Báo cáo này là một phần kết quảtrong khuôn khổhoạt động của Thỏa
thuận hỗtrợnhỏcủa FAO cho Viện Tưvấn phát triển kinh tế- xã hội nông thôn
và miền núi (CISDOMA) đểnghiên cứu xây dựng Phương pháp quản lý rừng bền
vững đáp ứng mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường. Báo cáo cung cấp đầu vào
cho quá trình xây dựng Phương pháp này.
21 trang |
Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 1353 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo chính thực hiện quản lý rừng bền vững ởViệt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Viện tư vấn phát triển KT-XH nông thôn và miền núi
----------------------
DỰ ÁN XÂY DỰNG PHƯƠNG PHÁP
LẬP KẾ HOẠCH QUẢN LÝ RỪNG BỀN VỮNG
SẢN PHẨM 2
BÁO CÁO CHÍNH
THỰC HIỆN QUẢN LÝ RỪNG BỀN VỮNG
Ở VIỆT NAM
Hà nội, 4/2009
2
MỤC LỤC
Tóm tắt 3
Giới thiệu 3
1. Nhận thức về quản lý rừng bền vững. 5
2. Các chính sách liên quan đến quản lý rừng bền vững. 6
3. Những tồn tại của các chính sách hiện nay. 7
4. Kết quả hoạt động quản lý rừng bền vững.. 8
4.1. Ơ cấp Trung ương 8
4.2. Ở cấp đại phương. 11
5. Những khó khăn trở ngại khi thực hiện quản lý rừng bền vững. 12
6. Bài học kinh nghiêm... 13
7. Một số kiến nghị.. 14
8. Viến cảnh. 17
Phụ biểu 1. Các chính sách và hướng dẫn kỹ thuật liên quan đến quản lý
rừng bền vững
19
3
BÁO CÁO
THỰC HIỆN QUẢN LÝ RỪNG BỀN VỮNG
Ở VIỆT NAM
Tóm tắt
Báo cáo này là một phần kết quả trong khuôn khổ hoạt động của Thỏa
thuận hỗ trợ nhỏ của FAO cho Viện Tư vấn phát triển kinh tế - xã hội nông thôn
và miền núi (CISDOMA) để nghiên cứu xây dựng Phương pháp quản lý rừng bền
vững đáp ứng mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường. Báo cáo cung cấp đầu vào
cho quá trình xây dựng Phương pháp này.
Trong quá trình phát triển lâm nghiệp, quan niệm “Quản lý rừng bền vững”
ở Việt nam mới được hình thành từ những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ 20.
Từ đó đến nay, vấn đề quản lý rừng bền vững luôn là một yếu tố chủ chốt trong
các chính sách, chiến lược và kế hoạch hành động của Việt nam. Mặt khác, việc
chuyển đổi từ quản lý rừng truyền thống sang quản lý rừng bền vững hiện nay
đang được thúc đẩy bởi một công cụ thị trường là “Chứng chỉ rừng”. Tại một vài
địa phuwong đang được thí điểm cấp chứng chỉ cho một số chủ rừng. Kết quả thực
hiện quản lý rừng bền vững ở Việt nam được mô tả một cách có hệ thống; trong
đó phân tích những điểm mạnh, điểm yếu của các chính sách; những khó khăn trở
ngại và bài học được rút ra trong quá trình thực hiện quản lý rừng bền vững. Theo
đó là những kiến nghị nhằm thúc đẩy quá trình thực hiện quản lý rừng bền vững.
Phần cuối cùng của tài liệu này đề cập đến viễn cảnh của quản lý rừng bền vững ở
Việt Nam.
Giới thiệu
Việt Nam có tổng diện tích tự nhiên 33,12 triệu ha, trong đó diện tích có
rừng 12,61 triệu ha và 6,16 triệu ha đất trống đồi núi trọc là đối tượng của sản xuất
lâm nông nghiệp. Như vậy, ngành Lâm nghiệp đã và đang thực hiện hoạt động
quản lý và sản xuất trên diện tích đất lớn nhất trong các ngành kinh tế quốc dân.
