Bài viết Giải mã bí ẩn trong văn bia Tông Đức thế tự bi ở Lương Xá (Chương Mỹ-Hà Nội)

LNĐ-Sử học là khoa học khai thác và sử dụng các nguồn sử liệu.Bài viết này dựa trên kết quả khai thác các di bản đời Tây Sơn được phát hiện đầu những năm 70 thế kỷ trước đặc biệt là kết quả giải mã văn bia Tông đức thế tự bi những năm gần đây.Đây là một bài khảo cứu thuần túy khoa học giúp cho việc sáng tỏ một danh tướng Tây Sơn còn ít ngườii biết. Mong nhận được ý kiến phản hồi của bạn đọc Diễn đàn kiến thức. Đầu những năm 70 của thế kỷ trước giới sử học đã phát hiện một số di bản,di vật quý đời Tây Sơn ở Lương Xá (huyện Chương Mỹ tỉnh Hà Tây cũ,nay thuộc Hà Nội)gồm có Bộ Đặng gia phả ký trong đó có bộ “Đặng gia phả hệ toản chính thực lục” 6 quyển,có lời đề tựa của danh sĩ Ngô Thì Nhậm (dưới đây gọi tắt là bộ “Đặng tộc phả”)một bản Sắc phong và một tấm bia đá có khắc bài văn bia Tông đức thế tự bi,tất cả bằng chữ Hán đều thuộc niên đại Tây Sơn.Ngoài ra còn có tượng gỗ,chuông đồng ở chùa Trăm Gian (Quảng Nghiêm tự-huyện Chương Mỹ))có liên quan đến nhân vật được đề cập trong các di bản ở Lương Xá.Ba di bản nói trên đều bằng chữ Hán.được cất giữ ở ba nơi (cùng ở Lương Xá) nhưng có liên quan mật thiết đến một nhân vật có tên trên cả ba di bản.Trong số các di bản trên,Bộ Đặng tộc phảvà Sắc phong được dịch và công bố nội dung không có mấy tranh cãi ngoài cách đọc tên nhân vật là một Đô đốc họ Đặng:người thì đọc là “ĐÔNG”(Đặng Tiến Đông”),kẻ thì đọc là “GIẢN”(Đặng Tiến Giản).Tuy nhiên ngay từ ngày xuất hiện bộ “Đặng tộc phả”,do Đặng Đô đốc biên soạn vào cuối thế kỷ 18,tác giả đã cho biết đích xác cách đọc tên của ông qua câu tự thuật ở trang cuối quyển 6 chép về Dận Quận công Đặng Đình Miên (Đặng Tiến Miên),thân sinh của Đặng Đô đốc,cũng là quyển cuối của bộ “Đặng tộc phả”,như sau: Phiên âm: “Mậu Ngọ niên, ngủ nguyệt sơ nhị, Quý Sửu thì, sinh đệ bát tử Đông hậu cải Giản, dĩ tự vựng vân: trùng âm tích vũ chi hậu, hốt kiến nhật sắc, cố tri danh yên”. Dịch nghĩa: ”Năm Mậu Ngọ (tức năm 1738-TDT) tháng 5, ngày 2, giờ Quý Sửu, sinh con trai thứ 8 (của Dận quận công-TDT)là Đông sau cải đổi thành Giản, ý theo tự vựng nói: sau thời tiết mây mù tích mưa, bổng xuất hiện ánh mặt trời, cho nên lấy đó đặt tên” . Tra từ điển hiện đại,tại cuốn “Từ Hải” (NXB Thượng Hải 1989-trang 1580)chữ “Giản” được định nghĩa”trùng âm tích vũ hậu hốt kiến nhật sắc dã”,hoàn toàn trùng khớp với định nghĩa chữ”Giản”trong bộ phả biên soạn từ 200 năm về trước!Đây là bằng chứng lịch sử và cũng là thông điệp của Đặng đô đốc để cho hậu thế biết tên ông lúc sinh ra là“Đông”sau đã đổi tên “Giản”.Tên ông được viết bằng chữ Hán trên cả ba di bản là chữ Giản không nơi nào viết chũ Đông.(chữ Giản khác với chữ Đông ở chỗ chữ Giản có kèm bộ “nhật” trong khi chữ Đông không có bộ “nhật”).Tên ông phải đọc đúng theo di bản là Giản(Đặng Tiến Giản) không thể nào khác!

