp luật về phá sản là một bộ phận cấu thành nhóm các chế định pháp luật về giải quyết hậu quả của khung pháp luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Trong hệ thống các văn bản pháp luật về phá sản thì luật phá sản đóng vai trò chủ đạo.
Có thể nói phá sản trong nền kinh tế thị trường là hiện tượng tất yếu của quá trình cạnh tranh, chọn lọc và đào thải tự nhiên để loại bỏ các doanh nghiệp yếu kém, khẳng định sự tồn tại và phát triển đối với doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Đối với một doanh nghiệp cụ thể, có thể vì nhiều lý do như: xác định phương hướng đầu tư, lựa chọn ngành nghề đầu tư không đúng hoặc gặp phải sự cố, rủi ro trên thương trường... dẫn đến tình trạng kinh doanh gặp phải khó khăn, thua lỗ thì việc phá sản doanh nghiệp được coi là một cơ hội để doanh nghiệp rút ra khỏi thương trường một cách có trật tự để có điều kiện tìm kiếm một cơ hội kinh doanh khác. Với tinh thần đó thì phá sản doanh nghiệp là cần thiết cho sự phát triển, phá sản để phát triển chứ không phải phá sản là mất đi. Ra đời, hoạt động, phá sản doanh nghiệp là một quá trình gắn kết với nhau. Quá trình này không thể nằm ngoài sự điều chỉnh của pháp luật. Việt Nam xây dựng một nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN có sự điều tiết của nhà nước cũng có nghĩa là phải chấp nhận các thuộc tính, quy luật vốn có của nó, trong đó có vấn đề phá sản doanh nghiệp. Trước yêu cầu đó, pháp luật về phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam với tư cách là một bộ phận cấu thành của hệ thống pháp luật kinh tế đã được hình thành là một tất yếu khách quan. Mốc quan trọng đánh dấu cho sự hình thành pháp luật phá sản Việt Nam là Luật phá sản doanh nghiệp (Luật PSDN) được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua ngày 30/12/1993, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/1994. Đây là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên và đồng thời cũng là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất hiện nay để điều chỉnh một cách toàn diện, đầy đủ trình tự, thủ tục phá sản doanh nghiệp. Tuy nhiên, do được xây dựng trong điều kiện mới chuyển sang cơ chế quản lý kinh tế mới nên luật phá sản doanh nghiệp 1994 cũng bộc lộ những hạn chế, bất cập, làm cản trở việc giải quyết phá sản doanh nghiệp ở nước ta, cần phải được sửa đổi, bổ sung. Chính vì vậy,luật phá sản mới với nhiều điểm tiến bộ, đã được Quốc hội thông qua ngày 15/6/2004 (có hiệu lực thi hành từ ngày 15/10/2004) thay thế luật PSDN năm 1993. Sau khi luật phá sản được ban hành, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành một số văn bản hướng dẫn thi hành, cụ thể là: Nghị quyết số 03/2005/NQ-TANDTC ngày 28 tháng 4 năm 2005 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Phá sản; Quyết định số 01/2005/QĐ-TANDTC ngày 27 tháng 4 năm 2005 của Chánh án Toà án nhân dân tối cao về Quy chế làm việc của Thẩm phán phụ trách tiến hành thủ tục phá sản; Nghị định số 94/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15 tháng 7 năm 2005 về giải quyết quyền lợi của người lao động ở doanh nghiệp và HTX bị phá sản; Nghị định số 67/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 11 tháng 7 năm 2006 hướng dẫn việc áp dụng Luật Phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức, hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản…
Như vậy nhà nước đã ban hành một hệ thống các văn bản pháp luật, tao cơ sở pháp lý quan trọng cho việc phá sản doanh nghiệp hợp tác xã. Vậy việc thực hiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã trong thời gian qua như thế nào? Đó cũng chính là nội dung bài tập lớn cuối kỳ môn luật thương mại mà em đề cập tới. Trong nội dung bài tập, em xin trình bày một số nội dung cơ bản của pháp luật phá sản và việc thực hiện pháp luật phá sản từ khi có luật phá sản đến nay (từ khi luật phá sản doanh nghiệp 1993 ra đời) .
B, Nội dung:
I,Một số nội dung cơ bản của pháp luật phá sản.
