Báo cáo Cáo tật thị chúng (Mãn Giác thiền sư)

CÁO TẬT THỊ CHÚNG (Mãn Giác Thiền Sư) 1. Tác giả: - Mãn Giác thiền sư tên thật là Lí Trường, sinh năm 1052, mất năm 1096. - Nổi tiếng học rộng biết nhiều, tinh thông Nho, Phật đạo. - Nhà sư vừa hâm mộ Phật giáo, nổi tiếng về Thiền học, có xu hướng xuất thế, lại vừa tích cực nhập thế, giúp nhà vua trong việc triều chính. Rất được triều đình của vua Lí Nhân Tông coi trọng. - Sự nghiệp: nhà sư để lại bài thơ Cáo tật thị chúng rất nổi tiếng. Sách Thiền uyển tập anh còn ghi lại về cuộc đời của Mãn Giác thiền sư cùng với tài năng, đức độ của ông như sau: “Sư có tiếng là người học rộng nhớ nhiều, thông cả Nho học và Phật học, được tiếng tuyển vào cung. Mỗi khi làm việc công xong về nhà, sư chỉ nghĩ đến học phép thiền định. (.) Sau khi đã được tâm ấn của thiền sư Quảng Trí, sư bèn đeo bầu chống gậy đi vân du mọi nơi để tìm bạn đạo. Sư đến đâu cũng có rất nhiều người theo học. Sư nghiên cứu kinh Tam tạng được cái trí tuệ vô thượng và trở nên một vị lãnh tụ của pháp môn đời bấy giờ. Khi ấy vua và Cảm Linh Nhân hoàng hậu đang lưu tâm về thiền học, bèn sai làm một ngôi chùa ở bên cạnh cung Cảnh Hưng mời sư đến để tiện hỏi han về đạo.”

docx11 trang | Chia sẻ: nguyenlinh90 | Lượt xem: 711 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo Cáo tật thị chúng (Mãn Giác thiền sư), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHÓM 1: 1. Đồng Thị Huyền Trân 2. Lê Thị Ngọc Trân 3. Trương Mỷ Huyền 4. Thái Kim Ngân 5. Dương Ngọc Đại CÁO TẬT THỊ CHÚNG (Mãn Giác Thiền Sư) Tác giả: Mãn Giác thiền sư tên thật là Lí Trường, sinh năm 1052, mất năm 1096. Nổi tiếng học rộng biết nhiều, tinh thông Nho, Phật đạo. Nhà sư vừa hâm mộ Phật giáo, nổi tiếng về Thiền học, có xu hướng xuất thế, lại vừa tích cực nhập thế, giúp nhà vua trong việc triều chính. Rất được triều đình của vua Lí Nhân Tông coi trọng. Sự nghiệp: nhà sư để lại bài thơ Cáo tật thị chúng rất nổi tiếng. Sách Thiền uyển tập anh còn ghi lại về cuộc đời của Mãn Giác thiền sư cùng với tài năng, đức độ của ông như sau:        “Sư có tiếng là người học rộng nhớ nhiều, thông cả Nho học và Phật học, được tiếng tuyển vào cung. Mỗi khi làm việc công xong về nhà, sư chỉ nghĩ đến học phép thiền định. (...) Sau khi đã được tâm ấn của thiền sư Quảng Trí, sư bèn đeo bầu chống gậy đi vân du mọi nơi để tìm bạn đạo. Sư đến đâu cũng có rất nhiều người theo học. Sư nghiên cứu kinh Tam tạng được cái trí tuệ vô thượng và trở nên một vị lãnh tụ của pháp môn đời bấy giờ. Khi ấy vua và Cảm Linh Nhân hoàng hậu đang lưu tâm về thiền học, bèn sai làm một ngôi chùa ở bên cạnh cung Cảnh Hưng mời sư đến để tiện hỏi han về đạo.” Tác phẩm: Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được sáng tác vào cuối 1096 khi thiền sư lâm bệnh, trăng trối với đệ tử bằng bài kệ này. Bài kệ là chiêm nghiệm sâu sắc của Mãn Giác thiền sư, được ông ngộ ra vào những giây phút cuối cùng của cuộc đời nên vô cùng thấm thía, có sức lay động. Xuất xứ: từ sách Thiền uyển tập anh (Chọn lọc những bậc anh tú trong vườn thiền) có vị trí rất quan trọng. Một trong số không nhiều những di sản của văn học nước ta thời kì đầu còn lưu giữ lại được. Sách bao gồm nhiều tiểu truyện về các thiền sư khác nhau.  