Là một biến số kinh tế quan trọng, tỷ giá có tác động tới nhiều mặt hoạt động của nền kinh tế vĩ mô. Nó ra đời từ hoạt động ngoại thương và quay trở lại tác động lên hoạt động xuất nhập khẩu, sự di chuyển các luồng vốn và cán cân thanh toán của mỗi quốc gia. Trong giai đoạn 3 năm vừa rồi (2008-2010), chúng ta đã chứng kiến rất nhiều sự kiện, biến cố có ảnh hưởng sâu sắc tới toàn bộ nền kinh tế quốc gia. Ngày 7/11/2007 – Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức kinh tế thế giới WTO
43 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2470 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài thảo luận Phân tích tình hình chính sách tỷ giá 2008 - 2010 và đề xuất giải pháp hoàn thiện nhằm nâng cao sức cạnh tranh của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA NGÂN HÀNG
--------------------
&
& &
BÀI THẢO LUẬN
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ 2008 - 2010 & ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN NHẰM NÂNG CAO SỨC
CẠNH TRANH CỦA VIỆT NAM.
Nhóm thực hiện: NHE – K11
Chuyên ngành: Ngân hàng thương mại
Hà Nội, ngày 21/11/2010.
LỜI MỞ ĐẦU.
Là một biến số kinh tế quan trọng, tỷ giá có tác động tới nhiều mặt hoạt động của nền kinh tế vĩ mô. Nó ra đời từ hoạt động ngoại thương và quay trở lại tác động lên hoạt động xuất nhập khẩu, sự di chuyển các luồng vốn và cán cân thanh toán của mỗi quốc gia. Trong giai đoạn 3 năm vừa rồi (2008-2010), chúng ta đã chứng kiến rất nhiều sự kiện, biến cố có ảnh hưởng sâu sắc tới toàn bộ nền kinh tế quốc gia. Ngày 7/11/2007 – Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức kinh tế thế giới WTO. Cuối 2007, những dấu hiệu khủng hoảng tài chính xuất hiện tại Mỹ và sau đó, tác động lan truyền, gây ra một trong những cuộc suy thoái tồi tệ nhất của nền kinh tế toàn cầu. Điều hành chính sách tiền tệ nói chung và chính sách tỷ giá nói riêng như thế nào trong bối cảnh phức tạp này có tác động quyết định đến tình hình tăng trưởng kinh tế cả ngắn và dài hạn.
Trong mấy tuần trở lại đây, thị trường ngoại hối Việt Nam lại trở nên hết sức căng thẳng. Tỷ giá Đô la Mỹ/đồng Việt Nam trên thị trường tự do tăng liên tục, có lúc lên tới 21.200, cao hơn tỷ giá trần của Ngân hàng Nhà nước tới gần 9%.Khi tỷ giá tăng vượt trần, một cách tự nhiên, người ta chăm chú theo dõi động thái của Ngân hàng Nhà nước. Vì với chế độ tỷ giá hiện nay ở Việt Nam – chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết, những quyết định chính sách tỷ giá của NHTW sẽ có tác động trực tiếp tới thu nhập hay khoản nợ bằng ngoại tệ của người dân, của doanh nghiệp. Chính sách không phù hợp sẽ làm mất niềm tin vào VND, vào khả năng của các cơ quan chức năng, gây xáo trộn kinh tế và xã hội.
Xét thấy tính thiết thực của việc nghiên cứu và vai trò quan trọng như vậy của chính sách tỷ giá, nhóm thảo luận xin được lựa chọn đề tài này.
1. Mục đích nghiên cứu: thông qua việc phân tích một cách tổng quan những diễn biến của quá trình điều hành chính sách tỷ giá để đưa ra các đánh giá và một vài giải pháp giúp hoàn thiện chính sách, nâng cao sức cạnh tranh trong tương lai của Việt Nam.
2. Đối tượng nghiên cứu: chính sách tỷ giá và tình hình tỷ giá của Việt Nam trong 3 năm 2008, 2009, 2010.
