Bài viết Đánh giá lại triều Nguyễn

Đánh giá lại triều Nguyễn: Về một vài di sản của nhà Nguyễn còn tồn tại đến ngày nayTrước đây, nhà Nguyễn (1802-1945), vương triều cuối cùng của Việt Nam, thường bị đánh giá một cách tiêu cực như là vương triều đã để mất nước vào tay chủ nghĩa thực dân Pháp. Tuy nhiên, từ thập niên 90 của thế kỷ trước, trong giới nghiên cứu lịch sử Việt Nam đã xuất hiện xu hướng đánh giá lại vương triều này từ những góc độ tích cực hơn, Ví dụ như các nghiên cứu về việc xác định lãnh thổ dưới triều Minh Mạng, về cải cách cơ cấu nhà nước hay việc áp dụng chế độ công điền dưới triều Nguyễn. Bước sang thế kỷ XXI, chúng tôi muốn thử đánh giá lại triều Nguyễn nhìn từ góc độ những di sản mà vương triều này đã để lại cho đến ngày nay. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi muốn nêu lên 3 vấn đề sau: 1. Lãnh thổ được xác lập dưới triều Nguyễn trở thành cơ sở cho việc xác định lãnh thổ của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện đại. 2. Thiết chế chính quyền trung ương – địa phương hiện đại đã kế thừa nhiều hình thức quản lý của triều Nguyễn. 3. Vấn đề phát hành và lưu thông tiền tệ Cơ sở của việc xác định lãnh thổ

docx46 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2205 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài viết Đánh giá lại triều Nguyễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đánh giá lại triều Nguyễn Đánh giá lại triều Nguyễn: Về một vài di sản của nhà Nguyễn còn tồn tại đến ngày nayTrước đây, nhà Nguyễn (1802-1945), vương triều cuối cùng của Việt Nam, thường bị đánh giá một cách tiêu cực như là vương triều đã để mất nước vào tay chủ nghĩa thực dân Pháp. Tuy nhiên, từ thập niên 90 của thế kỷ trước, trong giới nghiên cứu lịch sử Việt Nam đã xuất hiện xu hướng đánh giá lại vương triều này từ những góc độ tích cực hơn, Ví dụ như các nghiên cứu về việc xác định lãnh thổ dưới triều Minh Mạng, về cải cách cơ cấu nhà nước hay việc áp dụng chế độ công điền dưới triều Nguyễn. Bước sang thế kỷ XXI, chúng tôi muốn thử đánh giá lại triều Nguyễn nhìn từ góc độ những di sản mà vương triều này đã để lại cho đến ngày nay. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi muốn nêu lên 3 vấn đề sau: 1. Lãnh thổ được xác lập dưới triều Nguyễn trở thành cơ sở cho việc xác định lãnh thổ của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện đại. 2. Thiết chế chính quyền trung ương – địa phương hiện đại đã kế thừa nhiều hình thức quản lý của triều Nguyễn. 3. Vấn đề phát hành và lưu thông tiền tệ Cơ sở của việc xác định lãnh thổ Nửa đầu thế kỷ XIX, trong bối cảnh quan hệ quốc tế tương đối ổn định, vua Minh Mạng, hoàng đế thứ 2 của triều Nguyễn đã tiến hành công cuộc xây dựng đất nước. Trong giai đoạn này, trên cơ sở kết quả của quá trình “Nam tiến” kéo dài suốt từ thế kỷ X của người Việt, cương vực lãnh thổ tương đương với lãnh thổ Việt Nam hiện đại “kéo dài từ Lạng Sơn kéo dài đến mũi Cà Mau” đã được xác lập. Sau đó, dưới ách thống trị của thực dân Pháp, tuy bị phân chia thành các khu vực thuộc địa Nam Kỳ (Cochinchine), nhà nước bảo hộ An Nam và khu vực bảo hộ Bắc Kỳ nhưng về cơ bản, cả 3 khu vực này đều được duy trì với tư cách là không gian sinh sống của người Việt. Tức là, phạm vi lãnh thổ của nhà Nguyễn đã được thừa nhận một cách rộng rãi như là một sự thực lịch sử. Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 qui định giới tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời, trên thực tế đã phân chia Việt Nam thành Nam Việt Nam (Việt Nam Cộng hòa) và Bắc Việt Nam (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa). Sau khi miền Bắc giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh Việt Nam (cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước) năm 1975, năm 1976, Việt Nam được thống nhất thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Lãnh thổ của nhà nước Việt Nam hiện đại là dựa trên cơ sở lãnh thổ của nhà Nguyễn. Đương nhiên, trong cuộc xung đột biên giới với Campuchia hay trong đàm phán phân định biên giới với Trung Quốc, cũng có một số khu vực lãnh thổ không rõ ràng, nhưng về cơ bản, cương vực lãnh thổ của nhà Nguyễn đã được duy trì. ở đây, chúng tôi muốn nhấn mạnh ý nghĩa của việc khuôn khổ lãnh thổ cơ bản của nước Việt Nam “thống nhất” đã được xác lập dưới triều Nguyễn. Tổ chức nhà nước. hà Nguyễn, trên cơ sở tham khảo chế độ của nhà Minh và nhà Thanh ở Trung Quốc đã xây dựng tổ chức Cơ mật viện – Lục Bộ ở chính quyền trung ương, và tổ chức hành chính Tỉnh đứng đầu là các viên Tổng đốc, Tuần phủ ở chính quyền địa phương. Nhà Nguyễn cũng duy trì chế độ khoa cử để tuyển chọn quan lại. Hệ thống tổ chức hành chính này của triều Nguyễn trở thành một thước đo có hiệu quả để quan sát hệ thống tổ chức hành chính hiện đại. Tức là, khái niệm tổ chức hành chính của nhà Nguyễn vẫn tiếp tục tồn tại trong thời kỳ hiện đại. Lấy ví dụ như khái niệm “Chính phủ” (government) hay “Thủ tướng” (Prime Minister). Trước đây, Việt Nam sử dụng tên gọi Hội đồng Bộ trưởng và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Tuy nhiên, cùng với quá trình mở rộng quan hệ đối ngoại, Việt Nam cho rằng cần phải sử dụng một tên gọi mang tính thông dụng quốc tế hơn. Do đó, Hiến pháp năm 1992 đã bắt đầu sử dụng tên gọi “Chính phủ” và “Thủ tướng”. Tuy cùng tên gọi nhưng nội hàm của khái niệm “Chính phủ” và “Thủ tướng” của Việt Nam khác với nhiều nước. ở đây, chúng tôi cũng xin thử so sánh với các nước khác. ở phương Tây, nội dung khái niệm “Chính phủ” thay đổi tùy thuộc vào hoàn cảnh nước đó có trải qua cách mạng hay không. ở các nước đã trải qua cách mạng như Pháp và Mỹ, “chính phủ” là khái niệm chỉ toàn bộ “cơ cấu nhà nước” bao gồm tam quyền Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp. Do đó, khi chỉ riêng bộ phận chính quyền hành chính, người ta không gọi là “chính phủ Bush” mà sử dụng cách gọi “Chính quyền Bush” (Bush Administration). Trong khi đó, ở các nước mà chế độ quân chủ được duy trì, áp dụng chế độ quân chủ lập hiến hiện đại mà không trải qua cách mạng như Đức và Nhật Bản, người ta thường sử dụng từ “Chính phủ” để chỉ riêng chính quyền hành chính.  