1- Phạm vi áp dụng của LPS:
Theo Điều 2 Luật phá sản 2004, Mục 1.1 và mục 1.2 của phần I, chương I – Những quy định chung của luật phá sản trong Nghị quyết 03/2005/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật phá sản thì đối tượng áp dụng của Luật phá sản,…thì đối tượng áp dụng của luật phá sản bao gồm các doanh nghiệp, hợp tác xã, trong đó bao gồm cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và công ty nhà nước hoạt động trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh quốc gia. Tuy nhiên việc áp dụng đối với công ty nhà nước hoạt động trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh quốc gia sẽ theo quy định của chính phủ. Như vậy, Luật phá sản 2004 vẫn giữ nguyên tính hạn chế của phạm vi đối tượng áp dụng so với Luật phá sản doanh nghiệp 1993 đó là Phá sản thì phải áp dụng cho mọi đối tượng kinh doanh, nghĩa là phải bao gồm các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể và cá nhân kinh doanh nhưng cả hai luật phá sản hiện nay vẫn chưa đưa hộ kinh doanh cá thể vào đối tượng áp dụng. Cái mới duy nhất trong việc giải quyết vấn đề phạm vi đối tượng áp dụng chủa Luật phá sản 2004 so với Luật phá sản doanh nghiệp 1993 là đã liệt kê hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã bên cạnh khái niệm doanh nghiệp. Với các quy định này đồng nghĩa với cách hiểu hợp tác xã không phải một doanh nghiệp thuần túy
2- Khái niệm doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản:
Theo quy định tại điều 3 LPS doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản khi “không còn khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu”. So với khái niệm này trong LPSDN thì khái niệm này có tiêu chí xác định tình trạng phá sản theo hướng ngắn gọn hơn, đơn giản và đi vào bản chất của sự việc không căn cứ vào thời gian thua lỗ, nguyên nhân của tình trạng thua lỗ cũng như không đòi hỏi doanh nghiệp, HTX con nợ đã áp dụng các biện pháp để tự cứu mình mà không đạt kết quả hay chưa như Luật PSDN năm 1993 đã từng quy định. Quy định này là một bước tiến mới của LPS, phù hợp với thông lệ chung trên thế giới, tạo điều kiện cho việc sớm mở thủ tục phá sản cũng như khả năng phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã.
3- Chủ thể có quyền nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu tòa án mở thủ tục phá sản.
Theo LPS chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần, người lao động, doanh nghiệp hợp tác xác bị mắc nợ, chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước, cổ đông đông ty cổ phần, thành viên hợp danh trong công ty hợp danh. Như vậy, Luật đã quy định rõ, đầy đủ và hợp lý hơn về các đối tượng có quyền, nghĩa vụ nộp đơn cũng như thủ tục, trình tự và hồ sơ yêu cầu mở thủ tục phá sản, cụ thể là:
- Đơn giản hoá các điều kiện mà chủ nợ phải đáp ứng khi nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, không bắt chủ nợ phải cung cấp cho Toà án các giấy tờ, tài liệu để chứng minh rằng, doanh nghiệp mắc nợ đã mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, chỉ cần chứng minh chủ nợ đã đòi nợ nhưng không được doanh nghiệp mắc nợ thanh toán nợ đến hạn.
- Xoá bỏ thời hạn nợ lương của doanh nghiệp, HTX đối với người lao động như một điều kiện để nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Người lao động có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, HTX khi họ không được trả lương cũng như các khoản nợ khác và trên cơ sở đó, họ cho rằng, doanh nghiệp, HTX đã thực sự lâm vào tình trạng phá sản.
- Quy định thời hạn mà chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, HTX phải nộp đơn yêu cầu Toà án giải quyết phá sản đối với chính mình (trong thời hạn 3 tháng, kể từ ngày nhận thấy mình đã lâm vào tình trạng phá sản) và nếu vi phạm nghĩa vụ này thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật (Mặc dù trách nhiệm gì thì Luật và Nghị định hướng dẫn Luật chưa quy định rõ).
- Mở rộng quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản cho một số đối tượng khác (chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước, cổ đông công ty cổ phần và thành viên hợp danh trong công ty hợp danh) nhằm tạo thêm các kênh mới để thúc đẩy việc làm đơn yêu cầu giải quyết phá sản, góp phần chấm dứt tình trạng có doanh nghiệp thực chất đã không thể hoạt động trên thực tế nhưng vẫn tồn tại về mặt pháp lý.