Hình thức thể loại: CTTC là bài thơ dưới hình thức kệ. (Lưu ý: kệ không phải một thể loại văn học, không phải là thơ.) Kệ là thể văn Phật giáo, dùng để truyền bá giáo lý Phật pháp, được viết bằng văn vần. Nhiều bài kệ có giá trị văn chương như các bài thơ. Kệ tóm tắt giáo lí đạo Phật hoặc truyền đạt những thể nghiệm tâm đắc của các nhà sư. Chỉ những bài kệ dùng hình ảnh sinh động, giàu ý nghĩa, có phẩm chất văn học mới gọi là thơ kệ. (Thể văn Phật giáo gồm 2 thể loại con: Kệ (17 trang) và Thiền sư Việt Nam (4 trang – sư đệ vấn đáp)). 2.1. Nguyên tác: 告疾示眾  春去百花落, 春到百花開。 事逐眼前過, 老從頭上來。 莫謂春殘花落盡, 庭前昨夜一枝梅。 (1096) 2.2. Phiên âm Hán - Việt: Cáo tật thị chúng Xuân khứ bách hoa lạc, Xuân đáo bách hoa khai. Sự trục nhãn tiền quá, Lão tòng đầu thượng lai. Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, Đình tiền tạc dạ nhất chi mai. 2.3. Dịch nghĩa: Cáo bệnh bảo mọi người Xuân đi qua, trăm hoa rụng, Xuân đến, trăm hoa nở. Chuyện đời xô đuổi nhau ruổi qua trước mắt, Tuổi già đến (với con người) từ (mái tóc bạc) trên đầu. Chớ nên nói rằng xuân tàn thì hoa rụng hết, Đêm hôm qua, trước sân có một nhành mai (nở hoa). 2.4. Dịch thơ của Ngô Tất Tố: Xuân ruổi trăm hoa rụng, Xuân tới, trăm hoa cười. Trước mắt việc đi mãi, Trên đầu già đến rồi. Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết, Đêm qua, sân trước một nhành mai. Chú thích từ: 告 cáo (bộ khẩu): bảo, nói cho biết. 疾 tật (bộ nạch hay tật): bệnh, ốm. 示 thị (bộ thị hay kỳ): bảo cho biết. 眾 chúng (bộ mục): mọi người. 示 眾 thị chúng: trình bày những ý nghĩ, suy nghĩ của mình cho mọi người được biết. F Cáo bệnh bảo mọi người. 春 xuân (bộ nhật): mùa xuân. 去 khứ (bộ tư hay khư): đi. 百 bách (bộ bạch): trăm. 花 hoa (bộ thảo): hoa. 落 lạc (bộ thảo): rụng, rơi xuống. F Xuân đi qua, trăm hoa rụng. 到 đáo (bộ đao): đến. 開 khai (bộ môn): nở ra, mở ra. F Xuân đến, trăm hoa nở. 事 sự (bộ quyết): thế sự, việc đời, công việc. 逐 trục (bộ xước): đuổi theo, nối tiếp nhau trôi qua rất nhanh như đuổi theo nhau. 眼 nhãn (bộ mục): mắt. 前 tiền (bộ đao): trước. 過 quá (bộ xước): qua, quá. 眼 前 過 nhãn tiền quá: vượt qua, trôi qua, ruổi qua trước mắt. F Chuyện đời xô đuổi nhau ruổi qua trước mắt. 老 lão (bộ lão): người già, tuổi già. 從 tòng (bộ xích): đi theo, nghe theo. 頭 đầu (bộ hiệt): đầu, tóc. 上 thượng (bộ nhất): trên. 來 lai (bộ nhân): đến. F Tuổi già đến (với con người) từ (mái tóc bạc) trên đầu. 莫 mạc (bộ thảo): chớ, đừng (phó từ). 謂 vị (bộ ngôn): nói, bảo cho biết. 殘 tàn (bộ đãi): tàn. 盡 tận (bộ mãnh): hết, không còn gì nữa. F Chớ nên nói rằng xuân tàn thì hoa rụng hết. 庭 đình (bộ nghiễm): sân. 庭 前 đình tiền: trước sân. 昨 tạc (bộ nhật): hôm qua. 夜 dạ (bộ tịch): đêm, ban đêm. 昨 夜 tạc dạ: đêm qua. 一 nhất (bộ nhất): một. 枝 chi (bộ mộc): cành, nhánh cây. 