3. Phương pháp nghiên cứu: sử dụng các phương pháp logic, phân tích, thống kê, cùng số liệu, mô hình hóa.
MỤC LỤC
* Lời mở đầu. 2
CHƯƠNG I - TIỀN ĐỀ LÝ THUYẾT.
1. Khái niệm chính sách tỷ giá. 6
2. Mục tiêu của chính sách tỷ giá. 6
2.1. Mục tiêu theo nghĩa rộng. 6
2.2. Mục tiêu theo nghĩa hẹp. 7
3. Chế độ tỷ giá và các công cụ chính sách tỷ giá ở Việt Nam. 7
3.1. Chế độ tỷ giá ở Việt Nam. 7
3.2. Các công cụ của chính sách tỷ giá ở Việt Nam. 8
CHƯƠNG II - CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2008-2010.
1. NĂM 2008. 12
1.1. Bối cảnh kinh tế thế giới và Việt Nam cuối 2007 đầu 2008. 12
1.2. Điều hành chính sách tiền tệ nói chung. 12
1.3. Chính sách tỷ giá năm 2008. 14
1.3.1. Giai đoạn 1 (từ 01/01 – 11/06/2008) 14
1.3.2. Giai đoạn 2 (từ 11/06 – 15/10/2008) 17
1.3.3. Giai đoạn 3 (từ 16/10 đến hết năm 2008) 18
2. NĂM 2009. 21
2.1. Bối cảnh kinh tế thế giới và Việt Nam. 21
2.2. Điều hành chính sách tiền tệ nói chung. 22
2.3. Chính sách tỷ giá năm 2009. 22
2.3.1. Giai đoạn 1 (từ 01/01 - 24/11/2009) 22
2.3.2. Giai đoạn 2 (từ 25/11 đến hết năm 2009) 24
3. NĂM 2010: (3 quý đầu năm) 26
3.1. Bối cảnh kinh tế thế giới và Việt Nam cuối 2009 đầu 2010. 26
3.2. Điều hành chính sách tiền tệ nói chung. 27
3.3. Chính sách tỷ giá 3 quý đầu năm 2010. 27
3.3.1. Giai đoạn 1 (từ 01/01- 10/02/2010) 27
3.3.2. Giai đoạn 2 (từ 17/8 - hết quý 3/2010) 29
CHƯƠNG III - ĐÁNH GIÁ VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ.
1. Đánh giá. 34
1.1. Đánh giá về hành động của NHTW trong quá trình thực thi chính sách. 34
1.2. Đánh giá về việc duy trì điều hành chính sách theo chế độ tỷ giá thả nổi
có điều tiết. 36
2. Giải pháp. 40
* Tài liệu tham khảo. 42
* Nhóm sinh viên thực hiện. 43
CHƯƠNG I - TIỀN ĐỀ LÝ THUYẾT.
1. Khái niệm chính sách tỷ giá:
Chính sách tỷ giá là một bộ phận của chính sách kinh tế. Vì vậy, hiểu theo nghĩa rộng thì: Chính sách tỷ giá là những hoạt động của chính phủ (đại diện thường là NHTW) thông qua một chế độ tỷ giá nhất định và hệ thống các công cụ, can thiệp nhằm duy trì một mức tỷ giá cố định hay tác động để tỷ giá biến động đến một mức cần thiết phù hợp với mục tiêu chính sách kinh tế quốc gia.
Trên thực tế, các quốc gia luôn sử dụng tỷ giá là công cụ trước tiên để điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu của mình vì hiệu quả tác động từ tỷ giá là nhanh chóng và rõ ràng nhất. Do đó, theo nghĩa thực tế, ta có thể hiểu: Chính sách tỷ giá là những hoạt động của chính phủ thông qua cơ chế điều hành tỷ giá và hệ thống các công cụ, can thiệp nhằm đạt được một mức tỷ giá nhất định, để tỷ giá tác động tích cực đến hoạt động xuất nhập khẩu của quốc gia.
2. Mục tiêu của chính sách tỷ giá:
2.1. Mục tiêu theo nghĩa rộng:
Ổn định giá cả.