Ví dụ như ở Nhật Bản, người ta hay sử dụng cách gọi Chính phủ của Đảng Tự do Dân chủ (LDP). Tuy nhiên, trong trường hợp của Việt Nam, ý nghĩa của khái niệm “Chính phủ” lại khác. Theo qui định của Hiến pháp năm 1992, “Chính phủ” của Việt Nam tương đương với khái niệm “Nội các” (Naikaku) của Nhật Bản hay “Nội các” (Cabinet) của Anh. ở Việt Nam, “Chính phủ” là khái niệm chỉ tập hợp các Bộ trưởng đứng đầu các Bộ - Hội đồng Bộ trưởng. Các Bộ Trung ương và các cơ quan nhà nước ở địa phương (Hội đồng Nhân dân các thành phố trực thuộc và các tỉnh) đóng vai trò chấp hành mệnh lệnh và thực hiện công việc dưới sự chỉ đạo của Chính phủ. ở đây, xin được nhắc lại là ở Nhật, “Chính phủ” bao gồm cả Nội các (các Bộ trưởng) và các cơ quan nhà nước trung ương (các Bộ Trung ương) đứng đầu là các Bộ trưởng. Trong khi đó, ở Việt Nam, khái niệm “Chính phủ” chỉ chỉ tổ chức hội đồng bộ trưởng (mà ở Nhật gọi là “Nội các”), còn các Bộ Trung ương và các cơ quan hành chính ở địa phương được coi là tổ chức khác. Chúng tôi cho rằng cách suy nghĩ này xuất phát từ hệ thống quan lại truyền thống của các vương triều trong quá khứ, từ “Chính phủ” ở Việt Nam được nhận thức trên cơ sở hình dung hệ thống Lục Bộ - Đại thần Cơ mật viện của triều Nguyễn. Tổ chức nhà nước hiện đại của Việt Nam đã tham khảo một cách có ý thức hoặc vô ý thức hệ thống tổ chức quan lại của nhà Nguyễn. Việc phát hành và lưu thông tiền tệ Không chỉ nhà Nguyễn mà các vương triều trước đó như nhà Lý, nhà Trần, nhà Lê, mỗi khi thiết lập một vương triều mới hay nhà vua mới lên ngôi, đều phát hành tiền. Trong nhiều trường hợp đó là việc phát hành đồng tiền bằng đồng (tiền đồng). Tiền đồng được phát hành với vai trò là biểu tượng (symbol) bắt đầu một triều vua mới. Do đó, không phải lúc nào nó cũng được lưu thông rộng rãi trong dân gian. ở Việt Nam, từ thời Bắc thuộc đã có truyền thống sử dụng tiền đồng của Trung Quốc. Tiền đồng của Trung Quốc có độ tin cậy cao, được sử dụng làm phương tiện thanh toán trong việc buôn bán giữa Việt Nam và Trung Quốc. Tiền đồng được đúc với chất lượng cao của nhà Tống đã được sử dụng như một loại tiền tệ thanh toán quốc tế trong một thời gian dài. Dưới các thời Minh – Thanh, tiền đồng Trung Quốc vẫn duy trì được vị trí tiền tệ thông dụng quốc tế. Đặc biệt, đến nửa cuối thế kỷ XIX, nhà Nguyễn bắt đầu cho phép tư nhân đúc tiền, do đó, tỷ lệ đồng kim loại trong tiền đồng giảm đi, nhiều tiền đồng có chất lượng kém được đưa vào lưu thông. Do những nguyên nhân như trên, vào triều Tự Đức nhà Nguyễn, phương tiện thanh toán chủ yếu trong các giao dịch như mua bán gạo là tiền đồng của Trung Quốc. Trên cơ sở tham khảo lịch sử tiền tệ và quan sát vấn đề tiền tệ ở Việt Nam hiện đại, chúng ta có thể nhận thấy một hiện tượng rất đáng chú ý. Hiện nay, trong số tiền giấy “Đồng” của Việt Nam có một số được sản xuất tại úc. Đến nay, nhờ sự giúp đỡ về kỹ thuật của úc cũng như việc đưa vào sử dụng máy móc in ấn, Việt Nam cũng bắt đầu hình thành hệ thống sản xuất tiền giấy trong nước. Tuy nhiên, ở Việt Nam, trong nhiều hoàn cảnh, người dân vẫn sử dụng đồng Đô la Mỹ - đồng tiền thông dụng quốc tế.  Thậm chí có thể nói, người dân Việt Nam tin tưởng Đô la Mỹ hơn Đồng Việt Nam. Như vậy, có thể thấy tình hình tiền tệ ở Việt Nam hiện nay cũng rất giống với tình hình dưới thời nhà Nguyễn. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ chủ quyền tiền tệ (Currency Sovereignty), đây là một vấn đề vô cùng hệ trọng. Về cơ bản, một quốc gia độc lập phải là một quốc gia có thể tự in ấn và lưu thông được đồng tiền của mình. Nếu không thực hiện được điều này, sẽ có nguy cơ không nắm bắt được một cách chính xác lượng tiền tệ đang lưu thông trong nước, cũng như không đối phó được với nạn tiền giả. Thật may mắn là ở Việt Nam có giấy “dó”, một loại nguyên liệu thích hợp để sản xuất tiền giấy. Đối với một nước độc lập như Việt Nam, việc Cục In tiền thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sử dụng nguyên liệu trong nước để sản xuất tiền giấy Đồng Việt Nam là một việc đương nhiên. Đề án này sẽ được khởi đồng trong năm nay, với sự giúp đỡ của Ngân hàng Trung ương Nhật Bản. Nhật Bản là quốc gia ngoài phương Tây đầu tiên có kinh nghiệm sản xuất, lưu thông tiền giấy hiện đại từ năm 1882. Chúng tôi hy vọng sau khoảng 3 năm nữa, một loại tiền giấy Đồng Việt Nam thích hợp với phong thổ Việt Nam sẽ được lưu hành thay thế cho Đồng Việt Nam do úc sản xuất. Để thực hiện thành công đề án này, trước tiên phải tiến hành nghiên cứu về lịch sử tiền tệ Việt Nam. Đặc biệt, chúng tôi cho rằng phải tiến hành nghiên cứu một cách triệt để các vấn đề liên quan đến việc phát hành và lưu thông tiền tệ của nhà Nguyễn. Về mặt này, có thể thấy ý nghĩa vô cùng lớn của việc nghiên cứu nhà Nguyễn. Bản thân tôi không phải là nhà chuyên môn về vấn đề này, trong bài viết mang tính đề xuất vấn đề này, có lẽ sẽ có rất nhiều sai sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý và chỉ dẫn từ các nhà nghiên cứu tham gia Hội thảo lần này để tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn. GS.TSUBOI YOSHIAKI (Đại học Waseda, Tôkyô, Nhật Bản) ịch sử tóm tắt của triều đại nhà NGUYỄN Trang -  Các bạn đã từng đọc qua sách sử Việt Nam chắc hẵn đã để ý là các ông vua có rất nhiều tên, hiệu và chắc các bạn cũng đã có lần tự hỏi là làm gì mà phải có nhiều tên như thế ? Trước khi đi vào phần lịch sử, tôi nghĩ cũng nên nhắc lại vài điều căn bản. Thời vua chúa lúc dân ta chưa biết Tây lịch, để xác định thời gian cho một dữ kiện đã xãy ra, dân ta dùng niên hiệu của ông vua đương thời. Niên hiệu : Khi một ông vua lên ngôi đều tự lấy cho mình một niên hiệu để đánh dấu cái giai đoạn mà mình trị vì và tất cả những dữ kiện xảy ra sẽ được ghi lại so với cái niên hiệu của mình. Thí dụ người ta nói "Tự Ðức năm thứ 2", "Minh Mạng năm thứ 6", .... (thay vì năm 1848, năm 1825, ...) Với cách ghi thời gian kiểu nầy thì có cái lợi là biết câu chuyện đó xảy ra dưới thời vua nào nhưng cái bất lợi là khó mà biết được cái nào xảy ra trước cái nào xảy ra sau nếu không giỏi sử học. Miếu hiệu : Tên hiệu của ông vua đã chết. Khi một ông vua đã mất, ông vua sau lên kế vị và đặt miếu hiệu cho vị vua trước như là phong chức tước hay tôn vinh người quá cố. Ví dụ, miếu hiệu của vua Gia Long là Thế Tổ, miếu hiệu vua Minh Mạng là Thánh Tổ. Dĩ nhiên có nhiều ông vua không có miếu hiệu. Tên Húy: Tên thật do cha mẹ đặt khi mới sanh, một người có thể có nhiều tên húy, thường được người ta kiêng không gọi đến. Ví