Khi đối thủ bàn hàng giá rẻ, các công ty chỉ có ba sự lựa chọn: tấn công, cố 
gắng cùng tồn tại song hành hoặc cắt giảm chi phí. Không có sự lựa chọn nào 
là dễ dàng, nhưng nếu hiểu thấu đáo vấn đề có thể bạn sẽ tìm ra được quyết 
định chính xác nhất.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 12 trang
12 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1852 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Bạn làm gì khi đối thủ bán hàng giá rẻ?, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bạn làm gì khi đối thủ 
bán hàng giá rẻ? 
 Khi đối thủ bàn hàng giá rẻ, các công ty chỉ có ba sự lựa chọn: tấn công, cố 
gắng cùng tồn tại song hành hoặc cắt giảm chi phí. Không có sự lựa chọn nào 
là dễ dàng, nhưng nếu hiểu thấu đáo vấn đề có thể bạn sẽ tìm ra được quyết 
định chính xác nhất. 
Bạn làm gì khi đối thủ bán hàng giá rẻ? 
Chiến lược tạo ra sự khác biệt 
Khi các công ty truyền thống nhận thấy không thể thắng trong cuộc chiến về 
giá với những công ty cung cấp hàng hóa/dịch vụ giá rẻ, họ sẽ cố gắng tạo sự 
khác biệt trong sản phẩm của mình, nỗ lực cùng tồn tại với đối thủ. Chiến 
lược này được triển khai dưới nhiều hình thức: 
 * Thiết kế ra những sản phẩm bắt mắt như Apple và Bang&Olufsen đã làm. 
 * Sáng tạo liên tục theo đúng truyền thống của Gillette và 3M. 
 * Cung cấp trọn gói sản phẩm độc đáo như Sharper Image và Whole Foods 
đang tiến hành. 
 * Tạo ra thương hiệu mang nghĩa cộng đồng như Harley-Davidson và Red 
Bull đã làm. 
 * Bán kinh nghiệm của mình như Four Seasons, Nordstrom và Starbucks 
đang làm. 
Các chiến thuật này thành công đến đâu đều đã được thực tế đã chứng minh. 
Tuy nhiên, chúng ta cần phải lưu ý, để thực hiện một chiến thuật thành công, 
phải có ba điều kiện. 
 * Thứ nhất, doanh nghiệp cần phải có một điểm ưu việt. Ví dụ, 
Bang&Olufsen (Đan Mạch) có thể cạnh tranh hiệu quả với những công ty sản 
xuất hàng điện tử giá rẻ là nhờ khả năng thiết kế sản phẩm của hãng. Chính 
khả năng này giúp hãng liên tục tung ra thị trường các sản phẩm mới. 
Bang&Olufsen còn rất chịu khó đầu tư vào việc thiết kế mẫu mã bên ngoài 
của sản phẩm song song với tạo ra hệ thống cửa hàng phân phối thật bắt mắt. 
 * Thứ hai, các công ty phải thuyết phục được khách hàng trả nhiều tiền hơn 
vì lợi ích họ thu được nhiều hơn so với những đối thủ bán hàng/dịch vụ giá rẻ. 
Khả năng này thường tùy thuộc vào từng mặt hàng. Ví dụ, hơn 20 năm qua, 
các khách hàng sẵn sàng trả giá cao hơn cho các sản phẩm cạo râu nhãn hiệu 
Atra, Atra Plus, Sensor, Sensor Excel, Mach 3, Mach 3 Turbo và Centro của 
hãng Gillette, vì những nhãn hàng này có thể giúp họ cạo râu sát mặt. Rất 
nhiều công ty cảm thấy khó khăn trong việc thuyết phục khách hàng phải trả 
nhiều tiền hơn cho những tính năng vượt trội so với các sản phẩm cùng loại. 
Walgreens nhấn mạnh đến sự tiện lợi của khách hàng khi đặt những cửa hàng 
của mình cạnh các trung tâm mua sắm, dễ dàng ra vào nhờ hệ thống cửa 
thông minh và thiết kế những ô cửa thanh toán rộng, tiện lợi cho việc thanh 
toán. Và Walgreens đã “giữ được mình” trong cuộc chiến với Wal-Mart. 