4 - Thẩm quyền giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản:
Theo điều 7 LPS thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản được phân cấp không chỉ cho Tòa kinh tế, Tòa nhân dân cấp tỉnh mà còn cho Tòa án nhân dân cấp huyện. Quy định này là một điểm mới của LPS, nhằm thực hiện chủ trương tăng thẩm quyền cho tòa án nhân dân cấp huyện theo nghị quyết số 08/NQ-TW của Bộ Chính trị.
- Toà án cấp huyện có thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản đối với htx đã đăng ký kinh doanh tại cơ quan đkkd cấp huyện đó. thủ tục phá sản do một thẩm phán toà án nhân dân phụ trách
- Toà án cấp tỉnh tiến hành thủ tục phá sản đối với DN, HTX đã đăng ký kinh doanh tại cơ quan đkkd cấp tỉnh đó. thủ tục phá sản do một thẩm phán hoặc tổ thẩm phán gồm 3 thẩm phán phụ trách, trong đó 1 thẩm phán được chánh án toà án giao làm tổ trưởng . Trong trường hợp cần thiết toà án nhân dân cấp tỉnh lấy lên để tiến hành thủ tục phá sản đối với htx thuộc thẩm quyền cấp huyện.
5 - Thủ tục giải quyết phá sản:
LPS quy định nhiều loại thủ tục khác nhau, bao gồm: thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh, thủ tục thanh lý tái sản và thủ tục tuyên bố phá sản. Sau khi thụ lý đơn yêu cầu và ra quyết định mở thủ tục phá sản, Tòa án sẽ xem xét, phân tích tình trạng tài chính và khả năng phục hồi của doanh nghiệp, hợp tác xã để quyết định áp dụng loại thủ tục nào cho phù hợp với tình hình cụ thể của doanh nghiệp hợp tác xã. Như vậy , Luật đã đa dạng hoá các loại thủ tục áp dụng đối với doanh nghiệp, HTX lâm vào tình trạng phá sản. Quy định về tính đa dạng của các loại thủ tục mà tòa án có thể áp dụng đối với doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản như vậy đã khắc phục được sự cứng nhắc về thủ tục giải quyết phá sản trong LPSDN, đồng thời phù hợp với xu thế chung của thể giới, tạo điều kiện chấm dứt nhanh chóng sự tồn tại của những doanh nghiệp trong tình trạng “chết lâm sàn”, giảm thiểu tới mức tối đa chi phí cho vệc tiến hành thủ tục phá sản doanh nghiệp, bảo vệ tốt hơn quyền lợi của các chủ nợ.
6 - Địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia thủ tục phá sản:
Địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia thủ tục phá sản trong LPS được xây dựng trên cơ sở kế thừa sự phù hợp trong LPSDN và hoàn thiện thêm 1 bước. Đó là:
+ Trong thủ tục phá sản, Tòa án có vị trí vai trò trung tâm, là chủ thể duy nhất có thẩm quyền giải quyết vụ phá sản, việc giải quyết vụ phá sản tại TAND cấp huyện do một thẩm phán thực hiện, tại TAND cấp tỉnh do 1 thẩm phán hoặc tổ thẩm phán thực hiện. Tuy nhiên,
+ Địa vị pháp lý của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản trong LPS được quy định trên một quan điểm tiến bộ. Luật quy định hang loạt quyền cũng như nghĩa vụ cho doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ trong quá trình giải quyết phá sản. Luật đã tạo điều kiện tối đa cho doanh nghiệp hợp tác xã khắc phục khó khăn về tài chính, thoát khỏi tình trạng phá sản và trở lại hoạt động bình thường.
+ Trong LPS Chủ nợ là một chủ thể quan trọng và có vai trò quyết định trong việc giải quyết một số vấn đề cơ bản phát sinh từ thủ tục phá sản. Các chủ nợ đều được tham gia vào hầu hết các giai đoạn từ khi khởi kiện tới lúc thi hành xong quyết định tuyên bố phá sản: nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, quyết định mở thủ tục phục hồi hay thủ tục thanh lý tài sản…
+ Theo LPS Tổ quản lý, thanh lý tài sản là tổ chức duy nhất thực hiện đồng thời cả hai nhiệm vụ quản lý và thanh toán tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã, dưới sự giám sát của tòa án.
