Giống như phương pháp phân loại đất Soil
Taxonomy, các tác giả của hệ thống phân loại
FAO-UNESCO cũng dựa vào tính chất hiện tại
của đất có liên quan tới nguồn gốc, điều kiện và
quá trình hình thành để tiến hành phân loại. Như
vậy có thể cho rằng phương pháp của FAO-UNESCO cũng là phương pháp định lượng
(định lượng tầng chẩn đoán và tính chất chẩn
đoán). Chỉ có tính chất hiện tại được định luợng
hoá mới đánh giá được mức độ đáp ứng yêu
cầu của cây trồng. Những đặc điển về yếu tố,
quá trình hình thành tác động đến đặc tính đất
có thể xác định được mới đưa vào sử dụng
trong phân loại.
9 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4449 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bản chất phương pháp phân loại đất theo FAO-UNESCO?, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bản chất phương pháp
phân loại đất theo FAO-
UNESCO?
Giống như phương pháp phân loại đất Soil
Taxonomy, các tác giả của hệ thống phân loại
FAO- UNESCO cũng dựa vào tính chất hiện tại
của đất có liên quan tới nguồn gốc, điều kiện và
quá trình hình thành để tiến hành phân loại. Như
vậy có thể cho rằng phương pháp của FAO-
UNESCO cũng là phương pháp định lượng
(định lượng tầng chẩn đoán và tính chất chẩn
đoán). Chỉ có tính chất hiện tại được định luợng
hoá mới đánh giá được mức độ đáp ứng yêu
cầu của cây trồng. Những đặc điển về yếu tố,
quá trình hình thành tác động đến đặc tính đất
có thể xác định được mới đưa vào sử dụng
trong phân loại.
Nội dung của phương pháp
Cơ sở của phương pháp
Giống như phương pháp phân loại đất Soil
Taxonomy, các tác giả của hệ thống phân loại
FAO- UNESCO cũng dựa vào tính chất hiện tại
của đất có liên quan tới nguồn gốc, điều kiện và
quá trình hình thành để tiến hành phân loại. Như
vậy có thể cho rằng phương pháp của FAO-
UNESCO cũng là phương pháp định lượng
(định lượng tầng chẩn đoán và tính chất chẩn
đoán). Chỉ có tính chất hiện tại được định luợng
hoá mới đánh giá được mức độ đáp ứng yêu
cầu của cây trồng. Những đặc điển về yếu tố,
quá trình hình thành tác động đến đặc tính đất
có thể xác định được mới đưa vào sử dụng
trong phân loại.
Nội dung của phương pháp
a. Nghiên cứu các yếu tố hình thành đất
Nội dung này bao gồm thu thập và nghiên cứu
các tư liệu có liên quan tới các yếu tố tự nhiên
trong học thuyết hình thành đất, gồm: sinh vật,
khí hậu, đá mẹ, địa hình, thời gian và tác động
của con người. Việc đánh giá các điều kiện tự
nhiên theo một hệ thống chỉ dẫn chặt chẽ của
phương pháp để có thể xử lý trên máy điện
toán.
b. Xác định tầng chẩn đoán và tính chất chẩn
đoán
Tầng đất là lớp đất nằm song song với mặt đất
có các đặc tính sinh ra do các quá trình hình
thành đất, được phân biệt với tầng nằm kề cận
bởi đặc tính có thể đo đếm hay quan sát khi
nghiên cứu ngoài thực địa kết hợp với phân tích
mẫu đất trong phòng thí nghiệm.
Tầng chẩn đoán (diagnostic horizons) là tầng
đất mà các tính chất đã được định lượng hoá,
dùng để xác định tên đơn vị đất (name of units).
Đặc tính chẩn đoán (diagnostic properties): một
số tính chất được sử dụng để phân chia các
đơn vị phân loại đất trừ nhóm chính (major
group) không thể coi là tầng đất. Các tính chất
chẩn đoán nhất thiết phải được định lượng hoá.
Tương tự như trong Soil Taxonomy, các tầng
chẩn đoán cũng phân thành 2 nhóm tầng: tầng
chẩn đoán bề mặt (Surface horizons) và tầng
chẩn đoán phía dưới (Subsurface horizons).
Bảng dưới trình bày một số tầng chẩn đoán và
tính chất của chúng được dùng để đặt tên đất.
Mỗi tầng chẩn đoán cần đạt được một số tiêu
chuẩn định lượng rõ ràng thì mới đặt được tên.
Ví dụ, tầng A.mollic cần có 6 tiêu chuẩn, tầng B
argic cần có 7 tiêu chuẩn. Tương tự các đặc
tính chẩn đoán cũng cần đạt nhiều tiêu chuẩn.