梅 mai (bộ mộc): cây mai. 一 枝 梅 nhất chi mai: một nhành mai. F Đêm hôm qua, trước sân có một nhành mai (nở hoa). Minh giải văn bản: Tựa đề: bài thơ vốn không có tựa đề, bốn chữ “Cáo tật thị chúng” là do Lê Quý Đôn đặt cho bài thơ. Tựa đề “Cáo tật thị chúng” là trình bày những suy nghĩ, tâm tư của thiền sư khi ông đang bệnh nặng cho mọi người biết. Đó là những suy nghĩ, trải nghiệm về cuộc đời và tinh thần lạc quan trong cuộc sống, cùng triết lý Phật giáo sâu sắc mà ông muốn gửi gấm đến mọi người. Nội dung: Bài thơ “Cáo tật thị chúng” đã nói lên quy luật của sự sống thiên nhiên, biểu lộ tâm sự của nhà sư trước quy luật sinh tử ở cõi nhân gian, cái tịch diệt và cái vĩnh hằng trong vũ trụ. “Cáo tật thị chúng” chắc chắn không chỉ nằm ở nội dung truyền giảng giáo lí đạo Phật mà còn là những tầng ý nghĩa triết lý sâu sắc về cuộc đời mà thiền sư muốn gửi gấm. Bài thơ được chia thành hai phần: bốn câu đầu là cảm nhận về những hiện tượng, quy luật diễn ra trong tự nhiên và xã hội, của tạo vật và của kiếp người mà tác giả đã quan sát và trải nghiệm; hai câu cuối là triết lí Phật pháp cùng quan niệm nhân sinh qua hình ảnh ẩn dụ, có tính chất khuyên răn. Bốn câu thơ đầu man mác một nỗi bâng khuâng. Nỗi bâng khuâng ấy xuất phát từ những chiêm nghiệm của thiền sư về nhân thế. Bốn câu thơ được triển khai thành hai vế có quan hệ so sánh, so sánh thiên nhiên tạo vật và cuộc đời con người. Thiền sư đã cảm nhận về thiên nhiên: 春去百花落, 春到百花開。 (Xuân đi qua, trăm hoa rụng, Xuân đến, trăm hoa nở.) Xuân đến, trăm hoa nở tạo nên cảnh sắc rực rỡ, huy hoàng của năm mới. Rồi mùa xuân qua đi, những cánh hoa lại rụng, để lại trong lòng người bao nỗi tiếc nuối. Hai câu thơ mang màu sắc triết lí khái quát quy luật tồn tại của thiên và sự vận động của thời gian mùa xuân cũng như sự sống của thiên nhiên chuyển biến bất tận: “xuân qua” rồi “xuân tới”, “hoa nở” rồi “ hoa tàn”... Mùa xuân là vĩnh hằng. Cỏ cây trăm hoa cũng như là vạn vật, con người đều chịu sự chi phối theo quy luật khắc nghiệt của tự nhiên. Tác giả miêu tả theo trình tự đảo ngược: Xuân qua - xuân tới nhằm nhấn mạnh sự tuần hoàn, chu kì lặp lại của tự nhiên. Tạo vật đổi thay, vận động theo chu kì lặp lại, không bao giờ ngừng nghỉ. Như vậy, hai câu thơ đầu nói lên vòng tuần hoàn của tự nhiên, vạn vật theo một quy luật đã định sẵn và không thể thay đổi. Cấu trúc đối xứng, nhịp thơ 2/3 đều đặn diễn tả chính xác vòng quay của tự nhiên. Thiền sư tiếp tục chiêm nghiệm về cuộc đời, thế sự: 事逐眼前過, 老從頭上來。 (Chuyện đời xô đuổi nhau ruổi qua trước mắt, Tuổi già đến (với con người) từ (mái tóc bạc) trên đầu.) Những công việc bộn bề nối tiếp làm cho con người quên đi rằng thời gian đang chảy trôi rất nhanh. Dòng chảy ấy có lẽ sẽ không bao giờ ngừng lại nếu như không có một tín hiệu bất ngờ đến: màu tóc bạc. Tóc bạc báo hiệu tuổi già. Đến lúc này, con người mới thảng thốt nhận ra thanh xuân không còn, đời người đã trôi đi quá nửa. Ta thấy thiên nhiên và kiếp người đều chảy trôi theo