Tóm tắt. Đỗ Bích Thúy là cây bút nữ có nhiều sáng tác đặc sắc về đề tài miền núi.
Các truyện ngắn về miền núi của chị đều mang đậm những nét bản sắc đặc trưng
của vùng cao nguyên núi đá Hà Giang. Nét đẹp văn hóa vùng cao được thể hiện qua
những bức tranh thiên nhiên đặc sắc về núi rừng, không gian sinh hoạt với những
phong tục, tập quán đậm đà bản sắc dân tộc và đặc biệt là thế giới tâm hồn đa dạng,
phức tạp, mang bản sắc tư duy và chiều sâu văn hóa của những con người miền sơn
cước.
6 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 486 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bản sắc văn hóa vùng cao Hà Giang trong một số truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Interdisciplinary Sci., 2014, Vol. 59, No. 6, pp. 50-55
BẢN SẮC VĂN HÓA VÙNG CAO HÀ GIANG
TRONGMỘT SỐ TRUYỆN NGẮN CỦA ĐỖ BÍCH THÚY
Bế Thị Thu Huyền
Khoa Giáo dục Tiểu học, Trường Cao đẳng Sư phạm Quảng Ninh
Tóm tắt. Đỗ Bích Thúy là cây bút nữ có nhiều sáng tác đặc sắc về đề tài miền núi.
Các truyện ngắn về miền núi của chị đều mang đậm những nét bản sắc đặc trưng
của vùng cao nguyên núi đá Hà Giang. Nét đẹp văn hóa vùng cao được thể hiện qua
những bức tranh thiên nhiên đặc sắc về núi rừng, không gian sinh hoạt với những
phong tục, tập quán đậm đà bản sắc dân tộc và đặc biệt là thế giới tâm hồn đa dạng,
phức tạp, mang bản sắc tư duy và chiều sâu văn hóa của những con người miền sơn
cước.
Từ khóa: Đỗ Bích Thúy, đề tài miền núi, bản sắc, Hà Giang.
1. Mở đầu
Đỗ Bích Thúy sinh ra và lớn lên giữa vùng cao nguyên nắng gió Hà Giang, chị hiểu
và yêu sâu sắc những nét đẹp văn hóa đã trở thành bản sắc khó lẫn của miền đất máu thịt
này. Đọc truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy, người đọc được đằm mình trong không gian của
núi rừng rộng lớn. Viết về miền đất của mình, văn chương của chị luôn ăm ắp và tràn đầy
nhựa sống, đằm sâu sắc màu văn hóa vùng núi cao – mảnh đất Hà Giang địa đầu Tổ quốc.
Bước vào thế giới truyện ngắn của chị, người đọc được thỏa sức tắm mình trong không
gian thiên nhiên rộng lớn đặc trưng và kì bí của núi rừng, không gian sinh hoạt với những
phong tục tập quán đậm đà bản sắc dân tộc, và đặc biệt, người đọc được bước vào thế
giới tâm hồn đa dạng, phức tạp, mang bản sắc tư duy và chiều sâu văn hóa của những con
người miền sơn cước.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Những bức tranh thiên nhiên đặc sắc về núi rừng
Thiên nhiên hoang sơ, rộng lớn, dữ dội, hùng vĩ của núi rừng đại ngàn – được tạo
dựng bằng bút pháp gợi tả tinh tế. Đỗ Bích Thúy lựa chọn những chi tiết tiêu biểu nhất
Ngày nhận bài: 15/10/2013 Ngày nhận đăng: 19/6/2014
Liên hệ: Bế Thị Thu Huyền, e-mail: binhminhmuaqn@yahoo.com
50
Bản sắc văn hóa vùng cao Hà Giang trong một số truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy
khơi gợi trí tưởng tưởng của người đọc về không gian vùng núi đá tai mèo cao ngút tầm
mắt: “nhìn phía nào cũng chỉ thấy núi. Núi đá cao ngang mây trời, nhiều như sao trên dòng
sông Ngân Hà, ngửa mặt đếm mỏi miệng, mỏi cổ không xuể” (Cạnh bếp có cái muôi gỗ)
[5;154]. Sự đối lập giữa độ cao ngút ngàn của núi rừng với độ thăm thẳm, hun hút của vực
sâu càng gợi tả rõ nét sự hiểm trở, hoang sơ. Đá tai mèo sắc nhọn tô điểm thêm cho sự
man dại, dũng mãnh. Tiếng gió đại ngàn vi vút làm tăng thêm sự hoang vắng, dữ dội của
núi rừng.