Với giả định các yếu tố khác không đổi, khi NHTW tác động làm tăng (giảm) tỷ giá, sẽ dẫn đến ảnh hưởng mức giá cả chung của nền kinh tế, do đó sẽ kích thích (kiềm chế) lạm phát. Để duy trì giá cả ổn định thì NHTW phải sử dụng chính sách tỷ giá ổn định và cân bằng.
Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và việc làm đầy đủ.
Khi các yếu tố khác là không đổi, muốn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giảm tỉ lệ thất nghiệp, cần áp dụng chính sách phá giá nội tệ. Ngược lại, nếu muốn giảm bớt tốc độ tăng trưởng kinh tế quá nóng thì áp dụng chính sách nâng giá nội tệ.
Cân bằng cán cân vãng lai.
Bằng chính sách định giá nội tệ thấp (hoặc cao) sẽ làm cho cán cân vãng lai đang thâm hụt (hoặc thặng dư) trở về trạng thái cân bằng.
2.2. Mục tiêu theo nghĩa hẹp:
Trong thực tế, tỷ giá chỉ có tác động trực tiếp đến các hạng mục thuộc cán cân vãng lai. Vì thế, ta thường hiểu mục tiêu chính sách tỷ giá là mục tiêu điều chỉnh cán cân vãng lai, hay hoạt động xuất nhập khẩu của quốc gia.
3. Chế độ tỷ giá và các công cụ chính sách tỷ giá ở Việt Nam.
3.1. Chế độ tỷ giá ở Việt Nam:
Ngày 12/12/1997, Quốc hội khóa XII Nhà nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 01/1997/QH10, qui định về NHNN, để xây dựng và thực thi có hiệu quả chính sách tiền tệ quốc gia, quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; trong đó, đã đề cập đến việc xác định chế độ tỷ giá ở Việt Nam tại điều 19 chương 3 như sau:
“Điều 19. Tỷ giá hối đoái
1. Tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam được hình thành trên cơ sở cung cầu ngoại tệ
trên thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.
2. Ngân hàng Nhà nước xác định và công bố tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam.”
Như vậy, tỷ giá hối đoái trên thị trường Việt Nam từ năm 1997, đã được xác định theo chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết – trong đó, tỷ giá không cố định mà cũng không tự do biến động hoàn toàn. Một mặt, tỷ giá được hình thành và biến động theo các lực lượng thị trường; mặt khác, NHTW tích cực can thiệp để giảm sự biến động quá mức của tỷ giá, hoặc để tỷ giá biến động trong một biên độ nhất định.
Tiếp tục, vào ngày 16/6/2010 vừa qua, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 46/2010/QH12, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011 và thay thế Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 01/1997/QH10 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 10/2003/QH11; trong đó, công bố Nhà nước ta sẽ tiếp tục duy trì chế độ tỷ giá này trong tương lai.
“Điều 13. Tỷ giá hối đoái.
1. Tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam được hình thành trên cơ sở cung cầu ngoại tệ trên thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.
2. Ngân hàng Nhà nước công bố tỷ giá hối đoái, quyết định chế độ tỷ giá, cơ chế điều hành tỷ giá.”
3.2. Các công cụ của chính sách tỷ giá ở Việt Nam.
Để đồng nội tệ được định giá cao hơn hay thấp hơn, thì chính phủ phải sử dụng các công cụ cần thiết để can thiệp lên tỷ giá. Các công cụ này được gọi là công cụ của chính sách tỷ giá.
(Cụ thể việc sử dụng các công cụ này sẽ được nhìn thấy rõ hơn ở phần 2 của bài thảo luận)
3.2.1. Nhóm công cụ tác động trực tiếp lên tỷ giá:
Hoạt động mua bán nội tệ của NHTW trên thị trường ngoại hối: nhằm tác động tới tỷ giá theo mục tiêu đã đề ra. Đây là công cụ quan trọng và chủ yếu của NHTW. Cụ thể: nếu trong lưu thông ngoại tệ đang bị thừa à ảnh hưởng đến VND bị lên giá, gây tác động xấu đến xuất khẩu thì NHTW tiến hành xem xét mua ngoại tệ vào, đẩy VND ra nhằm làm tỷ giá ổn định; ngược lại, nếu trong lưu thông đang thiếu ngoại tệ à VND bị giảm giá, NHTW xem xét mua vào VND và bán ngoại tệ ra nhằm giảm áp lực phá giá nội tệ.