quy luật từ nảy sinh đến tàn lụi. Nhờ phép đảo ngược ở hai câu đầu mà ta có thể nhận thấy đời người không chắc đã luân hồi như tự nhiên, vạn vật. Vòng quay thiên nhiên còn trở lại theo chu kì của nó, còn đời người dường như chỉ có chiều lụi tàn, phôi pha. Sau cái già kia sẽ là cái chết. Mà mấy ai nhìn thấy được, phía sau cái chết có hiện hữu kiếp sống mới hay không. Tác giả thể hiện sự bâng khuâng và có chút xót xa. Bài kệ được khép lại với hai câu tuyệt cú xưa nay được truyền tụng như một vần thơ đẹp trong bài cổ thi. Đó là triết lí Phật pháp cùng quan niệm nhân sinh: 莫謂春殘花落盡, 庭前昨夜一枝梅。 (Chớ nên nói rằng xuân tàn thì hoa rụng hết, Đêm hôm qua, trước sân có một nhành mai (nở hoa).) Nhành mai tượng trưng cho vẻ đẹp tinh khiết, thanh cao lộng lẫy của thiên nhiên và con người. Thiền sư dùng hình ảnh nhành mai để thể hiện triết lý Phật giáo. Đó là hình ảnh của bản thể trường tồn, bất biến. Phật giáo quan niệm người tu thành chính quả chân thân sẽ bất biến, trường tồn, trở nên vĩnh hằng. Cuộc đời có sinh, trưởng, lão, bệnh, tử nhưng nhà tu hành chân chính có thể đắc đạo vượt qua khỏi quy luật sinh tử đó như cành mai nở buổi xuân tàn. Ông muốn thể hiện một triết lí nhân sinh: niềm lạc quan vào sự hồi sinh tươi trẻ của cuộc đời, niềm tin trong trẻo về sự sống cùng sự cứng cỏi của con người trong thử thách. Với ông thì thiên nhiên hữu sắc hữu hương, tràn đầy sức sống tươi mát trẻ trung, cuộc sống không ngừng vươn lên mạnh mẽ theo dòng chảy của thời gian. Bài kệ “Cáo tật thị chúng” thể hiện một cốt cách, một quan niệm sống đẹp, những trải nghiệm của vị thiền sư đức trọng tài cao về cuộc đời, về thế sự cùng triết lý nhân sinh cao đẹp và tư tưởng Phật giáo hòa quyện với chất thơ giàu cảm xúc. Nghệ thuật: Xuân khứ bách hoa lạc, B T T B T Xuân đáo bách hoa khai. B T T B B Sự trục nhãn tiền quá, T T T B T Lão tòng đầu thượng lai. T B B T B Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, T T B B B T T Đình tiền tạc dạ nhất chi mai. B B T T T B B Bài kệ được viết theo thể thơ cổ phong (ngũ ngôn cổ thi). Luật trắc “khứ”, vần bằng. Vần: Gieo vần bằng: “khai”. Gieo vần “ai” (khai – lai – mai) => vần cách. Niêm: Câu 2 và 3 niêm với nhau “đáo” - “trục” cùng thanh bằng. Câu 1 và 4 không niêm “khứ” (trắc) – “tòng” (bằng) khác thanh. Đối: Đối thanh: Câu 3 đối thanh với câu 4: “trục” (trắc) >< “tòng” (bằng). “tiền” (bằng) >< “thượng” (trắc). Câu 5 đối thanh với câu 6: “vị” (trắc) >< “tiền” (bằng). “tàn” (bằng) >< “dạ” (trắc). “lạc” (trắc) >< “chi” (bằng). Đối ý: Câu 1 và 2 được triển khai theo hướng tương phản, ý của hai câu đối lập nhau, góp phần làm nổi bật ý nghĩa của từng câu và của bài thơ. Ta thấy: “xuân khứ” (xuân đi) >< “hoa khai” (hoa nở) cho thấy hai ý hoàn toàn đối lập thể hiện vòng tuần hoàn của thời gian và thiên nhiên tạo hóa. Câu 3 và 4 được triển khai theo hướng tương thành, ý của hai câu bổ sung nâng đỡ cho nhau góp phần làm nổi bất hàm ý của câu và góp phần làm rõ thêm nghĩa của bài thơ, công việc thế