Sự khác biệt ở đây là để gọi tên đặc tính chẩn
đoán không nhất thiết phải sử dụng tất cả các
tiêu chuẩn đạt được mà nhiều trường hợp chỉ
cần dùng một số trong đó. Ví dụ, đặc tính Andic
chỉ cần 1, 2 hay cả 3 tiêu chuẩn; đặc tính Fluvic
chỉ cần 1 trong 2 tiêu chuẩn đạt được.
c. Vật liệu chẩn đoán (diagnostic materials)
Vật liệu chẩn đoán có ý phản ánh mẫu chất
nguyên thuỷ không còn biểu hiện quá trình phát
sinh đất để lại dấu hiệu đáng kể. Sau đây là một
số trong nhiều vật liệu đất: các vật liệu do hoạt
động của con người như phân bón, chất thải,...
cacbonat (Calcaric), hữu cơ (organic), lưu
huỳnh (sulfudic), phù sa (fluvic), vật liệu núi lửa
(tephric).
d. Nghiên cứu danh pháp và hệ thống phân
vị
Danh pháp được sử dụng
Khác với Soil Taxonomy, ngoài các danh pháp
có nguồn gốc Latin, Hylạp, Ðức ra thì một số
danh pháp có nguồn gốc các thứ tiếng khác vẫn
được sử dụng để chỉ những đất đặc thù của đới
khí hậu đồng thời mang tính hoà hợp cao như:
đất Podzols, đất Solonetz, đất Chernozem, đất
Kastanozem theo tiếng Nga; đất Renzin theo
tiếng Balan; đất Andosols theo tiếng Nhật... Tuy
nhiên, việc sử dụng danh pháp rộng rãi thể hiện
thiếu tính thống nhất và chặt chẽ trong hệ thống
phân loại mặc dù các đất đó có diện tích đáng
kể và đã được nghiên cứu khá kỹ ở các nước
này.
Hệ thống phân vị
So với Soil Taxonomy, hệ thống phân vị của
FAO-UNESCO đơn giản hơn nhiều, bao gồm 4
cấp, đó là: nhóm chính (major groups) -> đơn vị
(units) -> đơn vị phụ (sub units) -> pha (phase).
Các nhóm chính và các đơn vị đất được phân
chia trên cơ sở điều kiện địa lý và bối cảnh tiến
hoá.
Trong tài liệu năm 1988 FAO-UNESCO công bố
có 28 nhóm đất chia ra 8 cột (bảng
15.6) bao gồm 153 đơn vị đất
Trong hệ thống phân loại WRB (Cơ sở tham
chiếu tài nguyên đất thế giới) đã bổ sung thêm 3
nhóm đất mới: đất băng giá (Cryosols), đất cứng
rắn (Duripans) và đất nâu sẫm nhân tác
(Umbrisols) đồng thời loại bỏ nhóm đất xám
thảo nguyên (Greyzem) để nhập vào nhóm đất
nâu thẫm Phaeozem (Phaeozems) và đổi tên
nhóm đất potzon nâu (Podzols) thành tên nâu
đen tầng mặt bạc trắng (Albeluvisols).
Bên cạnh đó WRB tuỳ vào trường hợp cụ thể về
vị trí, mức độ, tính chất của tầng, của đặc tính,
hay của vật
Như vậy hệ thống này có 30 nhóm đất và số
đơn vị đất tăng lên đáng kể.
Ðơn vị đất là đơn vị phân loại mức thứ 2 được
xác định bởi một biểu hiện rõ ràng của quá trình
hình thành, biến hoá của đất và tên gọi theo
danh pháp có nguồn gốc Latin, Hylạp hay
những thứ tiếng khác. Các danh pháp này là
những thành tố để gọi tên đất. Ta có rất nhiều
thành tố. Sau đây nêu một số rất ít trong các
thành tố đó làm ví dụ *:
• Albic: Lat. albus, trắng, chỉ đất bị rửa trôi
mạnh.
• Cambic: Lat. cambiare, biến đổi, chỉ đất có
biến đổi: màu, cấu trúc hay độ chặt.
• Haplic: Hyl. haplos, đơn giản, điển hình, chỉ đất
có tầng điển hình.
• Thionic: Hyl. theion, sulfua, hàm ý sự có mặt
của vật liệu sulfua.
• Rhodic: Hyl. rhodon, đỏ, chỉ đất có màu đỏ.
• Lithic: Hyl. lithos, đá, chỉ đất rất mỏng.
• Eutric: Hyl. eu, tốt, phì nhiêu, chỉ đất có độ bão
hoà cao.
.......