Thiên nhiên dữ dội hoang sơ gắn liền với hình ảnh người trai Mông, thiên nhiên
thơ mộng, lãng mạn, huyền bí của núi rừng lại gắn liền với hình ảnh người phụ nữ Mông
“ngọn núi nhọn, từ chân lên đến đỉnh mọc kín tam giác mạch. . . hoa tam giác mạch nở
rộ, cuối mùa hoa ngả sang màu hồng sẫm, lẫn vào mây mờ” (Cạnh bếp có cái muôi gỗ)
“trời càng rét thì sắc biếc hồng càng rực rỡ” (Ngải đắng ở trên núi) [3]. Thiên nhiên mang
cái mùi vị thân thương đến thành nỗi nhớ nhung khắc khoải của lòng người (Ngải đắng ở
trên núi). Nhưng cái vẻ mơ màng lãng mạn ấy không có chỗ trong một cuộc sống còn bao
nhọc nhằn bươn chải. Người phụ nữ Mông gắn bó với thiên nhiên bởi đó là không gian
lao động hàng ngày. “Ở miền núi, con gái phải tập gùi từ lúc 8, 9 tuổi. Gùi mãi, đủ thứ
trên lưng, già rồi vẫn gùi nên bao giờ lưng cũng còng sớm hơn đàn ông” (Sau những mùa
trăng) [3]. Đàn bà gắn liền với hình ảnh của cái gùi, cái quẩy tấu mỗi khi đi làm nương, tư
thế lúc nào cũng cong lưng, cúi mặt xuống để giữ lấy thăng bằng trèo rừng, lội suối nên họ
rất lặng lẽ, kiệm lời “Đàn bà Thài Tùng Phỉn nói ít làm nhiều, không mấy khi buồn cũng
không có mấy khi vui. Cúi mặt từ mờ sáng đến đêm khuya, cái lưng cong mãi” [5;158].
Không gian xa xôi hẻo lánh lại là điều kiện, là cơ hội để con người miền núi thể hiện
tình cảm xóm giềng gắn bó sâu sắc “Muốn đến thăm nhau là phải đi từ lúc mặt trời chưa
mọc đến khi mặt trời sắp lặn” (Ngoài cửa trời chưa sáng) [3]. Vượt qua những khoảng
cách của không gian, con người miền núi tìm mọi cách để gắn kết cộng đồng, âm thanh
quen thuộc của tiếng súng kíp cũng trở thành phương tiện để truyền tin và giao tiếp “Xóm
Mông Sán Cố của Súa có tám nóc nhà. . .muốn gọi được nhau thì phải dùng súng kíp. Bắn
một phát là có một đứa trẻ trai mới ra đời, bắn hai phát là có nhà mất trộm bò, bắn ba phát
có người ốm, bốn phát có đám ma. . . ” [4;27]. Hình thức giao tiếp độc đáo này có lẽ chỉ
có ở vùng cao, nó trở thành nét văn hóa đặc sắc của núi rừng.
2.2. Không gian sinh hoạt với những phong tục, tập quán đậm đà bản sắc
dân tộc
Những truyện ngắn viết về miền núi của Đỗ Bích Thúy thường tập trung phản ánh
cuộc sống của con người ở những bản người Mông, người Tày trên cao nguyên núi đá.
Những câu chuyện về cuộc sống và con người được đặt trong không gian văn hóa với
những phong tục, tập quán đậm đà bản sắc dân tộc – đó là không gian của văn hóa tâm
linh, văn hóa phong tục, tập quán, văn hóa sinh hoạt với những nét đặc sắc riêng biệt.