sự càng trôi qua thì tóc trên mái đầu càng bạc, báo hiệu tuổi già và sự trôi chảy nhanh chóng của thời gian cùng sự vận động không ngừng của thế sự. Câu 5 và 6 được triển khai theo hướng tương phản, ý của hai câu đối lập nhau, góp phần làm nổi bật ý nghĩa của từng câu và của bài thơ. Ta thấy: “hoa lạc tận” (hoa rụng hết) >< “nhất chi mai” (một nhành mai nở hoa) cho thấy hai ý hoàn toàn đối lập thể hiện triết lý nhân sinh cùng tinh thần lạc quan đối với cuộc đời của tác giả. Đối từ loại: Câu 1 và 2: Danh từ: “xuân” >< “hoa”. Động từ: “khứ” >< “khai”. Lượng từ: “bách” >< “bách”. Câu 3 và 4: Danh từ: “lão” >< “nhãn”. Động từ: “trục” >< “quá”. Tính từ: “thượng” >< “tiền”. Một số biện pháp nghệ thuật khác: Lập từ “xuân”, “bách”, “hoa” làm nổi bật ý mà tác giả muốn thể hiện về vòng tuần hoàn của thời gian và thiên nhiên biến đổi không ngừng nghỉ. Dùng những từ, cụm từ đối nhau “khứ” >< “nhất chi mai”, nhấn mạnh ý mà tác giả muốn nói, tạo điểm nhấn. Miêu tả theo trình tự đảo ngược: “xuân khứ” – “xuân đáo”, “hoa lạc” – “hoa khai” nhằm nhấn mạnh sự tuần hoàn, chu kì lặp lại của tự nhiên (mang ý nghĩa về niềm tin và sự lạc quan). Câu 1 và 2 sử dụng cấu trúc đối xứng, nhịp thơ 2/3 đều đặn diễn tả chính xác vòng quay của tự nhiên. Câu 3 và 4 cặp câu thơ vẫn duy trì nhịp điệu đều đặn, cấu trúc đối xứng. Đặc biệt khi đọc lên ta nhận thấy có điểm đáng lưu ý trong thanh điệu:               Câu 3: 4/5 chữ thanh trắc, kết thúc bằng thanh trắc => xót xa.                Câu 4: 3/5 chữ thanh bằng, kết thúc thanh bằng => ngậm ngùi. Sử dụng hình ảnh “nhất chi mai”: Đó chính là hình ảnh của những người tu hành đắc đạo. Đảo ngữ: nhấn mạnh sự xuất hiện, hiện diện bất ngờ, lặng lẽ, điềm nhiên, tự nhiên của nhành mai => Đạo Phật huyền diệu. Không có động từ, chỉ có cụm danh từ “nhất chi mai” => sự hiện diện như là tất nhiên, tất yếu, như đã tự nghìn năm => sự trường tồn. Thể thơ 5 chữ đến 7 chữ: diễn tả sự thay đổi trong nhận thức, đánh dấu điểm ngoặt trong tư duy. Thể thơ 7 chữ đột ngột thay cho các câu thơ 5 chữ còn làm hơi thơ giãn ra, như một thoáng nhận thức bình tĩnh, một hơi thở nhẹ nhõm, tràn hạnh phúc. Tác giả vẫn duy trì sự đều đặn của nhịp thơ giữa câu trên và câu dưới để gợi đến tâm thế tự tại của con người. So sánh bản dịch thơ của Ngô Tất Tố với nguyên tác: Về hình thức: cả nguyên tác và bản dịch thơ đều giống nhau về hình thức (số câu, số chữ). Về nội dung: Câu thứ nhất: nguyên tác là “Xuân khứ bách hoa lạc” (xuân qua, trăm hoa rụng), bản dịch thơ dịch (Xuân ruổi trăm hoa rụng), từ “ruổi” chưa làm rõ nghĩa, mơ hồ so với nguyên tác “khứ”. Câu thứ 2: nguyên tác “Xuân đáo bách hoa khai” (xuân đến, trăm hoa nở), bản dịch thơ dịch (Xuân tới, trăm hoa cười), từ “khai” (nở, mở) được Ngô Tất Tố dịch thành “cười”, bản dịch còn khác nghĩa so với nguyên tác. Câu thứ 3: nguyên tác “Sự trục nhãn tiền quá” (Chuyện đời xô đuổi nhau ruổi qua trước mắt), bản dịch thơ (Trước mắt việc đi mãi), bản dịch chưa sát nghĩa và chưa thể