II, Việc thực hiện pháp luật phá sản doanh nghiệp hợp tác xã:
Pháp luật về phá sản doanh nghiệp hợp tác xã được hình thành từ năm 1993 với sự ra đời Luật phá sản doanh nghiệp đến nay đã được thay thế bởi Luật phá sản 2004, do đó có thể chia quá trình thực hiện pháp luật phá sản doanh nghiệp hợp tác xã thành 2 giai đoạn sau:
* Giai đoạn 1993 – 2003: là chặng đường dài 10 năm thực hiện luật phá sản doanh nghiệp tuy nhiên theo thống kê của toà án nhân dân tối cao số lượng đơn yêu cầu giải quyết tuyên bố phá sản doanh nghiệp chưa nhiều, bình quân mỗi năm toàn ngành chỉ nhận được và thanh lý chưa đầy 30 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, trong số này có khoảng 1/2 bị đình chỉ, tạm đình chỉ. Đến tháng 09/2001 theo thống kê của tòa án nhân dân nhân dân tối cao trên phạm vi toàn quốc có 58 doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản.
Số lượng vụ việc phá sản đang thụ lý và giải quyết qua các năm theo báo cáo tổng kết của tòa án nhân dân tối cao như sau:
Năm 1994: Tòa án nhân dân địa phương thụ lý 05 vụ việc liên quan tới yêu cầu phá sản, cả 5 doanh nghiệp bị yêu cầu tuyên bố phá sản đều là doanh nghiệp tư, và tập trung ở các thành phố lớn như TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng Ninh, Cần Thơ, trong năm này tòa án chưa giải quyết song vụ nào.
Năm 1995: Số đơn yêu cầu tuyên bố phá sản có tăng hơn, thành phần cũng đa dạng hơn, theo thống kê đã có 17 tỉnh thành phố thụ lý 27 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, trong đó có 9 doanh nghiệp tư nhân, 8 công ty TNHH, 6 doanh nghiệp nhà nước, 1 công ty cổ phần và 2 hợp tác xã, 1 doanh nghiệp thành lập theo luật đầu tư nước ngoài. Các tòa đã giải quyết xong 21 vụ ( kể cả số vụ đã thụ lý năm 1994 ) trong đó hòa giải thành và tạm đình chỉ giải quyết phá sản 10 vụ, đình chỉ giải quyết phá sản 6 vụ, tuyên bố phá sản 5 vụ.
Năm 1996: Tòa án đã thu lý được 22 đơn yêu cầu giải quyết tuyên bố phá sản, đã thực hiện xong 11 vụ trong đó có 7 doanh nghiệp tư nhân, 2 công ty TNHH, 2 doanh nghiệp Nhà nước trong đó các vụ đã giải quyết có 4 quyết định của tòa án kinh tế cấp tỉnh bị khiếu nại, kháng nghị, tòa phúc thẩm tòa án nhân dân tối cao đã thu lý và giải quyết 4 vụ ( hủy 3 cải sửa 1 vụ )
Năm 1997 tổng số đơn yêu cầu tuyên bố phá sản mà toà án thụ lý là 22 , các tòa án giải quyết song 15 vụ trong đó đã giải quyết tuyên bố phá sản 12 vụ và ra quyết định tạm đình chỉ 3 vụ.
Năm 1998 chỉ có 15/61 tỉnh thành phố thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp với tổng số 23 trường hợp, trong đó chỉ có 3 trường hợp được tòa án tuyên bố phá sản ( 2 doanh nghiệp Nhà nước 1 doanh nghiệp tư nhân)
1999 tòa án nhân dân đã thụ lý 22 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản, ra quyết định tuyên bố phá sản 7 doanh nghiệp. Riêng toàn án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã thụ lý 5 vụ giải quyết 3 vụ.
Năm 2000 Tòa án nhân dân các địa phương đã thụ lý được 8 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp ( cộng 1 đơn yêu cầu từ năm 1999 chuyển sang) tòa án đã ra quyết định phá sản 8 doanh nghiệp.
Năm 2001 toàn ngành Tòa án chỉ thụ lý được 6 vụ, số vụ cũ còn lại 4 vụ, cộng phải giải quyết là 10 vụ, đã giải quyết xong 6 vụ.
Năm 2002 thì toàn ngành Tòa án chỉ thụ lý 8 vụ đã giải quyết xong 7 vụ ( trong đó 1 vụ không mở thủ tục 1 vụ tạm đình chỉ hòa giải thành, 5 vụ tuyên bố phá sản )
* Giai đoạn 2004 đến nay: Dây là giai đoạn thực thi Luật phá sản, so với với tình hình thực hiện Luật PSDN năm 1993, tình hình thụ lý và giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp theo Luật Phá sản năm 2004 đã được cải thiện nhưng vẫn còn gặp nhiều khó khăn; hiệu quả giải quyết việc phá sản ở các cấp Toà án vẫn chưa đạt kết quả như mong muốn.