Nét đẹp của văn hóa tâm linh: tục cúng thần chủ quản mong muốn xua đi mọi điều
không tốt, mong năm mới những điều tốt lành sẽ đến (Tráng A Khành). Đó là phong tục
được người dân miền núi thực hiện một cách thành kính, thiêng liêng, không đơn giản chỉ
51
Bế Thị Thu Huyền
là thói quen lâu đời mà qua phong tục còn thể hiện quan niệm sống và gửi gắm tình cảm
của con người. Người miền núi dù nghèo khó đến mấy họ cũng luôn nhớ ơn Tổ tiên. Tục
chôn nhau đứa bé trai mới sinh vào cái lỗ ở chân cột giữa nhà với mong muốn sau này đứa
trai Mông lớn lên khỏe mạnh trở thành cây cột chống cho cái nhà, thành trụ cột của gia
đình giữ cho ngôi nhà người Mông luôn chắc chắn (Lặng yên dưới vực sâu). Bên cạnh đó,
những phong tục từ lâu đời vừa mang nét đặc trưng văn hóa của đồng bào miền núi vừa
thể hiện cách sống, cách nghĩ riêng của họ: tục thách cưới, tục cướp vợ. . . cũng được thể
hiện trong các truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy một cách hết sức tự nhiên và đặc sắc.
Thông qua các không gian đặc trưng, Đỗ Bích Thúy dẫn người đọc bước vào thế
giới đầy màu sắc của văn hóa vùng cao. Đọc truyện ngắn của chị, người đọc không thể nào
quên những khoảng không gian hết sức đặc biệt: ngôi nhà, lễ hội, phiên chợ vùng cao. . .
làm nền cảnh cho những câu chuyện về con người và cuộc sống được kể, được tả một cách
say sưa, thấm thía. Không gian ngôi nhà được miêu tả tập trung qua những khoảng không
gian nhỏ: bàn thờ, nơi tiếp khách, gian bếp, cái ngưỡng cửa cao với chín bậc cầu thang
trong ngôi nhà sàn người Tày, cái ô cửa nhỏ và hàng rào đá ở ngôi nhà người Mông. . .
Không gian của nơi thờ cúng và tiếp khách thường gắn liền với hình ảnh người đàn ông
trụ cột trong các gia đình miền núi, nơi thực hành những nghi lễ thiêng liêng, nơi gắn với
những sinh hoạt chung của cả gia đình được người miền núi rất coi trọng. Căn bếp lại là
nơi gắn liền với sự hiện diện của người đàn bà, gian bếp tuy không phải là không gian
chính của ngôi nhà nhưng lại là nơi thể hiện bức tranh phong tục đặc sắc của người miền
núi. Bếp là nơi có con ma bếp cai quản việc sinh đẻ của đàn bà và phù trợ cho việc chăn
nuôi gia súc. Cô dâu mới về nhà chồng đều được mẹ chồng đưa xuống để nhận mặt, và
từ đó, cuộc đời của họ, giàu hay nghèo, sướng hay khổ đều gắn liền với gian bếp ấy, với
những chảo cám lợn, những nồi mèn mén, những nồi rượu ngô, những nồi bánh gù, bánh
khảo hay xâu thịt bò khô cho chồng uống rượu. . . Người miền núi coi trọng sự đảm đang,
khéo léo của người phụ nữ, nên “người già chọn con dâu, chỉ cần nhìn cách chụm lửa,
cách vun bếp là đủ biết có khéo, có đảm hay không”. Cái ngưỡng cửa cao ở ngôi nhà sàn
người Tày, nơi chín bậc cầu thang là nơi thân thương gắn bó với con người, là cái nhắc
nhớ con người ta dù có đi đến nơi đâu cũng luôn nhớ về gia đình, nguồn cội (Ngải đắng
ở trên núi) [3]. Bờ rào đá cao bao quanh nhà của người Mông là nơi hò hẹn tình yêu đôi
lứa. Tiếng đàn môi réo rắt, thiết tha của người trai nào như vượt qua cả bờ rào đá, rộn rã
bước chân của những cô gái khẽ khàng mặc váy áo đẹp, vấn khăn, đẩy cửa bước ra khỏi
bờ rào đá trong đêm trăng hò hẹn là những bức tranh đậm chất lãng mạn, trữ tình của đời
sống vùng cao. Bờ rào đá và ánh trăng kia như những chứng nhân cho tình yêu đôi lứa, là
biểu tượng cho khát vọng tình yêu mãnh liệt, khát vọng sống tiềm tàng mà mạnh mẽ, đậm
chất nhân văn, nhân bản.