docx7 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1897 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài viết Giải mã bí ẩn trong văn bia Tông Đức thế tự bi ở Lương Xá (Chương Mỹ-Hà Nội), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giải mã bí ẩn trong văn bia Tông Đức thế tự bi ở Lương Xá (Chương Mỹ-Hà Nội). Trúc Diệp Thanh LNĐ-Sử học là khoa học khai thác và sử dụng các nguồn sử liệu.Bài viết này dựa trên kết quả khai thác các di bản đời Tây Sơn được phát hiện đầu những năm 70 thế kỷ trước đặc biệt là kết quả giải mã văn bia Tông đức thế tự bi những năm gần đây.Đây là một bài khảo cứu thuần túy khoa học giúp cho việc sáng tỏ một danh tướng Tây Sơn còn ít ngườii biết. Mong nhận được ý kiến phản hồi của bạn đọc Diễn đàn kiến thức. Đầu những năm 70 của thế kỷ trước giới sử học đã phát hiện một số di bản,di vật quý đời Tây Sơn ở Lương Xá (huyện Chương Mỹ tỉnh Hà Tây cũ,nay thuộc Hà Nội)gồm có Bộ Đặng gia phả ký trong đó có bộ “Đặng gia phả hệ toản chính thực lục” 6 quyển,có lời đề tựa của danh sĩ Ngô Thì Nhậm (dưới đây gọi tắt là bộ “Đặng tộc phả”)một bản Sắc phong và một tấm bia đá có khắc bài văn bia Tông đức thế tự bi,tất cả bằng chữ Hán đều thuộc niên đại Tây Sơn.Ngoài ra còn có tượng gỗ,chuông đồng ở chùa Trăm Gian (Quảng Nghiêm tự-huyện Chương Mỹ))có liên quan đến nhân vật được đề cập trong các di bản ở Lương Xá.Ba di bản nói trên đều bằng chữ Hán.được cất giữ ở ba nơi (cùng ở Lương Xá) nhưng có liên quan mật thiết đến một nhân vật có tên trên cả ba di bản..Trong số các di bản trên,Bộ Đặng tộc phảvà Sắc phong được dịch và công bố nội dung không có mấy tranh cãi ngoài cách đọc tên nhân vật là một Đô đốc họ Đặng:người thì đọc là “ĐÔNG”(Đặng Tiến Đông”),kẻ thì đọc là “GIẢN”(Đặng Tiến Giản).Tuy nhiên ngay từ ngày xuất hiện bộ “Đặng tộc phả”,do Đặng Đô đốc biên soạn vào cuối thế kỷ 18,tác giả đã cho biết đích xác cách đọc tên của ông qua câu tự thuật ở trang cuối quyển 6 chép về Dận Quận công Đặng Đình Miên (Đặng Tiến Miên),thân sinh của Đặng Đô đốc,cũng là quyển cuối của bộ “Đặng tộc phả”,như sau: Phiên âm: “Mậu Ngọ niên, ngủ nguyệt sơ nhị, Quý Sửu thì, sinh đệ bát tử Đông hậu cải Giản, dĩ tự vựng vân: trùng âm tích vũ chi hậu, hốt kiến nhật sắc, cố tri danh yên”.  Dịch nghĩa: ”Năm Mậu Ngọ (tức năm 1738-TDT) tháng 5, ngày 2, giờ Quý Sửu, sinh con trai thứ 8 (của Dận quận công-TDT)là Đông sau cải đổi thành Giản, ý theo tự vựng nói: sau thời tiết mây mù tích mưa, bổng xuất hiện ánh mặt trời, cho nên lấy đó đặt tên” . Tra từ điển hiện đại,tại cuốn “Từ Hải” (NXB Thượng Hải 1989-trang 1580)chữ “Giản” được định nghĩa”trùng âm tích vũ hậu hốt kiến nhật sắc dã”,hoàn toàn trùng khớp với định nghĩa chữ”Giản”trong bộ phả biên soạn từ 200 năm về trước!Đây là bằng chứng lịch sử và cũng là thông điệp của Đặng đô đốc để cho hậu thế biết tên ông lúc sinh ra là“Đông”sau đã đổi tên “Giản”.Tên ông được viết bằng chữ Hán trên cả ba di bản là chữ Giản không nơi nào viết chũ Đông.