 * Điều kiện thứ ba: Các công ty phải xem xét kỹ chi phí bỏ ra và lợi nhuận 
thu được. Việc này rất tốn thời gian. Sau vài năm tái cấu trúc, Hewlett-
Packard cuối cùng đã có thể đuổi kịp Dell trong lĩnh vực máy tính cá nhân. 
Giá máy của Dell giờ chỉ rẻ hơn HP 10% thay vì 20% như trước kia, và kể từ 
khi giá trung bình của PC trên toàn thế giới hạ xuống, ưu thế về giá giữa các 
đại gia máy tính chỉ chiếm tỷ lệ lợi thế rất nhỏ. Giờ đây, khách hàng lại đổ xô 
đi mua máy tính của HP vì họ nhận được nhiều lợi ích như giao hàng sớm 
hơn và có thể “sợ tận tay, xem tận mắt” sản phẩm ngay tại các cửa hàng. 
Tuy nhiên, nếu đa số khách hàng không có nhu cầu gia tăng thêm lợi ích, 
nhiều công ty có thể buộc phải “tham chiến” vào cuộc chiến giá cả. Hãy lấy 
trường hợp của British Airways làm ví dụ. Hãng hàng không lớn nhất nước 
Anh này ban đầu đã tỏ ra khinh thường những đối thủ cạnh tranh giá rẻ như 
easyJet và Ryanair, rồi sau đó cuống cuồng thành lập một công ty hàng không 
giá rẻ có tên là Go. Thế nhưng công ty này nhanh chóng thất bại và buộc phải 
bán lại cho easyJet vào năm 2000 và British Airways quay lại với lối kinh 
doanh truyền thống. British Airways giờ đây chỉ tập trung phục vụ những 
chuyến bay đường dài và không có những chuyến bay giá rẻ. Còn ở thị trường 
bay đường ngắn, hãng cố gắng giữ vững một tỷ lệ thị phần nhất định thông 
qua chiêu thức giảm giá gần bằng với đối thủ cạnh tranh. Tại mỗi chuyến bay, 
British Airways dành một số ghế ngồi nhất định hạng Economy. Do những 
chuyến bay của British Airways có điểm đỗ tại Heathrow, một cảng bay tiện 
lợi và đông đúc, nên chiêu thức này cũng hấp dẫn một số khách bay đường 
dài. Thậm chí, British Airways còn giảm giá cho một số chuyến bay đến 
những điểm nhất định tại Châu Âu. Những chiến lược này của British 
Airways đã giúp hãng cạnh tranh hiệu quả với những “kẻ thách thức”. 
Một vài chiến lược có thể giúp các công ty lớn cùng song song tồn tại với 
những đối thủ cạnh tranh giá rẻ trong thời gia đầu, nhưng khi khách hàng 
quen dần với mức giá rẻ, họ sẽ có xu hướng tẩy chay, không chấp nhận việc 
phải trả tiền cao hơn. Hiện tượng này thể hiện rõ trong ngành hàng không, 
máy tính cá nhân và phân phối. Trong những ngành công nghiệp này, khách 
hàng có xu hướng thích trả tiền ít hơn, cho dù dịch vụ nhận được có thể 
không nhiều. Hãy nhìn vào con số thống kê 3% thị phần của Wal-Mart, Dell 
và Southwest Airlines vào những năm 90 đã tăng lên đến 30% thị phần vào 
năm 2006. Những “gã khổng lồ” đang phải đối chọi với sự cạnh tranh ngày 
càng khốc liệt và nguy cơ thua cuộc đang kề cận. Đương nhiên, họ cũng có 
thể dừng cuộc chơi bằng cách sát nhập với đối thủ. Nhưng, như mọi người 
đều biết, chiêu thức M&A (Sáp nhập & Mua lại) không phải là liều thuốc 
chữa bách bệnh. 