Không gian lễ hội, chợ phiên cũng xuất hiện thường xuyên trong các tác phẩm của
Đỗ Bích Thúy, góp phần thể hiện những nét đặc trưng nổi bật của phong tục tập quán vùng
núi cao. Lễ hội Lồng Tồng của người Tày được miêu tả như một phong tục đẹp, là dịp để
mọi người vui chơi, hội bản này nối sang bản khác kéo dài suốt cả tháng giêng (Ngải đắng
ở trên núi), với hình ảnh những người con trai, con gái mặc những bộ quần áo đẹp nhất
“má đứa nào cũng như hoa đào, miệng đứa nào cũng như quả hồng chín” (Mặt trời lên
52
Bản sắc văn hóa vùng cao Hà Giang trong một số truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy
quả còn rơi xuống) [3]. Lễ hội còn là không gian giao duyên (Đá cuội đỏ) [3], là nơi khởi
đầu cho những tình yêu đôi lứa. Không gian của các phiên chợ vùng cao hiện lên vô cùng
đặc sắc qua ngòi bút miêu tả tài tình và tinh tế của Đỗ Bích Thúy. Phiên chợ là nơi trao
đổi, buôn bán, là nơi thể hiện đầy đủ nhất, phong phú nhất những nét đặc sắc của văn hóa
vùng núi. Phiên chợ là nơi gắn liền với hoạt động sinh hoạt cộng đồng nhưng đồng thời
cũng chính là không gian riêng tư của con người miền núi, nơi họ có thể tự do sống cho
bản thân mình và sống thật với lòng mình nhất. Phiên chợ miền núi thể hiện rõ một quan
niệm sống đậm chất nhân văn “cả năm cúi mặt ngoài nương, cúi mặt vì hạt ngô, hạt đậu,
về nhà cúi mặt vì có con lợn, con gà, mãi mới có lúc được thảnh thơi”. Bởi vậy, khi xuống
chợ phiên, con người ta như được giải phóng, được cởi bỏ tất cả mọi gánh nặng của bổn
phận và công việc, người ta được sống thoải mái và phóng túng nhất. Ở phiên chợ hai bảy
của người Mông “người bán người mua uống cùng nhau. . .Đàn ông quên dao, quên nỏ,
đàn bà quên chảo cám, quên cái đũa cả, chẳng ai chê cười” (Tiếng đàn môi sau bờ rào
đá) [3]. Chợ phiên còn là nơi hò hẹn của những tình duyên lỡ dở, yêu nhau mà không đến
được với nhau. Họ không thể sống với nhau cả cuộc đời nhưng họ lại có thể đến với nhau
trong những ngày chợ phiên mà không bị ai cấm đoán, ngăn cản, phong tục này được cả
cộng đồng chấp nhận như một sự cảm thông, bù đắp cho những người gặp trắc trở trong
tình duyên, đồng thời còn là minh chứng cho tình yêu son sắt bền lâu vượt qua mọi thử
thách của thời gian (Tiếng đàn môi sau bờ rào đá) [3].
Sống trong môi trường thiên niên rộng lớn, hoang vu nơi núi cao, vực thẳm, con
người ta có tâm hồn phóng khoáng, bay bổng với khát vọng tự do mạnh mẽ, song đôi khi
cũng khiến con người ta cô đơn, buồn tủi. Mượn tiếng khèn, tiếng đàn, tiếng hát làm bạn,
con người miền núi có thể bộc bạch đời sống tâm hồn, tình cảm của mình. Hình ảnh người
con trai miền núi luôn gắn liền với âm thanh của tiếng khèn, tiếng sáo, tiếng đàn môi tha
thiết. Có khi đó là là giai điệu trong trẻo của những khúc dân ca thiết tha với quê hương
(Lặng yên dưới vực sâu). Có khi đó là lời tỏ tình sôi nổi, đắm say (Sau những mùa trăng)
[2]. Có khi đó là nỗi niềm xót xa, day dứt của những mối tình dang dở “tiếng sáo mà Súa
nghe đêm nay có mùi của nước mắt đang khô” [4;14]. Có khi đó là nỗi lòng khắc khoải
của sự đợi chờ cả một đời người nhưng vẫn không thôi tha thiết (Tiếng đàn môi sau bờ
rào đá). Người con gái vùng núi cao lại lấy tiếng hát để giãi bày tâm tư, tình cảm của
mình. Đọc truyện ngắn Đỗ Bích Thúy, người đọc được đắm chìm trong những khúc dân
ca Mông. Tiếng hát gắn liền với cuộc đời người Mông ngay từ khi còn là một đứa trẻ. Lời
ca, tiếng hát chứa đựng đủ mọi cung bậc tình cảm, cảm xúc của con người. Có khi đó là
khúc dân ca trong trẻo của buổi yêu đầu còn thẹn thùng, bỡ ngỡ (Con dê bốn mắt). Có
khúc hát là lời thề non hẹn biển của đôi lứa yêu nhau (Mèo đen). Có tiếng hát làm dâu
đau đáu lẫn vào trong gió (Lặng yên dưới vực sâu). Có tiếng hát xót xa đầy day dứt của
đứa em gái nhỏ khi chị không trở về (Khách quý). Có tiếng hát trầm buồn của người bà
thương thân phận cháu gái cút côi (Mẹ kế). . . Qua những phong tục tập quán mà khám
phá chiều sâu văn hóa, chiều sâu tâm hồn con người miền núi, đó là một thành công đặc
sắc của ngòi bút Đỗ Bích Thúy, điều mà không phải một nhà văn người Kinh nào khi viết
về đề tài miền núi cũng có thể làm được.