(chữ Giản khác với chữ Đông ở chỗ chữ Giản có kèm bộ “nhật” trong khi chữ Đông không có bộ “nhật”).Tên ông phải đọc đúng theo di bản là Giản(Đặng Tiến Giản) không thể nào khác! Bộ “Đặng tộc phả” chép rất đầy đủ chi tiết thân thế sự nghiệp của 5 vị tiền bối thuộc 5 đời trước của Đặng Tiến Giản.Cả 5 vị đều thuộc hạng đại công thần có công đầu trong sự nghiệp “phù Lê,cự Mạc” khi sống được phong tước quận công khi chết đều được phong Thượng đẳng đại vương.Mỗi cuốn phả chép về một vị theo thứ tự cha truyền con nối với nhiều chi tiết về gia đình,về quá trình cống hiến,cấp hàm được phong theo niên giám,phong cảnh,phong tục các địa phương các vị từng nhậm chức cùng nhiều văn bia,thơ văn,tường thuật các trận triều đình giao đánh dẹp các phong trào nổi loạn…là những nội dung có giá trị về văn học,về sử học.Riêng đến đời Đặng Đô đốc,không có một trang nào nói về thân thế,sự nghiệp bản thân.Những thông tin về ông,ngoài câu tự thuật như đã biết còn có một câu cho biết tên,họ chức tước của tác giả ghi trên trang đầu mỗi quyển phả là:” Đô đốc (có quyển ghi là Đại Đô đốc) Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Giản thống lĩnh hai đạo quân Vũ Thắng,Thiên Hùng ở chi Giáp nhất kính cẩn biên tập”(không nói rõ chức tước này được thụ phong dưới triều đại nào).Với“Đặng tộc phả”,người đọc chỉ biết ông là một võ quan,hậu duệ một dòng họ rất thành đạt thuộc đời Lê trung hưng.Tuy nhiên nhờ có bản “Sắc” và văn bia “Tông đức thế tự bi” mà hậu thế biết thêm về sự nghiệp Đặng Tiến Giản với tư cách là một đại tướng của Tây Sơn, -Bản Sắc phong được lập ngày 3 tháng 7 năm Đinh Vị,niên hiệu Thái Đức thứ 10 (tức15/8/1787) cho biết:Đặng Tiến Giản-Đô đốc trấn thủ xứ Thanh Hoa của nhà Lê,giữa năm Đinh Vị (1787) ông đã từ Bắc Hà lặn lội vào Quảng Nam xin yết kiến Nguyễn Huệ,được Huệ ca ngợi,đón tiếp trọng thị,gia phong “chức Đô đốc đồng tri tước Đông Lĩnh hầu vẫn sai giữ trấn Thanh Hoa “(vào thời điểm này Thanh Hoa còn thuộc lĩnh thổ nhà Lê)…Nguyễn Huệ còn dự kiến:”năm sau Tây Sơn tiến quân ra Bắc Hà bỏ người này (Đặng Tiến Giản) ai làm được?”.Câu trên cho thấy Nguyễn Huệ đang có kế hoạch tiến quân ra bắc và sẽ trọng dụng Đặng Tiến Giản.Văn bia Tông đức thế tự bi là bằng chứng kế tiếp nói về ý đồ nêu trên của Nguyễn Huệ đã sớm trở thành hiện thực. -Tấm bia đá dựng trước chùa Thủy Lâm ở Lương Xá có bài văn Tông đức thế tự bi doPhan Huy Ích biên soạn,Ngô Thì Nhậm nhuận sắc,khắc vào ngày 15 tháng 6 năm Cảnh Thịnh thứ 5 tức ngày 9/7/1797 ( 2 chữ Cảnh Thịnh bị đục bỏ).Văn bia có trên 500 từ chữ Hán,nội dung chủ yếu ca ngợi công đức của Đặng Tiến Giản tri ân đối với các bậc tiền nhân Đặng tộc,song các nhà nghiên cứu đặc biệt chú ý đoạn văn bia đề cập đến công trạng của Đặng Tiến Giản lập sau ngày về với Tây Sơn được phong tước Đông Lĩnh hầu như sau: Phiên âm:”Kim triều đại tướng thống Vũ Thắng đạo Thiên Hùng đô đốc Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Giản hệ xuất lệnh tộc giáp nhất chi,Yên quận công chi tôn,Dận