dụ tên húy của vua Minh Mạng là Ðảm (Nguyễn Phúc Ðảm), tên húy của vua Tự Ðức là Hồng Nhậm (Nguyễn Phúc Hồng Nhậm). Xưa người mình thường hay kỵ húy, kiêng, tránh không được nhắc đến tên. Ví dụ vua Minh Mạng có bà phi tên là Hồ Thị Hoa. Vì kỵ húy bà nên cầu Hoa ở Sài Gòn đã được đổi tên lại là cầu Bông. Ngoài những loại tên nầy, các vua còn có thể có nhiều chức tước khác nhau ! Mục lục: Vua Gia Long Hoàng tử Cảnh Vua Minh Mạng Vua Thiệu Trị Vua Tự Ðức Vua Dục Ðức Vua Hiệp Hoà Vua Kiến Phúc Vua Hàm Nghi Vua Ðồng Khánh Vua Thành Thái Vua Duy Tân Vua Khải Ðịnh Vua Bảo Ðại Niên hiệu  Gia Long Năm sanh, năm mất 1762-1820 Giai đoạn trị vì 1802-1820 Miếu hiệu Thế Tổ Cao Hoàng Ðế Tên Húy Nguyễn Phúc Ánh Thời Trịnh Nguyễn phân tranh, năm Ất Dậu (1765), Chúa Vũ Nghuyễn Phúc Khoát mất. Quyền thần Trương Phúc Loan chuyên quyền thay Chúa đổi ngôi, đưa Nguyễn Phúc Thuần mới 12 tuổi lên ngôi Chúa để dễ bề khống chế. Từ đó Ðàng Trong bắt đầu đi vào con đường suy thoái, sưu cao thuế nặng, khắp nơi đều vang lên tiếng than oán và cuối cùng dẫn đến việc ba anh em nhà Tây Sơn khởi nghĩa năm Quí Tỵ (1773). Lợi dụng lúc Ðàng Trong có nội loạn, Chúa Trịnh xua quân qua sông Linh Giang tấn công Phú Xuân (Huế). Phú Xuân thất thủ, tôi chúa họ Nguyễn phải chạy vào Gia Ðịnh, chấm dứt sự nghiệp của Chúa Nguyễn ở Ðàng Trong. Trong số người chạy loạn có Nguyễn Ánh lúc bấy giờ mới 13 tuổi. Nguyễn Ánh là con của hoàng tử Nguyễn Phúc Côn và bà Nguyễn Thị Hoàng. Nguyễn Ánh (hay Nguyễn Phúc Ánh) sinh ngày 15 tháng Giêng năm Nhâm Ngọ (1762), thuở thiếu thời đã tỏ ra là một con người có chí và thông minh vì thế rất được Chúa yêu, tuy còn nhỏ nhưng ông được Chúa phong cho chức Chưởng sứ, ông đã tỏ ra là một tướng cầm quân có tài. Năm Tân Dậu (1777), Nguyễn Huệ đem quân vào đánh chiếm Gia Ðịnh, Chúa tôi họ Nguyễn phải bỏ thành kéo tàn quân chạy về Ðịnh Tường, Cần Thơ. Quân Tây Sơn truy lùng gắt gao, bắt được và giết Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương, Nguyễn Ánh bắt đầu một cuộc sống long đong và vất vả. Vài năm sau, Nguyễn Ánh lấy lại được Sài Côn (Saigon) rồi tiến ra lấy lại Bình Thuận. Năm Canh Tí (1780) Nguyễn Ánh lên ngôi Vương ở Gia Ðịnh. Năm Nhâm Dần (1782), thấy thế lực Nguyễn Vương ngày càng mạnh, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ kéo quân vào đánh, Saigon thất thủ, Nguyễn Vương lại bôn tẩu về Hà Tiên rồi chạy ra đảo Phú Quốc. Nguyễn Vương vốn là con người có chí nên ông bất chấp gian khổ, canh cánh trong lòng một mối thù phục quốc. Chính vì thế nên khi biết được Giám mục Pháp Bá Ða Lộc (Pigneau de Béhaine), người có uy tín và thế lực tại Pháp thời bấy giờ đang ở Ðàng Trong , Nguyễn Vương không ngần ngại cho mời giám mục tới và nhờ giám mục làm sứ giả trong việc cầu viện Pháp. Nguyễn Vương đã để cho con trưởng của mình là Nguyễn Phúc Cảnh mới 4 tuổi theo Giám mục Bá Ða Lộc sang Pháp làm con tin. Trong thơ cho Vua Pháp (Louis XVI), Nguyễn Vương xin Pháp giúp 1.500 lính và tàu bè, súng ống, vật dụng. Ðể đền bù, Pháp được độc quyền buôn bán ở nước Việt Nam, nhường cho nước Pháp đảo Côn Lôn (Côn đảo), và cảng Hội An (có sách nói là cảng Ðà Nẵng). Giám mục