hiện được sự trôi chảy, tiếp diễn, phức tạp của thế sự trong cuộc sống như nguyên tác muốn thể hiện. Câu thứ 4: nguyên tác “Lão tòng đầu thượng lai” (Tuổi già đến (với con người) từ (mái tóc bạc) trên đầu), bản dịch (Trên đầu già đến rồi) bản dịch là tương đối sát nghĩa và thể hiện được ý của nguyên tác. Câu thứ 5: nguyên tác “Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận” (Chớ nên nói rằng xuân tàn thì hoa rụng hết), bản dịch thơ (Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết), bản dịch là tương đối sát nghĩa và thể hiện được ý của nguyên tác. Câu thứ 6: nguyên tác “Đình tiền tạc dạ nhất chi mai” (Đêm hôm qua, trước sân có một nhành mai (nở hoa)), bản dịch thơ (Đêm qua, sân trước một nhành mai), bản dịch thơ chưa thể hiện hết ý của nguyên tác mà tác giả muốn nói tới và có phần chưa suông. Liên hệ - mở rộng: Trong thơ ca, cảm xúc này cũng được nói tới hơn một lần: có người ví thời gian như bóng câu qua cửa sổ để rồi bỗng hẫng hụt khi tháng ngày trôi đi quá nhanh. Nguyễn Trãi thì sáng tạo ra một hình ảnh độc đáo để chuyển tải cảm giác âu lo: Tiếc xuân cầm đuốc mảng chơi đêm Những lệ xuân qua tuổi tác thêm Thời gian cứ như một nỗi ám ảnh bám riết với thi nhân. Đi xa hơn tới thời hiện đại, ta cũng thấy xuất hiện cảm giác tương tự. Trong Vội vàng – Xuân Diệu: Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại. Hình ảnh nhành mai: Người xưa xem hoa mai là biểu tượng của người quân tử. Nguyễn Du nói “mai cốt cách” là đề cao sự sang trọng, thanh cao của loài hoa. Những cành mai tuy khẳng khiu nhưng không dao động trước gió, hoa mỏng manh mà sáng bừng một sắc vàng kiêu hãnh. Lại là loài hoa nở trước nhất các loài hoa, phải chống chọi với cái rét mùa đông để trổ hoa, trở thành sứ giả báo tin xuân, cho nên, hoa mai được người xưa rất coi trọng. So sánh hình ảnh nhành mai được các tác giả sử dụng: So sánh 1: hai câu thơ trong bài Tảo mai của nhà thơ Tề Kỉ đời Đường: “Tiền thôn thâm tuyết lí, Tạc dạ nhất chi khai”. (Thôn trước trong tuyết âm u, Đêm qua một nhành mai nở) CTTC ko dùng cụm chủ vị để kết thúc mà dùng cụm danh từ.  So sánh 2: hai câu thơ trong bài Mai hoa của Uông Trung: “Cố viên hoa lạc tận Giang thượng nhất chi khai” (Vườn xưa hoa rụng hết Trên sông một nhành mai nở) Giống: sự đối lập giữa “một nhành mai nở” và cảnh “hoa rụng hết”. Khác: Tác giả Uông Trung nhấn mạnh sự khác biệt về thời tiết để thể hiện nỗi nhớ quê da diết. Ông quê ở miền Bắc nhưng lại làm quan ở Giang Tô. Khi Giang Tô đã tàn xuân thì ở phía Bắc quê hương ông, mai mới bắt đầu nở báo tin xuân. Dường như ý nghĩa triết lí của CTTC cao hơn một bậc. So sánh 3: bài Thướng sơn (Lên núi) của Hồ Chủ tịch viết năm 1942: “Cử đầu hồng nhật cận,   Đối ngạn nhất chi mai”. (Ngẩng đầu mặt trời đỏ, Bên suối một nhành mai)  => Hình ảnh nhành mai được đặt trong thế đối xứng với mặt trời đỏ cao xa, huy hoàng, ngạo nghễ => Toát lên vẻ cứng cỏi khác thường. => Khí chất người quân tử => Phù hợp với tứ thơ đăng cao.
Tài liệu liên quan