quận công chi tử(mất một chữ)thì,hoàng triều Thái tổ Vũ hoàng đế nghĩa thanh chấn bạc quy trú Quảng Nam,công nhất kiến quân môn,mật mông tri ngộ,sủng ban ấn kiếm,ủy thống nhung huy,ngưỡng lại thiên uy,nhất cử đãng định.Mậu Thân… …(2 chữ bị dục)sơ,bắc binh nam mục,phụng chiếu tiên phong đạo,tiến chiến nhi bắc binh hội,công đương kỵ đương tiên,túc thanh cung cấm.Vũ hoàng giá lâm Thăng Long,sách hành thưởng đặc tứ bản quán Lương Xá xã vĩnh vi thực ấp”.  Dịch nghĩa:”Vị đại tướng triều ta là đô đốc Đông Lĩnh Hầu Đặng Tiến Giản thống lĩnh về Thiên Hùng trong đạo Vũ Thắng,xuất thân từ chi thứ nhất một họ lớn,cháu cụ Yên quận công,con cụ Dận quận công(…),bấy giờ tiếng tăm nghĩa khí của Thái tổ Vũ Hoàng đế lừng lẫy khắp nơi,ngài đang đóng quân ỏ Quảng Nam, ông một lần vào ra mắt trước cửa quân,nhờ ơn tri ngộ,yêu ban ấn kiếm,giao cho cầm quân.Ngữa nhờ oai trời,một lần cất quân là quét sạch giặc giả. Mậu Thân,năm đầu niên hiệu… …(2 chữ bị đục)quân bắc nhòm ngó phương nam,ông vâng chiếu lãnh đạo tiên phong tiến đánh quân bắc tan rã,ông một mình một ngựa đi trước vào dẹp yên cung cấm.Vũ Hoàng đế đến Thăng Long xét công phong thưởng,đặc biệt ban cho ông làng quê Lương Xá làm thực ấp vĩnh viễn…”(2) Văn bia không nói rõ Đặng Tiến Giản là đại tướng thuộc triều đại nào,đối tượng tác chiến cụ thể là lực lượng quân sự của nước nào? Đây chắc chắn không phải là “sơ suất” của 2 ôngPhan Huy Ích,Ngô Thì Nhậm vốn là những danh sĩ nổi tiếng hay chữ,học rộng vào loại nhất xã hội đương thời.Để lột tả những điều các tác giả biên soạn văn bia muốn gửi cho hậu thế,đương nhiên phải biết đọc chữ Hán nhưng chưa đủ,còn phải có kiến thức sử học nhất là sử Tây Sơn.Trước hết cần biết hai ông Phan,Ngô lập bia để tưởng nhớ Đặng Tiến Giản,người bạn đồng hương,đồng triều,đồng chí hướng mà 2 ông rất kính mến vào năm 1797,thời điểm vua Quang Trung băng hà đã 5 năm,nội tình triều Tây Sơn đang xuống dốc,vua Cảnh Thịnh hèn yếu,gian thần lộng quyền,nhiều công thần thời vua Quang Trung đã bị vu oan,bị sát hại,trong lúc thế lực Nguyễn Ánh không ngừng lớn mạnh.Là những danh sĩ nổi tiếng,hai ôngPhan,Ngô đã lường thấy trước số phận không mấy sáng sủa của nhà Tây Sơn.Để tấm bia tưởng niệm người bạn lớn có thể tồn tại trước mọi biến cố của thời cuộc, 2 ông phải tìm cách che dấu tung tích của nhân vật.Bia ca ngợi chiến công của một vị đại tướng Tây Sơn nhưng thoạt đọc không mấy người nhận ra.Toàn văn bia không có 2 chữ “Tây Sơn”,không có các tên:“Nguyễn Huệ”,“Quang Trung”!Chính vì thế buộc người đọc phải động não để tìm ra thông điệp trung thực ẩn chứa trong văn bia.Ý đồ của tác giả biên soạn văn bia đã thành công giúp cho tấm bia tồn tại qua những năm tháng nhà Nguyễn tận diệt các di vật,di sản có liên quan đến “ngụy Tây Sơn” nhưng cũng đã gây không ít khó khăn cho giới nghiên cứu sau này.Bí ẩn trong văn bia Tông đức thế tự bi đã được một số nhà sử học,Hán nôm học tìm tòi giải mã từ những năm 1999-2000,tuy đã có một số kết quả nhưng còn hạn chế.Gần đây việc giải mã văn bia Tông đức thế tự bi đã được hoàn tất giúp cho hậu thế nắm bắt một cách trung thực thông điệp của 2 ông Phan,Ngô nhắn gửi qua văn bia.