53
Bế Thị Thu Huyền
2.3. Văn hóa tư duy mang đặc trưng tâm hồn, cốt cách con người miền
núi
Đặc trưng tư duy của người miền núi mang tính trực quan, cụ thể, tư duy mang tính
hình tượng, gắn với nếp cảm, nếp nghĩ mộc mạc, giản đơn. Đó là những cách tính đếm
thời gian rất cụ thể, chân phương “có hôm sương rơi ướt vành khăn mới vào nhà” (Tiếng
đàn môi sau bờ rào đá) [3], “những mùa trăng” (Sau những mùa trăng) [3], “Nhưng hai
người đi chợ, đi luôn không về. Đến hết vụ ngô cũng không thấy về” (Khách quý) [5;27];
“mẹ tôi mất đã ba mùa gieo ngô, thu ngô” (Mẹ kế) [5;9]. Đó là nếp cảm, nếp nghĩ rất thật
lòng, thật bụng “Tại cái đầu ít nghĩ đến nhau thì tự dưng chân cũng mỏi theo thôi mà”
(Ngoài cửa trời chưa sáng) [3]. Đó là cách thể hiện tình cảm rất gần gũi, giản đơn “Nhìn
bà ngoại như nhìn thấy mẹ, chỉ là mẹ già hơn mà thôi. Bà ngoại thì nói, nhìn thấy tôi như
nhìn thấy con gái, chỉ là con gái non hơn mà thôi”, “bà già, bà chết thì lấy ai cho tôi chạy
về ngủ một đêm, ngủ hai đêm, ngủ ba đêm” (Mẹ kế) [5;12].
Tư duy trực quan, cụ thể của người miền núi được thể hiện qua nghệ thuật so sánh
đặc sắc. Vẻ đẹp của người phụ nữ được miêu tả “Mẹ Hoa vẫn đẹp như bông lê đang nở rộ
ngày trời ấm” (Tiếng đàn môi sau bờ rào đá) [3], “đôi bờ vai rất tròn, cái cổ cao mà trắng
như núi đá vỡ” (Sau những mùa trăng) [3], “Tại sao người đàn bà không đẻ được nữa lại
cứ nở ra như một bông hoa chuối đỏ rực, căng mọng thế này” (Gió không ngừng thổi)
[3], “một đứa bé gái xinh như bông tam giác mạch sắp tàn”, “gái mười lăm như quả táo
sắp chín, còn Súa như một bát rượu nếp ủ kĩ, chưa cất thành rượu, từ xa ngửi thấy đã say”
[4;30], “cặp vú vừa căng vừa nóng như nắm xôi nếp còn bốc hơi trong chõ” (Mèo đen)
[5;32]. Hình ảnh bộ váy áo của phụ nữ Mông: khi phơi bên tảng đá nơi bờ suối giống như
bông hoa rực rỡ, khi mặc váy người phụ nữ Mông đẹp lộng lẫy lạ kì “tấm váy dày cộp, sặc
sỡ như cánh một con bướm của Nhí xoay tròn” (Lặng yên dưới vực sâu), “Từ xa vẫn nhìn
thấy tấm váy dày bị gió thổi xèo ra rực rỡ” (Tráng A Khành) [5;47], khi buồn người phụ
nữ Mông cũng được so sánh với “tấm váy ướt sũng” (Tráng A Khành). Cách so sánh rất
gợi hình gợi cảm, từ đặc trưng ngôn ngữ để khắc họa bản sắc tư duy và tâm hồn con người
gắn với những dấu ấn của sắc màu văn hóa, quả thực dễ khiến những trang văn càng trở
nên độc đáo, đặc sắc.