Chiến thuật cùng tồn tại song hành 
Khi các công ty phát hiện ra thị trường giá rẻ là một miếng mồi béo bở, họ 
thường lựa chọn cách lập ra công ty thứ cấp. Ưu thế của những công ty lớn là 
kinh nghiệm thị trường và nguồn lực tài chính, vì vậy họ tin chắc rằng mình 
có thể dễ dàng tạo ra một bản sao hoạt động tốt trong môi trường giá rẻ. Đó là 
chưa kể: mô hình kinh doanh của những công ty giá rẻ thoạt trông thường đơn 
giản hơn các công ty lớn, càng làm cho những “gã khổng lồ” thêm vững tin. 
Ví dụ, vào những năm 90, tất cả các hãng hàng không đều cho ra đời những 
công ty thứ cấp nhằm cạnh tranh với những đối thủ cạnh tranh giá rẻ như 
Continental Lite, Delta Express, Buzz của hãng KLM, Snowflake của SAS, 
MetroJet của US Airways, Shuttle của United. Tuy nhiên, rất nhanh chóng, 
những công ty thứ cấp này lâm vào cảnh thu lỗ hay phá sản. Bài học này đã 
dạy cho những “gã khổng lồ” biết chiến lược “sóng đôi” khó thực hiện đến 
mức nào. 
Mặc dù, hầu hết các nhà lãnh đạo không nhận ra điều này, nhưng rõ ràng chỉ 
nên thành lập những công ty thứ cấp bán dịch vụ/hàng hóa giá rẻ khi nó giúp 
cho hoạt động kinh doanh truyền thống có tính cạnh tranh hơn và công ty mới 
cũng nhận được những thuận lợi từ công ty mẹ. Ví dụ, trong ngành dịch vụ tài 
chính, các công ty HSBC, ING, Merrill Lynch và Royal Bank (Scotland) đã 
lập ra những công ty thứ cấp cung cấp các dịch vụ giá rẻ như First Direct, 
ING Direct, ML Direct và Direct Line Insurance. Đó là do giữa công ty thứ 
cấp và công ty mẹ có nhiều điểm chung. Những công ty thứ cấp cung cấp cho 
khách hàng một số sản phẩm thông qua Internet như tiền gửi có kỳ hạn, tài 
khoản tiết kiệm và bảo hiểm. Khi tìm được những khách hàng lớn mà công ty 
thứ cấp thấy mình không đủ khả năng phục vụ, nó sẽ chuyển lên cho công ty 
mẹ. Vậy là lợi cả đôi đường. 
Một yếu tố giúp các công ty thứ cấp thành công là sử dụng thương hiệu của 
công ty mẹ. Ví dụ, First Direct sử dụng luôn biểu tượng của HSBC, ING 
Direct sử dụng một nửa biểu tượng của ING, một nửa sáng tạo. Cùng chung 
thương hiệu với công ty mẹ sẽ giúp các công ty con dễ dàng nhận được sự tín 
nhiệm của cộng đồng. Thêm vào đó, có một thương hiệu uy tín nhất định 
cũng nói lên rằng số lượng dịch vụ ít hơn đồng nghĩa với giá rẻ hơn và thậm 
chí, đôi khi, khách hành còn tin tưởng vào mô hình kinh doanh giá rẻ của 
công ty con hơn cả công ty mẹ. Ví dụ, khách hàng của First Direct (công ty 
con của HSBC) trung thành với mạng lưới ATM của hãng hơn cả khách hàng 
của HSBC, mặc dù cả hai đối tượng khách hàng này đều sử dụng chung một 
hệ thống ATM. Thậm chí, nếu khách hàng của HSBC đòi hỏi phải đặt máy 
ATM ở mỗi góc phố thì khách hàng của First Direct không cần nhiều máy 
như vậy, họ chỉ cần máy ATM đặt ở chỗ dễ nhìn thấy là được rồi. 