(Nguyên tác chữ Hán,phiên âm và dịch nghĩa đoạn văn bia Tông đức thế tự bi dẫn trong bài này lần đầu tiên được Tạp chí Huế Xưa và Nay-cơ quan của Hội Sử học tỉnh Thừa Thuiên-Huế,công bố tháng 12/2008).  Trước hết bài văn bia ca ngợi “Thái tổ Vũ(Võ)Hoàng đế” là ai?Được biết Thái tổ Vũ Hoàng đếlà“miếu hiệu” của vua Quang Trung sau ngày nhà vua băng hà.Như vậy Vũ Hoàng đế,vua Quang Trung và Nguyễn Huệ chỉ là một người.Văn bia được soạn và khắc năm 1797 tức sau 5 năm vua Quang Trung qua đời..Nguyễn Huệ,lúc trú quân ở Quảng Nam vào năm 1787 còn là Bắc Bình vương chưa phải là Hoàng đế,vì vậy không thể dùng danh hiệu“Quang Trung”để nói về Nguyễn Huệ vào thời điểm này.Hai ông Phan,Ngô dùng “miếu hiệu” của vua Quang Trung để nói về Nguyễn Huệ (cách gọi tiên đế) là rất chính xác tránh được lộ liễu: không nêu tên Nguyễn Huệ mà người đời sau vẫn biết tác giả nói về Nguyễn Huệ.Điều khó nắm bắt là các cụm từ “bắc binh nam mục”,”bắc binh hội”.Người nước Việt thường gọi quân các triều đại phong kiến Trung Quốc ở phương bắc là “bắc binh”.Song ở thời Tây Sơn trong hoàn cảnh đất nước chia đôi,phía nam là Nam bang (Đàng Trong)do Tây Sơn quản lý,phía bắc là Bắc Hà (Đàng Ngoài) do nhà Lê quản lý.Trong bối cảnh đó,quân Tây Sơn thường gọi quân triều đình Bắc Hà (nhà Lê) là “bắc binh”.Vậy “bắc binh,bắc binh hội” trong văn bia,2 ông Phan,Ngô dùng để chỉ quân “Tàu”(lúc bấy giờ là quân nhà Thanh) hay để chỉ quân Bắc Hà của nhà Lê?Chìa khóa để giải mã bí ẩn này là ở hai chữ Mậu Thân là năm xảy ra trận đánh của quân Tây Sơn.Sau 2 chữ Mậu Thân có 2 chữ bị đục bỏ.Chỉ cần nắm bắt 2 chữ Mậu Thân không cần biết 2 chữ bị đục cũng nhận thức được niên đại trận đánh trong văn bia là năm Mậu Thân (1788).Song cũng có thể từ 2 chữ Mậu Thân mà xác định 2 chữ bị đục là “Quang Trung” vì lẽ:-thứ nhất:thông thường khi chép sử dưới các triều đại phong kiến viết năm theo âm lịch cần kèm theo niên hiệu của đời vua để tránh nhầm lẫn.(ví dụ:năm Đinh Vị Thái Đức 10)Năm Mậu Thân là năm Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế đặt niên hiệu Quang Trung năm đầu.Vì vậy “Mậu Thân Quang Trung sơ” dịch đúng là:”Mậu Thân năm đầu niên hiệu Quang Trung”.-Thứ hai:chỉ có những từ có khả năng làm lộ tung tích nhân vật thuộc đời Tây Sơn như “Quang Trung” hay “Cảnh Thịnh” (cũng là niên hiệu ở đoạn lạc khoản của văn bia)mới phải đục bỏ.Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế đặt niên hiệu Quang Trung vào ngày 22 tháng 11 Mậu Thân nhưng “niên hiệu Quang Trung năm đầu” được áp dụng cho cả năm Mậu Thân thay thế cho niên hiệu Thái Đức 11 hoặc Chiêu Thống 3.Hai chữ “Quang Trung” trong văn bia chỉ “niên hiệu” của năm Mậu Thân,không có liên quan gì đến trận vua Quang Trung chỉ huy đại phá 29 vạn quân Thanh vào dịp Tết năm Kỷ Dậu(1789)!Vậy trong thực tiễn lịch sử có trận đánh của Tây Sơn ra Thăng Long vào năm Mậu Thân hay không? Sử sách chép về Tây Sơn đã nói đến và phân biệt rất rõ ba trận đánh của Tây Sơn ra Bắc tiến phạm Thăng Long.