Diện tích đất lâm nghiệp phân bố chủ yếu ở trên các vùng đồi núi của cả nước, đây
cũng là nơi sinh sống của 25 triệu cư dân thuộc nhiều dân tộc ít người, có trình độ
dân trí thấp, phương thức canh tác lạc hậu, kinh tế chậm phát triển và đời sống còn
nhiều khó khăn.
Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2005, diện tích rừng toàn quốc là 12,61 triệu
ha, trong đó 10,28 triệu ha rừng tự nhiên và 2,33 triệu ha rừng trồng; độ che phủ
rừng đạt 37% được phân chia theo 3 loại rừng như sau:
- Rừng đặc dụng: 1,93 triệu ha, chiếm 15,2%;
- Rừng phòng hộ: 6,20 triệu ha, chiếm 49,0%;
- Rừng sản xuất : 4,48 triệu ha, chiếm 35,8%.
4
Tổng trữ lượng gỗ là 813,3 triệu m3 (rừng tự nhiên chiếm 94%) và khoảng 8,5
tỷ cây tre, nứa. Tổng diện tích lâm sản ngoài gỗ được gây trồng là 379.000 ha, chủ
yếu tập trung ở 3 vùng Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên và Đông Bắc.
Tuy diện tích rừng có tăng nhưng chất lượng rừng tự nhiên cũng như rừng
trồng còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất và phòng hộ. Hiện trạng diện tích
đất chưa sử dụng toàn quốc còn 6,76 triệu ha, trong đó đất trống đồi núi trọc là
6,16 triệu ha chiếm 18,59% diện tích của cả nước; chủ yếu là đất thoái hóa. Đây là
nguồn tài nguyên tiềm năng nhưng đồng thời cũng là thách thức cho phát triển sản
xuất lâm nghiệp.
Hoạt động sản xuất lâm nghiệp trong giai đoạn vừa qua đã đạt được nhiều
thành tựu quan trọng, đặc biệt công tác bảo vệ và phát triển rừng trên phạm vi toàn
quốc đã ngăn chặn được tình trạng suy thoái về diện tích và chất lượng rừng, diện tích
rừng tăng từ 9,30 triệu ha năm 1995 lên 11,31 triệu ha năm 2000 và 12,61 triệu ha
năm 2005 (bình quân tăng 0,3 triệu ha/năm). Hiện nay bình quân mỗi năm trồng
mới được khoảng 200.000 ha rừng. Sản lượng khai thác gỗ rừng trồng đạt khoảng
2.000.000 m3/năm để cung cấp nguyên liệu cho chế biến hàng lâm sản xuất khẩu
và tiêu dùng trong nước.
Hoạt động sản xuất của ngành lâm nghiệp đang chuyển đổi mạnh mẽ từ nền
lâm nghiệp quốc doanh, theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền lâm nghiệp
xã hội hoá với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và hoạt động theo cơ chế của nền
kinh tế sản xuất hàng hoá. Do đó, ngành lâm nghiệp đã tham gia tích cực tạo việc
làm, cải thiện đời sống cho gần 25% dân số của Việt Nam sống trên địa bàn rừng
núi, góp phần bảo đảm an ninh chính trị xã hội, tạo đà phát triển chung cho đất
nước trong các năm qua.
Tuy nhiên, thực tế vẫn còn những tồn tại, đặc biệt diện tích rừng tuy có tăng
nhưng chất lượng và tính đa dạng sinh học của rừng tự nhiên vẫn tiếp tục bị suy
giảm, ở một số nơi diện tích rừng tiếp tục bị tàn phá.