Hãy chú ý: Do đối tượng khách hàng phục vụ của các công ty giá rẻ không 
giống với công ty mẹ, nên công ty thứ cấp phải có trụ sở riêng và hoạt động 
độc lập với công ty mẹ. Tuy nhiên, kinh nghiệm của ngành hàng không đã chỉ 
ra rằng: sự độc lập của các công ty con tuy cần thiết, nhưng không hiệu quả. 
Đó là do bản thân công ty con phải chịu những điều luật bắt buộc từ công ty 
mẹ. Ví dụ, Hiệp hội thương mại không cho phép hãng U.S Airlines trả lương 
cho cán bộ công nhân viên của các công ty thứ cấp thấp như mức lương của 
hãng Southwest Airliness và JetBlue. Vì vậy, không ngạc nhiên khi các công 
ty con của U.S Airlines “chết yểu”. 
Chiến lực cùng tồn tại song hành sẽ đạt được kết quả tuyệt vời, khi công ty 
thứ cấp chuyên cung cấp hàng/dịch vụ giá rẻ kinh doanh có lãi (chứ không chỉ 
chống lại đối thủ cạnh tranh). Trường hợp Dow Corning lập nên công ty con 
Xiameter là một ví dụ tuyệt vời minh họa cho tính hiệu quả của chiến lược 
này. Dù chiếm đến 40% thị phần silicon toàn cầu vào năm 2000, Dow 
Corning vẫn không cản trở các đối thủ giá rẻ tham gia cuộc chơi. Nhưng thay 
vì giảm giá, sau khi nghiên cứu kỹ phân khúc thị trường và khách hàng tiềm 
năng, vào năm 2002 công ty này quyết định thành lập một công ty thứ cấp 
chuyên cung cấp Silicon giá rẻ, lấy tên là Xiameter. 
Nếu Dow Corning cung cấp đến 7.000 loại sản phẩm. thì con số này ở 
Xiameter chỉ là 350. Nhận thấy rằng mình phải bán với giá thấp hơn 20% mới 
có thể cạnh tranh được với những đối thủ giá rẻ của công ty mẹ, Xiameter đã 
sử dụng mọi cách mà trong sách dạy kinh doanh đã nói đến. Thay vì giao 
hàng ngay tức thì, Xiameter hứa sẽ giao hàng từ 7 đến 20 ngày sau khi nhận 
đơn đặt hàng. Nhờ vào thời hạn giao hàng chậm hơn công ty mẹ, Xiameter có 
thể tận dụng sản xuất khi những nhà máy của Dow Corning tạm nghỉ. Và vì 
không nhận các hợp đồng cung cấp dịch vụ kỹ thuật nên Xiameter chẳng việc 
gì phải đầu tư vào khâu dịch vụ. Nhằm giữ chuỗi cung ứng luôn đạt hiệu quả, 
Xiameter chỉ bán hàng cả xe, thùng hay container. Khách hàng chỉ cần đặt 
hàng qua website hoặc mất 250 USD phụ phí đặt hàng qua e-mail hay điện 
thoại. Và một khi đã đặt hàng, khách sẽ không được hủy bỏ, trừ khi mất 5% 
giá trị cả lô hàng. Chính luật này khiến cho khách không mấy khi hủy bỏ đơn 
đặt hàng và việc lập kế hoạch sản xuất trở nên dễ dàng hơn. 
Vào năm 2001, tổng doanh thu bán hàng của Dow Corning đạt 2,4 tỷ USD, 
lợi nhuận đạt 28 triệu USD. Sang đến năm 2005, tổng doanh thu bán hàn của 
Dow Corning và Xiameter lên đến 3,9 tỷ USD với lợi nhuận đạt mức 500 
triệu USD. Vậy là chiến lược này vừa giúp khách hàng tiếp cận được những 
sản phẩm giá rẻ của Dow Corning, vừa giúp công ty tăng lợi nhuận. 
Chiến thuật chế ngự 
Nếu không có bất kỳ mối lợi chung nào giữa “kẻ thách thức” và “gã khổng 
lồ”, các công ty truyền thống có thể lựa chọn một trong hai cách: chuyển từ 
bán sản phẩm sang bán trọn gói giải pháp hoặc tự chuyển đổi thành công ty 
có chi phí thấp nhằm cạnh tranh được với những “kẻ thách thức”. 