Nghệ thuật so sánh không chỉ góp phần thể hiện sắc màu văn hóa mà còn góp phần
hiệu quả trong việc diễn tả tâm trạng con người, với những cung bậc cảm xúc đa dạng,
phức tạp “lồng ngực Súa đã từng vỡ tan ra như quả lê chín rơi trúng phiến đá”, “như bông
anh túc rực rỡ mà héo úa”, “như quả bông nở bị gió cuốn đi”, “có một sự trống rỗng như
cái chõ gỗ đã vét hết mèn mén” [4], “Kía khô héo đi như một quả đậu giống để trên gác
bếp” (Gió không ngừng thổi) [3]; Ông nội Vừ “thấy đời mình chẳng khác gì cái lưỡi cày,
từ một cục đất sét đen sì thành một cái lưỡi cày, phải nung qua lửa đỏ, rồi đi sau đuôi
con bò rong ruổi hết mảnh nương này tới mảnh nương kia, cả đời làm việc cực nhọc, đến
khi cùn mòn đi, bé tí tẹo thì bị vứt vào góc vườn”; “Vừ thấy mình như cái cặp bếp, bị
một người đàn bà vụng về sau khi gắp than trong bếp lửa quên không vùi vào tro nên mỗi
ngày một tí, cháy nham nhở, đen nhẻm”. Cách so sánh đặc sắc, tâm trạng con người được
so sánh với những sự vật bé nhỏ, thân thuộc, gần gũi với cuộc sống thường ngày của con
54
Bản sắc văn hóa vùng cao Hà Giang trong một số truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy
người miền núi, vì thế những cảm xúc, tâm tư cũng trở nên hữu hình, cụ thể, giúp người
đọc hiểu sâu sắc và thấm thía đời sống tâm hồn thuần hậu, mộc mạc của con người miền
núi.
3. Kết luận
Đỗ Bích Thúy đặc biệt tinh tế và tài tình trong việc phác họa những bức tranh đặc
sắc về văn hóa vùng cao qua những truyện ngắn của mình. Như một lẽ tự nhiên, những
sắc màu văn hóa của vùng cao nguyên núi đá trở thành bản sắc khó phai, thành dấu ấn
đậm nét trong các tác phẩm viết về miền núi của chị. Bởi yêu và hiểu đến tận cùng vẻ đẹp
của văn hóa vùng cao, vẻ đẹp của tâm hồn con người vùng sơn cước, những trang viết của
chị trở nên vô cùng hồn hậu, thuần phác và được độc giả đón nhận đầy trân trọng. Xin
mượn lời tâm sự của Đỗ Bích Thúy để hiểu hơn về tình cảm sâu sắc mà chị đã dành trọn
cho vùng đất – miền văn hóa của mình: “Mỗi nhà văn thường có một vùng đất, đó là nơi
họ thấu hiểu nhất, dành nhiều tình cảm và tâm trí nhất, và khi đã sống đến tận cùng vùng
đất của mình thì rất có thể chính vùng đất đó, đề tài đó đã chọn nhà văn chứ không phải
ngược lại. Và núi rừng là vùng đất của tôi, tôi hiểu những gì đã viết ra đến tận cùng” [1].
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Hà Duyên, 2005. Đỗ Bích Thúy: Những gì không biết tường tận tôi sẽ không bao giờ
viết. Tạp chí Truyền hình Hà Nội.
[2] Đỗ Bích Thúy, 2001. Sau những mùa trăng. Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
[3] Đỗ Bích Thúy, 2006. Tiếng đàn môi sau bờ rào đá. Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
[4] Đỗ Bích Thúy, 2008. Người đàn bà miền núi. Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
[5] Đỗ Bích Thúy, 2013. Đàn bà đẹp. Nxb Văn học, Hà Nội.
ABSTRACT
Ha Giang cultural and ethnic identity shown in short stories written by Bich Thuy Do
Bich Thuy Do is the writer of short stories about mountainous area set in the Ha
Giang Stone Plateau mountainous area. Aspects of mountainous area culture are shown
in the natural pictures of the forest, everyday life with traditional customs and the mental
world, all of which is very complex.
55