Vì vậy, trong Chiến lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2006 – 2020 đã xác
định: Quản lý, sử dụng và phát triển rừng bền vững là nền tảng cho phát triển lâm
nghiệp. Theo đó, mục tiêu đến năm 2020 được xác định là: Thiết lập, quản lý, bảo
vệ, phát triển và sử dụng bền vững 16,24 triệu ha đất quy hoạch cho lâm nghiệp;
nâng tỷ lệ đất có rừng lên 42 - 43% vào năm 2010 và 47% vào năm 2020. Nhiệm
vụ cụ thể: (a) Thiết lập, quản lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng bền vững 3 loại
rừng gồm: 8,4 triệu ha rừng sản xuất, trong đó 4,15 triệu ha rừng trồng bao gồm
rừng nguyên liệu công nghiệp tập trung, lâm sản ngoài gỗ. 3,63 triệu ha rừng sản
xuất là rừng tự nhiên và 0,62 triệu ha rừng tự nhiên phục hồi sản xuất nông lâm
kết hợp (phấn đấu ít nhất có được 30% diện tích có chứng chỉ rừng); 5,68 triệu ha
rừng phòng hộ và 2,16 triệu ha rừng đặc dụng. (b) Quản lý rừng: toàn bộ 16,24
triệu ha rừng và đất lâm nghiệp được quản lý thống nhất trên cơ sở thiết lập lâm
phận quốc gia ổn định, theo hệ thống tiểu khu, khoảnh, lô trên bản đồ và thực địa.
5
Trong bối cảnh lâm nghiệp Việt Nam như đã nêu trên, quản lý rừng bền vững
là định hướng chiến lược quan trọng nhằm phát huy tối đa tiềm năng của ngành
góp phần đóng góp vào nền kinh tế quốc dân; cải thiện đời sống người dân vùng
rừng núi; bảo tồn đa dạng sinh học và hệ sinh thái rừng. Nhận thức rõ điều này,
Nhà nước đã và đang từng bước hoàn thiện khuôn khổ thể chế chính sách và thúc
đẩy các hoạt động thực tiễn để quản lý rừng được bền vững.
1. Nhận thức về quản lý rừng bền vững
Trong khi khái niệm “bền vững” được thế giới bắt đầu sử dụng từ những
năm đầu thế kỷ 18 để chỉ lượng gỗ lấy ra khỏi rừng không vượt quá lượng gỗ mà
rừng có thể sinh ra, tạo tiền đề cho quản lý rừng bền vững sau này thì ở Việt Nam
mãi đến cuối thế kỷ 20 mới dùng khái niệm “Điều chế rừng” để quản lý, kinh
doanh lâm nghiệp với hy vọng sản lượng rừng được duy trì ở những lần khai thác
tiếp theo. Phương án điều chế rừng đầu tiên của Việt Nam (được thực hiện 7/1989)
là Phương án điều chế rừng lâm trường Mã Đà (Đồng Nai) với sự trợ giúp của
chuyên gia nước ngoài (Dự án VIE/82/002 do UNDP/FAO trợ giúp) để phát triển
Phương thức điều chế rừng ở Việt Nam. Nhiệm vụ chính là xây dựng một mẫu
phương án tiêu chuẩn; hướng dẫn lập kế hoạch điều chế và đưa ra những đề xuất
cho việc điều chế rừng lâm trường Mã Đà.
Cho đến nay, ngành lâm nghiệp vẫn đang dùng thuật ngữ “Điều chế rừng”,
coi nó như một công cụ, một phương pháp truyền thống để quản lý rừng của các
chủ rừng. Nghĩa là, tất cả các chủ rừng cho đến nay đều quản lý rừng theo cách lập
phương án điều chế được thực hiện theo những quy định tại Quyết định
40/2005/QĐ-BNN, ngày 7/7/2005 của Bộ NN-PTNT về Quy chế khai thác gỗ và
lâm sản khác.