Chuyển đổi từ bán sản phẩm sang bán trọn gói. Nếu những “kẻ thách thức” có 
thể bán những sản phẩm/dịch vụ vốn là nguồn thu nhập chính của những “gã 
khổng lồ” với giá thấp hơn hẳn, thì những “gã khổng lồ” sẽ buộc phải chuyển 
đổi thành công ty bán các giải pháp. Thông qua cung cấp những sản 
phẩm/dịch vụ trọn gói, các công ty lớn sẽ mở rộng đối tượng khách hàng, 
hướng đến những người muốn trả nhiều tiền hơn cho những lợi ích gia tăng. 
Giải pháp này có nhiều lợi thế: Vì trọn gói bao gồm nhiều thành phần nên thật 
khó đánh giá được chất lượng từng giải pháp riêng biệt. Theo thời gian, doanh 
nghiệp sẽ thu nhận được sự hiểu biết sâu rộng về quy trình kinh doanh của 
khách hàng, dẫn đến việc khách hàng sẽ thấy khó mà thay đổi được nhà cung 
cấp. Hơn nữa, vì những công ty cung cấp hàng hóa/dịch vụ giá rẻ luôn có số 
lượng sản phẩm hay khả năng cung cấp dịch vụ hạn chế nên họ không thể 
cung cấp được trọn gói giải pháp. 
Mặc dù, chiến lược này rất ưu việt nhưng không dễ gì thực hiện. Nhiều công 
ty như Boots, Compaq, Xerox và Unisys đã không thành công vì họ thấy rằng 
bán trọn gói giải pháp đòi hỏi phải có sẵn mô hình kinh doanh hiện tại phù 
hợp, chứ không phải cải tổ lại công ty. Hầu hết công ty truyền thống chỉ chọn 
chiến lược bán giải pháp khi không còn đường cạnh tranh nào khác. Theo đó 
họ buộc phải phát triển liên kết các sản phẩm/dịch vụ của mình sao cho liền 
mạch và gọi đó là “giải pháp”. Sau đó doanh nghiệp đi tìm khách hàng phù 
hợp với giải pháp mà mình đưa ra. Nếu cách đó không phù hợp, doanh nghiệp 
sẽ bắt đầu bằng cách hợp tác với khách hàng nhằm hiểu vấn đề tồn tại trước 
khi cung cấp giải pháp. 
Bán trọn gói giải pháp cũng đòi hỏi công ty phải quản trị tốt quá trình kinh 
doanh của khách hàng, giúp khách hàng tăng lợi nhuận, giảm rủi ro và chi 
phí. Hãy lấy trường hợp công ty dịch vụ khai thác mỏ Orica (Autralia) làm ví 
dụ. Đây là công ty được cải tổ từ công ty cung cấp chất nổ ICI. Để đặt kíp nổ, 
các chuyên gia phải mất vài ngày đào một hốc đá, đặt một lượng khối thuốc 
nổ nhất định vào đó và hẹn giờ nổ. Rõ ràng, công việc này không phải hãng 
khai thác mỏ nào cũng làm được và họ sẽ phải mua giải pháp và chất nổ của 
Orica. Kể từ khi trở thành nhà cung cấp giải pháp bao gồm sản phẩm, lợi 
nhuận của Orica tăng lên rất nhiều. 
Chuyển đổi sang mô hình kinh doanh với chi phí thấp. Theo lý thuyết, một 
công ty có thể xem xét chuyển đổi từ mô hình kinh doanh chi phí cao sang mô 
hình kinh doanh chi phí thấp. Nhưng trên thực tế, việc chuyển đồi này hầu 
như hiếm khi diễn ra, vì những công ty đã có thương hiệu vẫn sẽ có lợi nhuận 
dù thu nhỏ mô hình kinh doanh.Thêm vào đó, chuyển đổi sang mô hình kinh 
doanh chi phí thấp cũng có nghĩa phải trang bị thêm những khả năng khác 
biệt hẳn với những gì đang có. Vì vậy, những công ty hàng đầu thế giới hầu 
như không làm làm theo chiến thuật này. 