* Nhiều danh pháp chúng ta đã được làm quen
trong phương pháp Soil Taxonomy.
Ðơn vị phụ đất là cấp phân vị thứ 3 trong hệ
thống phân loại. Cấp này không thể thể hiện
được trên bản đồ thế giới tỷ lệ 1/5.000.000, vì
thế được áp dụng cho từng quốc gia. Tuy nhiên
một số nguyên tắc chung cần kèm theo để đảm
bảo tính thống nhất của các đơn vị đất. Như vậy
ta có các dạng phương thức thêm tiếp đầu ngữ
khác nhau như sau:
1) Ðơn vị phụ được lập trung gian giữa các
nhóm chính ở mức thứ nhất, ví dụ:
Gleyi-Dystric Fluvisols (FLdg) là Dystric
Fluvisols có biểu hiện đặc tính gleyic trong phạm
vi 100 cm.
Andi-Humic Ferralsols (FRha) là Humic
Ferralsols có hỗn hợp vật liệu tro núi lửa (andic).
2) Ðơn vị phụ đất được lập trung gian giữa các
đơn vị đất ở mức thứ 2, ví dụ:
Stagni- Gleyic Luvisols (LVgj) là Gleyic Luvisols
thể hiện tính khử (stagnic) do đọng nước bề
mặt.
Calci- Mollic Solonetz (SNmk) là Mollic Solonetz
có tầng calcic trong phạm vi 125 cm.
3) Ðơn vị phụ đất mà tầng hoặc tính chất được
đưa vào đơn vị đất (mức thứ 2) như là một pha
đất (phase), ví dụ:
Anthraqui- Stagnic Solonetz là Stagnic Solonetz
có liên quan tới đọng nước do tưới (Anthraqui).
Rudi- Calcaric Regosols (RGcr) là Calcaric
Regosols có sỏi, đá hoặc cuội trong lớp đất mặt
hoặc trên mặt đất.
4) Ðơn vị phụ được lập bằng cách thêm đặc tính
đã được sử dụng trong mức thứ nhất và thứ 2,
ví dụ:
Grumi- Eutric Vertisols (VReg) là Eutric Vertisols
khi khô có kết cấu hạt lớn trong phần trên 18
cm.
Alumi- Humic acrisols là Humic Acrisols bão hoà
nhôm 50 % hay hơn ít nhất một phần của tầng B
argic trong phạm vi 125 cm.
5) Ðơn vị phụ được tạo bởi nhiều chi tiết của
các đặc tính đã sử dụng khi xác định đơn vị đất
mức 2, ví dụ:
Hyper-Calcaric Cambisols (CMch) là Calcaric
Cambisols có chứa vật liệu cacbonat từ 40% trở
lên.
Umbri - Humic Alisols (ALuu) là Humic Alisols có
tầng A umbric
Pha đất (phase) giới hạn những yếu tố có liên
quan đến bề mặt đất hoặc tính chất dưới đất
mặt (subsurface features). Chúng không nhất
thiết liên quan tới sự hình thành đất và nhìn
chung giao nhau giới hạn của các đơn vị đất
khác nhau. Những tính chất đó có thể được
hình thành do sử dụng đất. Ở đây có một số pha
như: anthraquic (đất do tưới nước đọng bề
mặt), duripan (lớp cứng rắn do cát xi măng hoá),
fragipan (lớp đất thịt phía dưới gắn lại rất chắc
có tỷ trọng lớn), gilgai (đất sét có tiểu địa hình
đặc trưng, thường là đất có hệ số giãn nở cao),
lithic (được dùng khi trong phạm vi < 50 cm xuất
hiện đá tươi), placic (chỉ sự có mặt lớp sắt
mỏng, màu từ đen đến đỏ bị xi măng hoá bởi
sắt và mangan hay hỗn hợp sắt- hữu cơ), salic,
rudic (chỉ diện tích có sỏi, đá, cuội hay đá lộ
thiên trong lớp đất mặt), skeletic (lớp đất vật liệu
thô với độ dày bé nhất là 25 cm và xuất hiện
trong phạm vi 50 cm).
Ðể gọi tên đất một cách dễ dàng ta sử dụng bộ
khoá phân loại (keys to soil classification) bằng
cách: trước hết xây dựng hệ thống danh pháp
gọi tên nhóm đất, tiếp theo xây dựng hệ thống
danh pháp gọi tên đơn vị đất rồi lựa chọn
phương thức đặt tên đơn vị phụ đất, cuối cùng
tuỳ theo trường hợp cụ thể mà gắn thêm pha
đất.
Như vậy cấu tạo tên một đất như sau: tên pha-
tên đơn vị phụ- tên đơn vị- tên nhóm.