Mặc dù khái niệm quản lý rừng bền vững đã có từ những năm cuối thập kỷ
80 của thế kỷ 20 và không ngừng phát triển nhưng đến nay đối với cán bộ lâm
nghiệp khái niệm này vẫn còn khá mơ hồ về mục đích và các hoạt động của quản
lý rừng bền vững. Thật vậy, một kết quả điều tra mới đây của ORGUT cho thấy:
có 85% số người được phỏng vấn trả lời là có biết về thuật ngữ Quản lý rừng bền
vững. Nhưng khi hỏi tiếp theo là: Những hoạt động chính để tiến tới quản lý rừng
bền vững là gì? thì có tới 75 % trong số đó trả lời là không biết (Báo cáo Đánh gía
nhu cầu đào tạo về quản lý rừng bền vững của Việt Nam do ORGUT thực hiện
trong khuôn khổ Chương trình quản lý bền vững rừng tự nhiên và tiếp thị lâm sản
- GTZ tài trợ)
Ngoài ra, việc chuyển đổi từ quản lý rừng truyền thống sang quản lý rừng
bền vững hiện nay đang được thúc đẩy bởi một công cụ thị trường là “Chứng chỉ
rừng”. Ý tưởng cấp chứng chỉ rừng do Hội đồng Quản trị Rừng (FSC) đề cập đến
từ những năm đầu thập kỷ 90 như là một “công cụ hữu hiệu, giúp cải thiện quản
lý rừng của thế giới”; “là công cụ chính sách mạnh mẽ nhất” trong quản lý rừng.
6
Nhiều nước trên thế giới đã khá thành công trong việc cấp chứng chỉ rừng
nên đã góp phần đáng kể quản lý rừng bền vững. Tính đến 11/2007, Hội đồng
quản trị rừng quốc tế (FSC) đã cấp 913 chứng chỉ rừng cho 78 nước với tổng diện
tích 93.898.717 ha. Trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, FSC đã cấp 81
chứng chỉ với diện tích 3.144.345 ha trong đó Trung Quốc, Newzelands,
Indonesia, Úc là các nước dẫn đầu về diện tích rừng được cấp chứng chỉ..
Như trên đã nêu, Chứng chỉ rừng đã được các nước trên thế giới biết đến và
sử dụng từ gần 20 năm nay; trong khi đó, ở Việt nam hiện nay khái niệm Chứng
chỉ rừng đang còn là rất mới mẻ với cán bộ, người dân hoạt động trong lĩnh vực
lâm nghiệp. Tại cuộc điều tra đánh giá nhu cầu đào tạo về quản lý rừng bền vững
do ORGUT thực hiện vào tháng 9/2007 tại các cơ quan lâm nghiệp ở trung ương
và địa phương cho thấy: 45 % số người được phỏng vấn có biết về khái niệm
chứng chỉ rừng. Nhưng trong số này chỉ có 34 % có hiểu biết rất mơ hồ về điều
kiện được cấp chứng chỉ rừng.
Thực tế hiện nay cho thấy: Quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng là
những khái niệm rất mới mẻ, chưa có tiền lệ và chưa có thực tế nên chưa hề có
kinh nghiệm. Thậm chí đang có sự tranh cãi về những điểm khác nhau của hai
khái niệm này; nhiều người cho rằng: Tiêu chuẩn cấp chứng chỉ rừng là tiêu
chuẩn quản lý rừng bền vững; khi một đơn vị được cấp chứng chỉ rừng thì có
nghĩa là ở đơn vị đó đạt quản lý rừng bền vững. Đây là những vấn đề cần được
tiếp tục thảo luận trên các diễn đàn lâm nghiệp.
2. Các chính sách liên quan đến quản lý rừng bền vững
Các chính sách cam kết của Chính Phủ là nhân tố quan trọng để quản lý
rừng bền vững. Các chính sách liên quan đến quản lý rừng bền vững được hiểu là
những chính sách điều tiết, chi phối trực tiếp và có tác động đến việc quản lý và sử
dụng nguồn tài nguyên rừng và đất rừng một cách bền vững. Cho đến nay đã có 25
văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quản lý rừng bền vững. Trong đó, số
văn bản thuộc các cấp ban hành là: Quốc hội: 3, Chính phủ: 7, Thủ tướng Chính
phủ: 5, Bộ NN-PTNT: 10 (Chi tiết xem Phụ biểu 1). Các đạo luật lâm nghiệp và
Chiến lược lâm nghiệp quốc gia thể hiện cam kết thực hiện quản lý rừng bền vững.