Bá Ða Lộc ký được hiệp ước Versailles với Pháp ngày 28-11-1787, vua Pháp giao trách nhiệm thi hành hiệp ước cho một ông tướng đống quân ở Ấn Ðộ nhưng ông nầy không thích Giám mục Bá Ða Lộc nên nói ra với vua Pháp và cũng vì nước Pháp đang bị nội loạn nên rốt cuộc vua Pháp không thi hành hiệp ước. Chờ mãi không được, Giám mục Bá Ða Lộc bỏ tiền riêng để mướn một số lính đánh thuê rồi trở về Việt Nam. Năm 1789 thì Hoàng tử về đến Gia Ðịnh. Khi đưa con đi rồi Nguyễn Vương cũng từ giã mẹ và vợ để sang Xiêm La (Thái Lan) cầu cứu. Tới tháng 6 năm 1784 thì vua Xiêm cho tướng Chiêu Tăng và Chiêu Sương đem 20 vạn quân và 300 chiếc thuyền sang giúp Nguyễn Vương. Lúc đầu quân Xiêm đại thắng chiếm nhiều tỉnh Kiên Giang, Trà Ôn, Sa Ðéc. Sau đích thân Nguyễn Huệ đem đại quân vào đánh, quân Xiêm thua bỏ chạy về nước, Nguyễn Vương cũng chạy theo về Xiêm La lánh nạn. Tháng 5 năm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Huệ theo kế của Nguyễn Hữu Chỉnh tiến chiếm Phú Xuân rồi rồi thừa thắng tiến ra Thăng Long (Hà Nội) diệt họ Trịnh. Việc Nguyễn Huệ ra Bắc làm cho Nguyễn Nhạc (anh của Nguyễn Huệ) nghi ngờ nên cũng vội vã đem quân ra Bắc, hai anh em gặp nhau ở Thăng Long rồi cùng về. Nguyễn Huệ được đóng quân ở Phú Xuân và được phong là Bắc Bình Vương. Từ đó anh em Tây Sơn đã có mầm móng bất hoà, nhiều lần hai anh em đã đem quân đánh nhau. Vì ham tranh quyền nên anh em Tây Sơn đã không ngó ngàng gì đến các xứ Ðàng Trong nhất là từ Qui Nhơn (Bình Ðịnh) trở vào, lợi dụng thời cơ đó, Nguyễn Vương đã cùng với các bộ tướng củ, tháng 9 năm Ðinh Mùi (1787), trở về nước. Nguyễn Vương đã được dân miền Nam giúp đở rất nhiều, có nhiều tướng giỏi đến phò như Võ Tánh, nên chẳng mấy chốc lực lượng Nguyễn Vương đã lớn mạnh. Ðông Ðịnh Vương Nguyễn Lữ phải bỏ Gia Ðịnh trở về Qui Nhơn. Nguyễn Vương lấy toàn bộ xứ Gia Ðịnh đặt làm bản doanh rồi bắt đầu tổ chức việc cai trị. Năm Canh Tuất (1790) Nguyễn Vương cho đắp lại thành Gia Ðịnh theo kiểu bát quái có 8 cửa xây bằng đá ong. Thấy Nguyễn Vương lớn mạnh, tháng 3 năm Nhâm Dần (1782) vua Thái Ðức Nguyễn Nhạc nhà Tây Sơn đem quân vào đánh nhưng bị quân Nguyễn Vương đánh lui. Kể từ đó về sau, quân Tây Sơn luôn thất bại khi đem quân vào đánh. Ở Phú Xuân, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lại tiến quân ra Bắc diệt nhà Lê rồi cho Ngô Văn Sở và Ngô Thời Nhiệm ở lại để cai trị Bắc Hà. Vua Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc cầu viện nhà Thanh. Nhà Thanh sai Tôn Sĩ Nghị đem 20 vạn quân sang đánh. Ðược tin, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Ðế ở Phú Xuân lấy hiệu là Quang Trung thống lãnh đại quân tiến ra Bắc đánh tan 20 vạn quân nhà Thanh, Tôn Sĩ Nghị phải chạy thoát thân bỏ quên cả ấn tín. Năm Nhâm Tý (1792) vua Quang Trung băng hà, con là Quang Toảng lên ngôi mới 10 tuổi, vì thế Vương nghiệp triều Tây Sơn nhanh chóng rơi vào suy vong. Ðược tin vua Quang Trung băng hà, Nguyễn Vương rất vui mừng, đẩy mạnh việc chuẩn bị đánh Tây Sơn. Dưới trướng Nguyễn Vương lúc bấy giờ có nhiều quan chức người nước ngoài như Dayot (Ông Trí), Philippe Vannier (Ông Chấn), Guilloux, Laurent Barisy (Ông Mân), De