Tuy nhiên, sử dụng công cụ này buộc NHTW phải có một lượng dự trữ ngoại hối đủ mạnh. Các hoạt động can thiệp trực tiếp của NHTW tạo ra hiệu ứng thay đổi cung ứng tiền trong lưu thông, có thể tạo ra áp lực lạm phát hay thiểu phát, chính vì vậy đi kèm theo các hoạt động can thiệp trực tiếp, NHTW thường sử dụng thêm một nghiệp vụ thị trường mở để hấp thụ lượng dư hay bổ sung phần thiếu hụt tiền tệ trong lưu thông.
Các biện pháp hành chính: vs xu thế mở cửa nền kinh tế, tự do hóa thương mại và tự do hóa tài chính thì các biện pháp này ngày càng được hạn chế áp dụng.
+ Biện pháp kết hối: quy định các thể nhân, pháp nhân có nguồn thu ngoại tệ phải bán một tỷ lệ nhất định trong thời hạn nhất định cho các tổ chức kinh doanh ngoại hối. Mục đích là để tăng cung ngoại tệ tức thời, hạn chế đầu cơ và giảm áp lực phải phá giá nội tệ.
+ Các quy định về hạn chế về đối tượng được mua ngoại tệ, mục đích sử dụng, số lượng được mua, thời điểm mua ngoại tệ… Mục đích nhằm giảm cầu ngoại tệ, giữ tỷ giá ổn định.
3.2.2. Nhóm công cụ tác động gián tiếp lên tỷ giá:
Với xu thế toàn cầu hóa, tự do hóa thương mại hiện nay, thì các biện pháp can thiệp trực tiếp đã bộc lộ những hạn chế rất lớn. Vì vậy, xu hướng chung là chuyển từ can thiệp trực tiếp sang can thiệp gián tiếp bằng các công cụ sau:
Lãi suất tái chiết khấu: xét với các yếu tố khác không đổi.
+ Khi NHTW tăng mức lãi suất tái chiết khấu sẽ dẫn tới mặt bằng lãi suất thị trường tăng theo, khiến cho các luồng vốn ngoại tệ chảy vào làm cho nội tệ lên giá.
+ Khi NHTW giảm lãi suất chiết khấu sẽ có tác động ngược chiều.
Trên thực tế, đây là công cụ có tác động nhanh chóng và mạnh mẽ nhất nên thường được sử dụng và tỏ ra hiệu quả cao.
Thuế quan:
+ Thuế (NK) cao làm hạn chế nhập khẩu, khiến cho cầu ngoại tệ giảm và kết quả là nội tệ lên giá.
+ Ngược lại, thuế thấp sẽ kích thích nhập khẩu, cầu ngoại tệ tăng lên dẫn đến nội tệ giảm giá.
Gia nhập WTO đã mở ra cho chúng ta cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu, và thực tế là trong hai năm 2007 và 2008, hội nhập kinh tế quốc tế đã có tác động rất tích cực đến xuất khẩu. Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu tăng 21,9% so với năm 2006; và năm 2008, kim ngạch xuất khẩu tăng tới 29,1% so với năm 2007. (Năm 2009, do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu nên kim ngạch xuất khẩu giảm 8,9% so với 2008). Tuy vậy, sự gia tăng này cũng chưa thể hiện được mức độ bứt phá so với các năm trước và như kỳ vọng sau khi nước ta gia nhập WTO.
Cũng song song với đó, yêu cầu bao trùm khi gia nhập WTO và tham gia các khu vực mậu dịch tự do (FTA – Free Trade Area) là Việt Nam tiến hành từng bước mở cửa thị trường hàng hóa trong nước, thông qua các cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu. Tổng hợp chung, các kết quả đàm phán cho toàn bộ biểu thuế nhập khẩu gồm 10.600 dòng thuế, và Việt Nam đã cam kết cắt giảm khoảng 30% mức thuế nhập khẩu hiện hành và sẽ thực hiện chủ yếu trong vòng năm năm kể từ khi gia nhập WTO.