Các vấn đề về Quản lý rừng bền vững là một yếu tố chủ chốt trong các
chính sách, chiến lược và kế hoạch hành động của Việt Nam. Điều này được thể
hiện trong các văn bản pháp quy dưới đây:
- Luật bảo vệ và phát triển rừng, năm 2004: Việc sửa đổi Luật Bảo vệ và
phát triển rừng năm 2004 dựa trên quan điểm áp dụng quản lý rừng bền vững với
tất cả các khu rừng ở Việt Nam. Đây là đạo luật quan trọng nhất về lâm nghiệp.
Trong đó tại Điều 9 đã quy định các hoạt động để đảm bảo quản lý rừng bền vững:
Các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng phải đảm bảo phát triển bền vững về kinh
tế, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh; phù hợp với chiến lược phát triển
kinh tế-xã hội, chiến lược phát triển lâm nghiệp; đúng quy hoạch, kế hoạch bảo vệ
7
và phát triển rừng của cả nước và địa phương; tuân theo quy chế quản lý rừng do
Thủ tướng Chính phủ quy định.
- Luật Bảo vệ môi trường, năm 2005; trong Chương IV: Bảo tồn và sử dụng
hợp lý tài nguyên thiên nhiên, có 7 điều (từ Điều 28 đến Điều 34) đã đưa ra những
quy định liên quan tới quản lý rừng bền vững thuộc các lĩnh vực, như: Điều tra,
đánh giá, lập quy hoạch sử dụng tài nguyên thiên nhiên; Bảo vệ thiên nhiên; Bảo
vệ đa dạng sinh học; Bảo vệ và phát triển cảnh quan thiên nhiên; Bảo vệ môi
trường trong khảo sát, thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên; Phát
triển năng lượng sạch.
- Luật Đất đai, năm 2003 đã quy định: Việc sử dụng đất phải tôn trọng các
nguyên tắc sau đây: Tiết kiệm, có hiệu quả, bảo vệ môi trường và không làm tổn
hại đến lợi ích chính đáng của người sử dụng đất xung quanh (Điều 11).
- Chiến lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2006-2020: Có thể nói cam
kết của Việt Nam về quản lý rừng bền vững được chính thức hóa vào năm 2006
khi mà Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược lâm nghiệp. Trong bản Chiến
lược, Việt nam đã khẳng định quan điểm phát triển lâm nghiệp là: Quản lý, sử
dụng và phát triển rừng bền vững là nền tảng cho phát triển lâm nghiệp. Các hoạt
động sản xuất lâm nghiệp phải dựa trên nền tảng quản lý bền vững thông qua quy
hoạch, kế hoạch bảo vệ phát triển rừng nhằm không ngừng nâng cao chất lượng
rừng. Phải kết hợp bảo vệ, bảo tồn và phát triển với khai thác rừng hợp lý... (tr 11).
Đồng thời, trong Chiến lược cũng đã đề ra 5 chương trình hành động, trong đó
Chương trình quản lý và phát triển rừng bền vững là Chương trình trọng tâm và ưu
tiên số 1.
Trong Chiến lược này, nhiệm vụ được đặt ra là: Quản lý bền vững và có
hiệu quả 8,4 triệu ha rừng sản xuất, trong đó 4,15 triệu ha rừng trồng và 3,63 triệu
ha rừng tự nhiên. Phấn đấu ít nhất có được 30% diện tích rừng sản xuất có chứng
chỉ rừng.
3. Những tồn tại của các chính sách hiện nay
- Như trên đã nêu, mặc dù Việt Nam đã có định hướng rõ ràng về quản lý
rừng bền vững được thể hiện trong Luật Bảo vệ và phát triển rừng và Chiến lược
lâm nghiệp quốc gia. Nhưng các chính sách cụ thể dưới các đạo luật này (Nghị
định, Quyết định, Thông tư ...) lại chưa có hướng dẫn đầy đủ, nhất là chưa đưa ra
các tiêu chuẩn để đánh giá rừng được quản lý bền vững nhằm đảm bảo mọi tác
động đối với rừng đạt được sự bền vững.
- Chính sách, thể chế, trình độ, năng lực của Việt nam vẫn chưa phù hợp
với tiêu chuẩn cấp chứng chỉ rừng của Hội đồng quản trị rừng thế giới (FSC), cần
nâng cấp, sửa đổi, thay thế.