Theo báo cáo tổng kết của Toà án nhân dân tối cao, từ khi Luật Phá sản có hiệu lực pháp luật đến nay, đã có 195 vụ phá sản được thụ lý. Tình hình thụ lý và giải quyết đơn yêu cầu giải quyết phá sản là như sau:
Năm 2005, toàn ngành Tòa án đã thụ lý mới 11 vụ. Năm 2004 chuyển qua 3 vụ, tổng cộng 14 vụ. Toà án đã giải quyết được 01 vụ (đạt 7,14%); còn tồn chuyển sang năm 2006 là 13 vụ. Như vậy lượng đơn xin phá sản gởi Tòa án tăng hơn 2004 ( 2004 chỉ thụ lý 5 vụ ).
Năm 2006, toàn ngành Toà án đã thụ lý mới 40 vụ; có 13 vụ từ năm 2005 chuyển qua, tổng cộng là 53 vụ. Đã giải quyết được 16 vụ, đạt tỷ lệ 30,2%.
Năm 2007, toàn ngành Toà án đã thụ lý mới 144 vụ phá sản, trong đó, Toà án nhân dân cấp tỉnh thụ lý 120 vụ, Toà án nhân dân cấp huyện thụ lý 24 vụ. Năm 2006 chuyển qua 31 vụ, tổng cộng là 175 vụ việc. Trong số đó, Toà án đã ra quyết định mở thủ tục phá sản 164 vụ, quyết định không mở thủ tục phá sản 10 vụ, quyết định trả lại đơn 01 vụ. Toà án nhân dân cấp huyện giải quyết xong tất cả 24 vụ đã thụ lý (đều ra quyết định tuyên bố phá sản), đạt 100%. Còn lại 151 vụ phá sản do Toà án nhân dân cấp tỉnh thụ lý được giải quyết như sau: quyết định trả lại đơn 01 vụ, quyết định không mở thủ tục phá sản 10 vụ, quyết định tuyên bố phá sản theo thủ tục đặc biệt 04 vụ, quyết định đình chỉ thủ tục phá sản 10 vụ, quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản 75 vụ, còn tồn lại 51 vụ đang được tiếp tục giải quyết.
Năm 2008, tòa án thụ lý mới 136 đơn, quyết định không mở thủ tục phá sản 4 đơn, mở thủ tục phá sản 131 đơn và trả lại đơn 1 trường hợp.
Qua thực tiễn thi hành Luật Phá sản thời gian vừa qua, có thể rút ra một số nhận xét sau đây:
1. Ưu điểm:
Pháp luật phá sản ra đời đã góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật kinh tế nói riêng, nó đã thực sự đóng vai trò là công cụ pháp lý của nhà nước trong quản lý kinh tế. Kể từ khi ban hành và có hiệu lực đến nay luật phá sản doanh nghiệp đã góp phần tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp, được sự hưởng ứng và quan tâm của nhiều tầng lớp nhân dân nhất là các doanh nghiệp.
Luật Phá sản đã phát huy tác dụng trong việc lành mạnh hoá môi trường hoạt động sản xuất, kinh doanh; khắc phục được một phần tình trạng nhiều doanh nghiệp trên thực tế đã mất khả năng thanh toán đáng lẽ phải chấm dứt hoạt động nhưng vẫn tồn tại, gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động của các doanh nghiệp khác như trước đây. Qua kết quả giải quyết phá sản năm 2007 của Toà án nhân dân cho thấy, đã có sự chuyển biến ngày càng tích cực trong việc thực thi Luật Phá sản.
Số lượng các doanh nghiệp được thụ lý cũng như số lượng các doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản cũng có chiều hướng tăng lên, nếu như giai đoạn 1993 – 2003 năm có số vụ phá sản nhiều nhất được tuyên bố thì cũng chỉ được có 27 vụ (năm 1995), thậm chí có năm chỉ tuyên bố được có 5 vụ (năm 2005), 6 vụ (năm 2001) thì giai đoạn kể từ khi có luật phá sản mới đến nay số lượng đơn được thụ lên cao lên hẳn, năm 2007 thụ lý đến 144 vụ, năm thấp nhất cũng thụ lý tới 11 vụ (năm 2005).
2. Nhược điểm
Thứ nhất, Số lượng các vụ việc yêu cầu tuyên bố phá sản là rất ít không phản ánh đúng thực tế hoạt động của các doa