Forçant (Ông Lăng), Jean Baptiste Chaigneau, Olivier de Puymanel (Ông Tín), Theodore Lebuen. Những quan chức nầy là những cố vấn kỹ thuật cho Nguyễn Vương trong lãnh vực quân sự, vũ khí, đấp thành, v.v... Cuộc chiến kéo dài đến năm Tân Dậu (1801) Nguyễn Vương chiếm lại được Phú Xuân, và ngày mồng 2 tháng 5 năm Nhăm Tuất (1802) Nguyễn Vương lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long. Lên ngôi xong vua Gia Long đưa quân tiến ra đất Bắc, quân Tây Sơn tan rã lần hồi. Ðến tháng 6 cùng năm thì vua Gia Long đã thống nhất được sơn hà, chấm dứt cuộc chiến tranh kéo dài gần 300 năm. Ngài ra lệnh quật mả vua Nguyễn Nhạc và vua Nguyễn Huệ lên, đem vứt thây đi còn đầu thì đem bỏ giam trong ngục tối (có sách viết là đốt thây thành tro rồi đổ xuống sông, còn sọ thì làm gáo đựng nước tiểu). Vua sai sứ sang Tàu cầu phong và xin đổi quốc hiệu là Nam-Việt, nhưng vì đất Nam-Việt đã có bên Tàu đời nhà Triệu ngày trước nên Thanh triều mới đổi chữ Việt lên trên, gọi là Việt-Nam để cho khỏi lầm với tên củ. Ở trong cung, nhà vua không đặt ngôi Hoàng hậu, chỉ có ngôi Hoàng phi và các cung tần. Sau khi vua mất, thì con lên ngôi, mới tôn mẹ lên làm Hoàng Thái Hậu. Bỏ chức Tể tướng, lập ra 6 bộ, đứng đầu mỗi bộ là quan Thượng Thư: -Bộ Lại : coi việc khảo xét công trạng, thảo những tờ chiếu sắc, v.v... -Bộ Hộ : coi việc đinh điền thuế má, tiền bạc, v.v... -Bộ Lễ : coi việc tế tự, tôn phong, cách thức học hành thi cử, v.v... -Bộ Binh : coi việc binh lính, v.v... -Bộ Hình : coi việc pháp luật, v.v... -Bộ Công : coi việc làm cung điện, dinh thự, v.v... Ngài lập Văn Miếu ở các trấn thờ đức Khổng Tử. Mở trường lớn ở Kinh đô để dạy con các quan và các sĩ-tử (sau nầy vua Minh Mạng đổi tên là Quốc Tử Giám). Mở khoa thi Hương để kén lấy những người có học ra làm quan... Vua Gia Long không theo đạo Thiên Chúa dù Ngài rất biết ơn Giám mục Bá Ða Lộc và có nhiều thiện cảm với các giáo sĩ, nhưng Hoàng tử Cảnh đã theo đạo khi ở chung với Giám mục Bá Ða Lộc. Một lá thư của Cha Lelabousse viết vào tháng 6-1792 cho biết : "Trong buổi lễ được tổ chức vào khoãng cuối tháng 7-1789, Hoàng tử Cảnh nhất định không đến lạy trước bàn thờ tổ tiên đã làm cho Nguyễn Vương đau khổ tủi nhục và tức giận, vứt bỏ phẩm phục, mũ niệm, nói rằng ông là một người cha bất hạnh". Nhưng vua vẫn một lòng kính trọng Giám mục, trong một lá thư của Giám mục viết cho Hội truyền giáo hải ngoại năm 1795, Giám mục kể rằng trong năm đó có mười chín ông quan trong triều đình viết sớ đưa lên cho Nguyễn Ánh xin Ngài thận trọng đừng để Giám mục lo việc giáo huấn Hoàng tử Cảnh. Nguyễn Vương nổi trận lôi đình, vứt sớ xuống đất và kể những công trạng của Giám mục đối với gia đình và sự nghiệp của Vương. Nguyễn Ánh hăm dọa là sẽ phạt thẳng tay những người có ý nghĩ xấu nầy. Xong Vương vào hậu cung kể lại cho vợ nghe và hai người quyết định là giấu chuyện nầy không cho Giám mục biết. Ngày 19 tháng 12 năm Canh Thìn (3-2-1820) vua Gia Long băng hà thọ 58 tuổi (theo Trần Trọng Kim thì Ngài mất năm 1819). Hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh sanh ngày 2 tháng 3 năm Canh Tý (6-4-1780) tại Gia Ðịnh, con của Nguyễn Ánh và