Đó là các trận:năm Bính Ngọ(1786),năm Mậu Thân(1788) và năm Kỷ Dậu(1789),mỗi trận gắn với một sư kiện lịch sử khác nhau.Về sự kiện lịch sử gắn với năm Mậu Thân (1788) xin được tóm tắt tường thuật theo Hoàng Lê nhất thống chí (hồi thứ 9) như sau:”Đầu năm Đinh Vị (1787)Nguyễn Hửu Chỉnh-vốn là một tướng Tây Sơn bị Nguyễn Huệ bỏ lại ở Nghệ An khi rút đại quân về nam vào giữa năm Bính Ngọ(1786).Cuối năm Bính Ngọ,Chỉnh có công đưa quân ở Nghệ An ra bắc dẹp tàn dư quân Trịnh do Án Đô Vương Trịnh Bồng chỉ huy đã tái lập phủ chúa uy hiếp vua Lê.Chỉnh được vua Lê tin dùng giao cho nắm binh quyền ở Thăng Long.Đầu năm Đinh Vị (1787)vốn sẵn bất mãn với Nguyễn Huệ,giờ đây gây dựng được thế lực,Chỉnh âm mưu chống lại Nguyến Huệ.Chỉnh xúi dục vua Lê gửi quốc thư cho Nguyễn Huệ đòi lại đất Nghệ An.Huệ rất tức giận.Mùa đông năm Đinh Vị (1787) Huệ sai Võ Văn Nhậm thống lĩnh quân thủy bộ Tây Sơn đánh ra Bắc để trừng phạt Chỉnh.Đầu năm Mậu Thân (1788),quân Tây Sơn chiếm Thăng Long,Chỉnh cùng Lê Chiêu Thống chạy về Hải Dương.Quân Tây Sơn truy kích bắt được cha con Chỉnh mang về Thăng Long,bị Nhậm giết chết.Lê Chiêu Thống chạy thoát cử người sang cầu viện vua nhà Thanh.Sau chiến thắng, Vũ Văn Nhậm nắm binh quyền ở Thăng Long sinh tự kiêu,lộng quyền.Được tin báo,mùa hạ năm Mậu Thân,Nguyễn Huệ ở Phú Xuân bất ngờ ra Thăng Long bắt giết Nhậm,bố trí lại phòng thủ Bắc Hà,khen thưởng tướng sĩ,thu nhận và trọng dụng nhiều sĩ phu Bắc Hà về với Tây Sơn trong đó có Phan Huy Ích,Ngô thì Nhậm”.Thực tiễn lịch sử như trên,giúp giải mã ý nghĩa các cụm từ ẩn dụ mà hai ông Phan,Ngô đã sử dụng trong văn bia:”bắc binh”,”bắc binh hội”là “quân bắc triều(quân nhà Lê do Nguyễn Hửu Chỉnh chỉ huy)”.”bắc binh nam mục” là “quân bắc triều (nhà Lê) nhòm ngó về phương nam”(đòi lại đất Nghệ An).Trong trận nàyĐông Lĩnh Hầu Đặng Tiến Giản được Huệ giao ấn kiếm lãnh đạo tiên phong.Giản đã xông xáo đánh tan quân nhà Lê do Chỉnh chỉ huy,tiến trước vào Thăng Long(dẹp yên nơi cung cấm có ý nghĩa là dẹp nội phản).“Vũ Hoàng đế giá lâm Thăng Long…” mô tả trường hợp Nguyễn Huệ ra Thăng Long bắt giết Nhậm,khen thưởng tướng sĩ trong đó Đặng Tiến Giản được ban thưởng làng quê Lương Xá làm thực ấp.(“Tây Sơn thuật lược” nói rõ chi tiết trong trận năm Mậu Thân:”Huệ khiến Tiết chế Nhậm đốc xuất bộ quân,Thái úy Điều đốc xuất thủy quân,Đô đốc Đặng Giản làm tiên phong…(Giản là người Lương Xá hậu duệ của Đặng Nghĩa Huấn”).Tuy nhiên cũng có ý kiến khác giải thích đoạn văn bia nói trên.Mậu Thân và Kỷ Dậu là 2 năm liền nhau,gắn với sự kiện quân Thanh xâm lược nước Nam cuối năm Mậu Thân(1788) và trận đại phá 29 vạn quân Thanh do vua Quang Trung chỉ huy đầu năm Kỷ Dậu(1789).Có lập luận:””Vũ Hoàng đế là vua Quang Trung”,”bắc binh là quân Thanh”,từ đó cho rằng đoạn văn bia Tông đức thế tự bi là nói đến trận Tây Sơn đánh quân Thanh do vua Quang Trung chỉ huy.Cách giải thích như trên có mấy điểm không hợp lý:-1/văn bia nói:”Vũ Hoàng đế trú quân ở Quảng Nam” thì chắc chắn không phải nói về vua Quang Trung vì từ khi lên ngôi Hoàng đế cho đến ngày băng hà,vua Quang Trung tức Nguyễn Huệ chưa bao giờ “trú quân ở Quảng Nam”.