Hạn ngạch:
+ Hạn ngạch làm hạn chế nhập khẩu, dẫn đến là nội tệ lên giá.
+ Dỡ bỏ hạn ngạch có tác dụng ngược lại.
Để đáp ứng nhu cầu gia nhập WTO, Việt Nam cũng đã xóa bỏ hạn ngạch nhập khẩu đối với nhiều mặt hàng sản phẩm, như: ngô hạt, bông, sữa nguyên liệu, phim nước ngoài, … và sẽ dỡ bỏ tiếp hạn ngạch với các hàng hóa khác như: đường, thuốc lá nguyên liệu, … trong các năm tới.
Giá cả:
+ Chính phủ trợ giá cho những mặt hàng xuất khẩu chiến lược, làm cho khối lượng xuất khẩu tăng, tăng cung ngoại tệ khiến cho nội tệ lên giá.
+ Chính phủ bù giá cho một số mặt hàng nhập khẩu thiết yếu, làm tăng nhập khẩu, tăng cầu ngoại tệ dẫn tới nội tệ giảm giá.
Năm 2008, Nhà nước ta đã ra quyết định chấm dứt bù lỗ cho tất cả các mặt hàng xăng dầu, buộc doanh nghiệp phải tự mình cạnh tranh, đồng thời, trút bỏ bớt gánh nặng cho ngân sách. Sắp tới đây trong Đề án “Những định hướng lớn về giá cả trong chiến lược tài chính giai đoạn 2011 – 2020” điện, than, nước sạch... và nhiều mặt hàng thiết yếu, quan trọng khác mang tính chất đầu vào nền kinh tế cũng sẽ được loại bỏ cơ chế trợ giá, bù giá như đã từng thực hiện với xăng dầu.
Giống như dỡ bỏ thuế quan, hạn ngạch, đây là hướng đi tất yếu khi chọn tự do hóa thương mại, tự do hóa tài chính và mở cửa kinh tế.
Điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các NHTM:
+ Khi ngoại tệ trở nên khan hiếm, NHTW có thể tăng dự trữ bắt buộc đối với vốn huy động bằng ngoại tệ của các NHTM, khiến cho chi phí sử dụng vốn ngoại tệ tăng, kết quả là lãi suất huy động ngoại tệ giảm xuống và những người sở hữu ngoại tệ sẽ bán ngoại tệ đi lấy nội tệ, làm tăng cung ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.
+ Ngược lại, khi có quá nhiều ngoại tệ lưu thông trên thị trường, NHTW có thể giảm dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ của các NHTM, khiến cho lãi suất huy động ngoại tệ tăng lên, dẫn đến xu hướng bán nội tệ đi để lấy ngoại tệ, cầu ngoại tệ tăng lên trên thị trường ngoại hối.
Quy định mức lãi suất trần đối với tiền gửi bằng ngoại tệ:
+ Khi mức lãi suất trần được “siết chặt” : mục đích là đánh vào tâm lý đầu cơ, tích trữ ngoại tệ, kích thích dân cư chuyển tiền gửi sang nội tệ, giảm lượng cầu ngoại tệ và đưa dòng ngoại tệ vào sản xuất, kinh doanh. ..
Ngoài ra, đồng nội tệ cũng trở nên có giá trị hơn, tạo cơ sở để từng bước hạ lãi suất huy động nội tệ, góp phần giảm lạm phát.
Người gửi tiền chuyển sang gửi nội tệ, nhà đầu cơ chuyển sang nắm giữ nội tệ khiến cho có sự dịch chuyển lớn từ ngoại tệ sang nội tệ, điều này làm tỷ giá giảm.
Khi mức lãi suất trần được “nới lỏng”: mục đích là hạn chế ngoại tệ lưu thông trên thị trường, đưa dòng nội tệ vào sản xuất, kinh doanh.