Tuy nhiên, vẫn có những ngoại lệ. Vào năm 1991, Michael O’Leary được bổ 
nhiệm lãnh đạo Ryanair, một hãng hàng không đang thua lỗ, kinh doanh với 
mô hình chi phí cao truyền thống. Để khôi phục doanh thu, Ryanair tiến hành 
một chiến lược giá khuyến mại rẻ hơn cả hãng hàng không Aer Lingus (). Tuy 
nhiên, O’Leary đã nhận ra rằng thành công của hãng không phụ thuộc vào 
mức giá rẻ hơn 10% mà phải rẻ hơn đến 80, 90%. Ông tin rằng chỉ có thể làm 
được điều này nếu chuyển đổi doanh nghiệp. 
Do vậy O’Leary đã đưa ra nhiều quyết định khó khăn nhằm chuyển đổi 
Ryanair thành một trong những hãng hàng không có mô hình chi phí thấp 
nhất châu Âu. Ông cho thay thế toàn bộ băng chuyền cũ vốn đa chủng loại 
cho phù hợp với 14 loại máy bay khác nhau thành môt loại băng chuyền duy 
nhất dành cho máy bay Boeing 737. Nếu trước đây Ryanair không đỗ xuống 
các thành phố nhỏ, thì giờ đây Ryanair có các chuyến bay từ đó. 
Và để tiết kiệm chi phí, một số hãng hàng không giờ đây còn thuê Ryanair 
chở khách của họ từ những thành phố đó. Theo lệnh O’Leary, Ryanair bắt đầu 
ngừng bán vé qua các đại lý hay đặt vé trực tiếp, hãng giờ đây chỉ nhận đặt vé 
qua điện thoại và Internet. Ryanair cũng hạn chế hạng ghế ngồi Business mà 
tập trung vào ghế ngồi hạng Economy và ngừng cung cấp các bữa ăn và đồ 
uống miễn phí trên máy bay, thay vào đó khách hàng phải trả tiền. Thêm vào 
đó, hãng đơn giản hóa thủ tục dưới mặt đất, tận dụng nguồn lực từ bên ngoài 
để cắt giảm chi phí nhân công. 
Tại thời điểm hiện tại, Ryanair có 103 máy bay đang hoạt đọng và bay đến 
300 điểm khắp châu Âu. Từ tháng 03/2005 đến tháng 04/2006, Ryanair đã 
vận chuyển được 35 triệu hành khách, tăng 26% so với năm trước và mang lại 
doanh thu 2,1 tỷ USD, tăng 28% so với cùng kỳ, đưa lại mức lợi nhuận sau 
thuế 387 triệu USD. Quan trọng hơn, từ năm 2005 đến 2006, Ryanair đã cắt 
giảm được 6% tổng chi phí (bao gồm cả chi phí xăng dầu), khiến người ta thật 
sự tin vào “phép màu” của O’Leary. 
Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ/hàng hóa giá rẻ vẫn sẽ mọc lên như 
nấm sau mưa. Một vài trong số đó có thể thành công và trở thành “kẻ thách 
thức”. Tuy nhiên, bạn hãy luôn nhớ có hai loại khách hàng: một loại mua 
hàng/dịch vụ với giá thấp nhất có thể và một loại sẵn sàng trả giá cho những 
dịch vụ gia tăng. Do vậy, luôn có phân khúc thị trường dành cho những doanh 
nghiệp chi phí thấp và doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm/dịch vụ giá cao. Và 
việc giành được bao nhiêu phần trăm thị phần không chỉ phụ thuộc vào ngành 
công nghiệp mà doanh nghiệp đang tham gia lẫn sở thích tiêu dùng của khách 
hàng, mà còn phụ thuộc cả vào chiến lược doanh nghiệp đang áp dụng.