-2/ Theo văn bia thì “ đầu năm Mậu Thân,Đô đốc Đặng Tiến Giản đánh tan “Bắc binh hội” tiến trước vào Thăng Long dẹp yên nơi cung cấm”.(tức Bắc binh đã rút chay khỏi Thăng Long).Theo sử sách thì quân Thanh có mặt ở Thăng Long vào cuối năm Mậu Thân (1788) nhưng cho đến đêm giao thừa Mậu Thân quan quân Tôn Sĩ Nghị vẫn yên ổn đón năm mới ở kinh thành.Trận đại phá quân Thanh khai diễn đêm mồng 3 Tết và kết thúc trưa ngày mồng 5 Tết Kỷ Dậu(1789) với việc Tôn Si Nghị cùng tàn quân Thanh tháo chạy khỏi Thăng Long..Do đó cách giải thích “bắc binh”trong văn bia là “quân Thanh” và từ đó cho rằng Đặng đô đốc lập công trong trận Tây Sơn đại phá quân Thanh năm Kỷ Dậu là không có cơ sở và trái với di bản.  Như vậy việc giải mã văn bia Tông đức thế tự bi cùng Sắc phong,bộ Đặng tộc phả đã phác lộ chân dung khá đầy đủ một đại tướng Tây Sơn từ hơn 200 năm qua vẫn nằm ẩn trong các di bản ở Lương Xá.Đó là Đô đốc Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Giản quê ở Lương Xá (nay là thôn Lương Xá,xã Lam Điền,huyện Chương Mỹ,Hà Nội) sinh năm Vĩnh Hựu thứ tư (18/6/1738) hậu duệ đời thứ 5 của Nghĩa Quốc Công Đặng Huấn,cháu của Yên Quận công Đặng Tiến Thự,con của Dân Quận công Đặng Đình Miên (Đặng Tiến Miên) vốn có tên Đông sau đổi tên Giản (Đặng Tiến Giản),từng là vỏ quan hàng Đô đốc của nhà Lê và là danh sĩ có tiếng tăm của Bắc Hà.Mùa thu năm Đinh Vị(1787),vì ngưỡng mộ anh hùng Nguyễn Huệ cùng sức mạnh của Tây Sơn,cùng với việc chán ghét sự hèn yếu của Lê Chiêu Thống,sự lộng quyền của Nguyễn Hửu Chỉnh,ông đã bỏ vào Quảng nam đầu quân dưới trướng Bắc Bình vương Nguyễn Huệ,ông được Huệ đón tiếp trọng thị,gia phong chức Đô đốc đồng tri tước Đông Lĩnh hầu.Với thiên tài dùng người,sẵn có ý đồ tiến quân ra bắc để trừng trị Nguyễn Hửu Chỉnh,Nguyễn Huệ đã nhận thấy Đặng Tiến Giản sẽ có vị trí không ai thay thế trong việc thu phục các sĩ phu Bắc Hà.Mùa đông năm Đinh Vị (1787) ông được Huệ tin yêu giao ấn kiếm lãnh đạo tiên phong trong đội quân Tây Sơn do Vũ Văn Nhậm làm Tiết chế đánh ra Thăng Long để trừng trị bè lũ phản nghịch Lê Chiêu Thống-Nguyễn Hửu Chỉnh.Đầu năm Mậu Thân(1788),Giản xông xáo đánh bại quân nhà Lê do Nguyễn Hửu Chỉnh chỉ huy,tiến trước vào kinh thành Thăng Long,vua Lê cùng Nguyễn Hửu Chỉnh chạy về Hải Dương.Quân Tây Sơn truy kích bắt được cha con Nguyến Hửu Chỉnh mang về Thăng Long,Nhậm hạ lệnh giết chết..Sau chiến thắng,Đặng Tiến Giản được giao trị nhậm trấn Thanh Hoa (như đã ghi trước trong bản Sắc) được Nguyễn Huệ ban thưởng làng quê Lương Xá làm thực ấp vĩnh viễn.Sau trận này nhiều sĩ phu Bắc Hà theo gương Đặng Tiến Giản về đầu quân Tây Sơn trong đó có các danh sĩ nổi tiếng:Phan Huy Chú,Ngô Thì Nhậm cũng là những người bạn cố tri của Đặng Tiến Giản.Theo “Tây Sơn thuật lược”,năm Canh Tuất(1790),niên hiệu Quang Trung năm thứ 3,vua Quang Trung sai con thứ là Nguyễn Quang Bàn về làm trấn thủ Thanh Hoa.