CHƯƠNG II - CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ CỦA VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2008-2010.
1. NĂM 2008:
1.1. Bối cảnh kinh tế thế giới và Việt Nam cuối 2007 đầu 2008:
Nền kinh tế thế giới bắt đầu có những dấu hiệu tiêu cực từ tháng 8-2007, khi thị trường tín dụng bất động sản của Mỹ rơi vào tình trạng khủng hoảng. Đồng USD đã chịu sức ép trong 4 năm qua do tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai của Mỹ và quyết định giảm lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) trong năm 2007. Đồng USD đã liên tục xuống dốc không phanh trong những tháng cuối năm 2007, nhìn chung mất giá khoảng 16%.
Cuối năm 2007 và đầu 2008, kinh tế Việt Nam đã bộc lộ những dấu hiệu tăng trưởng quá nóng. Tỷ lệ lạm phát tăng mạnh từ mức 6,6% năm 2006 lên tới 15,7% tính đến tháng 2/2008. Cán cân vãng lai thâm hụt ở mức đang ngại, khoảng 9,3% - 9,7% GDP, giá tài sản tăng cao, đặc biệt là giá cổ phiếu đầu 2007 và giá bất động sản cuối 2007. Tính chung 6 tháng cuối năm 2007, tỷ giá VND/USD đã giảm 0,12%.
1.2. Điều hành chính sách tiền tệ nói chung:
Nửa đầu năm 2008, NHNN chủ trương thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt trước các nguy cơ tác động của cuộc khủng hoảng, nhằm mục tiêu kiềm chế lạm phát (tháng 2,3: tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc ở tất cả các kì hạn, quy định trần lãi suấ huy động tiền gửi, phát hành tín phiếu bắt buộc; tháng 5: ban hành cơ chế điều hành lãi suất mới, quy định lãi suất cho vay của các NHTM không vượt quá 150% lãi suất cơ bản).
Nửa cuối 2008, nới lỏng chính sách tiền tệ, ưu tiên phục hồi tăng trưởng. (nâng lãi suất tín phiếu bắt buộc, trả lãi tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng VND; từ tháng 10, các lãi suất chỉ đạo liên tục hạ xuống, lãi suất cơ bản sau 4 lần hạ đã từ 14% xuống 8,5%; )
1.3. CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ NĂM 2008:
Giai đoạn 1 (từ 01/01 – 11/06/2008):
Diễn biến chính sách tỷ giá:
Phục vụ mục tiêu chung kiềm chế lạm phát của chính sách tiền tệ, NHNN không thực hiện mua ngoại tệ USD nhằm hạn chế việc bơm tiền ra lưu thông, tăng biên độ tỷ giá USD/VND từ 0,75%/ năm lên 1%/ năm trong ngày 10/03/2008.
Các nhân tố ảnh hưởng khác:
- Dưới tác động của chính sách tiền tệ nói chung, chỉ trong 3 tuần đầu của tháng 2/2008, các ngân hàng thương mại đã phải thực hiện đồng thời 4 quyết định về thắt chặt tiền tệ của NHNN, đã gây ra các tác động sốc và phản ứng tiêu cực tức thì của thị trường tiền tệ và hoạt động của NHTM à kéo theo những tác động đến cung- cầu ngoại tệ. Có thể nói đây là 1 cú phanh gấp trong quá trình tụt dốc của nền kinh tế VN, ngăn chặn sự leo thang mất giá đồng tiền và lạm phát.
Tác động tiêu cực đến lãi suất thị trường:
+ Các ngân hàng đua nhau tăng lãi suất huy động vốn nội tệ. Lãi suất ngân hàng đã ở mức cực kỳ nguy hiểm.
+ Lãi suất liên ngân hàng tăng cao chóng mặt: ngày 15/2/2008 lên tới 30,1%/năm; ngày 18/2/2008 lập một kỷ lục mới khi lên tới 33%/năm, ngày 19/2/2008 kỷ lục cao hơn nữa lên tới 43%/năm...