Đặng Tiến Giản về Thăng Long được phong Đại Đô đốc coi giữ Đại Thiên Hùng binh.Trong những năm sau này,ngoài việc nước,ông dành thời gian để biên soạn bộ “Đặng gia phả hệ toản chính thực lục”thể hiện tấm lòng hiếu thảo,sùng kính,tri ân tổ tiên.(Bộ phả này không ghi năm tháng biên soạn nhưng căn cứ vào chức tước Đặng Tiến Giản chép trên đầu mỗi quyển phả là “Đô đốc Đông Lĩnh hầu thống lĩnh Thiên Hùng” là chức tác giả được phong năm Quang Trung 3 (1790) thì việc tiến hành biên soạn bộ phả phải sau năm đó) Vốn là người hâm mộ đạo Phật,năm 1794 ông đúc chuông đồng cung tiến chùa Trăm Gian,hiện chùa còn lưu giữ bức tượng truyền thần bằng gỗ của ông(dân gian gọi là tượng quan Đô).Đặng Tiến Giản mất ngày 15 tháng 4(chưa xác định năm cụ thể nhưng chắc chắn là sau năm 1794 và trước năm 1797).Mộ táng tại xứ Đồng Trê,nay thuộc thôn Đầm Dền,xã Đại Yên,huyện Chương Mỹ,tỉnh Hà Tây cũ nay thuộc Hà Nội). Đặng Tiến Giản,một đại tướng của Tây Sơn,văn võ toàn tài, hội đủ các đức tính Trung,Nghĩa,Trí,Dũng,Nhân, có uy tín trong thời gian phục vụ nhà Lê khi về với Tây Sơn cũng rất được vua Quang Trung tin dùng,đồng nghiệp kính mến.Có thể ông về với Tây Sơn muộn và thời gian phục vụ cũng chưa dài (chưa quá 10 năm) nên sử sách chép về Tây Sơn các đời trước không thấy nói đến tên ông (trừ cuốn “Tây Sơn thuật lược”) nhưng với sự phát hiện các di bản,di vật đời Tây Sơn ở Lương Xá,chùa Trăm Gian đã cho thấy:hiếm có một đại tướng Tây Sơn nào còn được lưu giữ sắc phong,gia phả,bia đá,tượng gỗ,chuông đồng cùng phần mộ cho đến ngày nay sau những năm nhà Nguyễn chủ trương truy sát tàn dư,tận diệt mọi di vật,di sản có liên quan đến “ngụy Tây Sơn”.  Hà Nội Xuân Tân Mão (2011)-TDT Tư liệu trong bài này được trích dẫn từ các sách báo tham khảo: -“Hoàng Lê nhất thống chí” (Hồi thứ 9).(Nxb Văn học-2010) -“Tây Sơn thuật lược”xuất bản dưới triều Nguyễn,có đăng trong Tạp chí Nam Phong.Bài viết này sử dụng bản dịch của Tạ Quang Phát đăng trên Tạp chí Sử Địa Sài Gòn số Xuân Mậu Thân(1968). -“Quang Trung-anh hùng dân tộc” của Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm (Nxb Văn hóa-Thông tin tái bản 1998). -“Tư liệu điền dã vùng Huế về thời kỳ Tây Sơn” (Nxb Thuận Hóa 1998). -“Đặng gia phả ký” sách dịch của Viện Hán nôm (2000) “-Đối thoại sử học”(Nxb Thanh niên 2000) -Đặng Tiến Đông-một tướng Tây Sơn chỉ huy trận Đống Đa-Phan Huy Lê (Tạp chí Nghiên cúu lịch sử số 1054 (01-1974). “-Thông tin tư liệu” đăng trên Tạp chí “Huế Xưa và Nay” (Hội Khoa học Lịch sử TT-H số 90-tháng 12/2008). PHỤ LỤC I Các đoạn bằng chữ Hán (có phiên âm,dịch nghĩa tro
Tài liệu liên quan