à Lãi suất tăng vọt kéo theo tác động đến cung – cầu ngoại tệ:
Các NHTM lúc này cũng đẩy mạnh bán USD để huy động nội tệ
Người dân không còn giữ USD như trước mà chuyển sang mua vàng hoặc giữ tiền đồng để gửi tiết kiệm hưởng lãi suất cao
Những nhà đầu tư nước ngoài bán USD lấy VND rồi đem gửi tiết kiệm sẽ thu lại được lợi nhuận hơn là gửi tiết kiệm ở trong nước khi lãi suất ở VN đang tăng chóng mặt còn tỉ giá VND/USD thì giảm mạnh. Tập trung vào các đối tượng là nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Trái phiếu Chính phủ Việt Nam (1,4 tỷ USD)
Kiều bào nước ngoài cũng gửi tiền về cho người thân ở Việt Nam để hưởng lãi suất.
- Bên cạnh đó:
Trên thị trường thế giới USD vẫn tiếp tục suy giảm, Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) tiếp tục cắt giảm lãi suất cơ bản.
Lượng kiều hối dồn về khá lớn từ thời điểm cuối năm 2007 đến tháng 2/2008 (giai đoạn Tết âm lịch).
Kết quả:
Trong giai đoạn 3 tháng đầu năm, tỷ giá USD/VND trên thị trường liên ngân hàng liên tục sụt giảm (từ mức 16.112 đồng xuống 15.960 đồng. mức thấp nhất là 15.560 đồng/USD). Trên thị trường tự do, USD dao động từ mức 15.700 – 16.000 đồng/USD.
Tuy nhiên, từ cuối tháng 3, tỷ giá đảo chiều và tăng với tốc độ chóng mặt tạo cơn sốt USD trên cả thị trường liên ngân hàng lẫn thị trường tự do. từ mức khoảng 16.000 đồng/USD tỷ giá tăng dần đều và đột ngột tăng mạnh từ giữa tháng 6, đỉnh điểm lên đến 19.400 đồng/USD vào ngày 18/06, cách hơn 2.600 đồng so với mức trần, còn trên TTTD cao hơn khoảng 100-150 đồng, Nguyên nhân đến từ các nhân tố khác:
Do mặt bằng lãi suất nội tệ quá cao, trong khi tỷ giá USD lại ở mức thấp và lãi suất vay USD lại không biến động nhiều nên doanh nghiệp xuất khẩu vay USD chuyển đổi ra VND để phục vụ SXKD, DN nhập khẩu vay ngoại tệ thanh toán các hợp đồng nhập khẩu
Nhu cầu mua ngoại tệ trả các khoản nợ của cả DN xuất và nhập khẩu đến hạn cao.
Tăng nhập khẩu vàng do chênh lệch lớn giữa giá vàng trong nước và quốc tế. nhu cầu ngoại tệ đối với nhập khẩu tăng khá mạnh làm cho nguồn cung USD bị sức ép lớn
Nhà ĐTNN bắt đầu rút vốn khỏi Việt nam bằng việc bán TPCP khi lo ngại về tình hình kinh tế và do tình hình thanh khoản thấp trên thị trường thế giới đẩy nhu cầu mua USD chuyển vốn về nước lên cao (bán ròng 0,86 tỷ USD).
Cung ngoại tệ thấp do NHNN không cho phép cho vay ngoại tệ đối với DN XK (theo quyết định số 09/2008/QĐ, NHNN không cho phép vay để chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu, vay thực hiện dự án sản xuất xuất khẩu) giảm hiện tượng DNXK vay ngoại tế bán lại trên thị trường.
cả thị trường chỉ có chiều mua ngoại tệ đã tác động mạnh đến tâm lý găm giữ ngoại tệ của người đầu cơ.
1.3.2. Giai đoạn 2 (từ 11/06 – 15/10/2008):
Diễn biến chính sách:
Trước tình trạng sốt USD ở mức báo động , NHNN đã có các can thiệp kịp thời
- Ngày 11-6-2008, điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ 16.139 đồng/USD ngày 10-6-2008 lên 16.461 đồng/USD, tăng 322 đồng/USD hay tiền đồ