- Các chính sách bảo tồn rừng của Việt Nam mới chỉ chú trọng vào rừng
đặc dụng mà ít quan tâm tới sản xuất là chưa phù hợp với tiêu chuẩn số 9 của FSC
về các khu rừng có giá trị bảo tồn cao.
8
- Chưa có chính sách đào tạo, giáo dục và phổ cập về quản lý rừng bền
vững cho học sinh, sinh viên. Nên cán bộ sau khi tốt nghiệp đại học lâm nghiệp
hoặc các chuyên ngành liên quan chưa được giới thiệu về quản lý rừng bền vững
và chứng chỉ rừng, chưa biết lập kế hoạch quản lý rừng bền vững, chưa biết xây
dựng cơ sở dữ liệu, công tác giám sát và đánh giá.
- Thực tế cho thấy, tại các cơ quan lâm nghiệp ở trung ương và địa phương
phần lớn (68%) số người được phỏng vấn cho rằng khung chính sách hiện nay
chưa phù hợp với yêu cầu của quản lý rừng bền vững; chỉ có rất ít (32%) số người
được phỏng vấn nói là khá phù hợp (Kết quả điều tra đánh giá nhu cầu đào tạo về
quản lý rừng bền vững do ORGUT thực hiện vào tháng 9/2007).
Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng thiếu hiểu biết về quản lý rừng bền
vững nêu trên là do:
- Thiếu các văn bản quy phạm pháp luật lâm nghiệp mà trong đó đưa ra các
tiêu chí để quản lý rừng bền vững; các hướng dẫn kỹ thuật để thực hiện các hoạt
động liên quan đến quản lý rừng bền vững.
- Các nhà hoạch định chính sách lâm nghiệp chưa đề ra các giải pháp cụ thể
và mạnh mẽ để chuyển đổi từ quản lý rừng truyền thống sang quản lý rừng bền
vững; thiếu sự học hỏi kinh nghiệm các nước, nhất là các nước trong khu vực
Châu Á-Thái Bình Dương.
- Các trường đại học lâm nghiệp hoặc đại học nông lâm chưa đổi mới kịp
thời giáo trình cho phù hợp với phương pháp tiếp cận tiên tiến trong quản lý rừng
nên trong chương trình giảng dạy của nhà trường chưa coi Quản lý rừng bền vững
là môn học độc lập mà thường được lồng ghép với các môn chuyên môn khác như:
Quy hoạch sử dụng đất; Thiết kế kinh doanh rừng; Trồng rừng và Khai thác
rừng....
- Ngành lâm nghiệp chưa đưa ra được lộ trình của quá trình đạt được quản
lý rừng bền vững đối với các loại rừng, mà trước mắt là hơn 10 triệu ha rừng được
quy hoạch là lâm phận ổn định quốc gia. Nhưng lại ít chú trọng và đầu tư xây
dựng mô hình quản lý rừng bền vững để rút kinh nghiệm.
Vì vậy, việc xây dựng và bổ sung để hoàn thiện khuôn khổ chính sách và
các quy định về kỹ thuật liên quan đến quản lý rừng bền vững đang là yêu cầu cấp
bách hiện nay. Chỉ có như thế thì chủ trương quản lý rừng bền vững trong sản xuất
kinh doanh lâm nghiệp mới trở thành hiện thực.
4. Kết quả hoạt động quản lý rừng bền vững
4.1. Ở cấp Trung ương
4.1.1. Tuyên truyền, tập huấn đào tạo về quản lý rừng bền vững: Ở Việt Nam,
công tác tuyên truyền về quản lý rừng bền vững bắt đầu được tiến hành từ đầu
năm 1998 chủ yếu do Tổ công tác quốc gia thực hiện với sự hỗ trợ của các tổ chức
như: Quỹ rừng nhiệt đới (TFT), Dự án cải cách hành chính (REFAS) của GTZ,
9
WWF Đông dươngHình thức phổ cập về quản lý rừng bền vững rất phong phú,
gồm: hội nghị, hội thảo quốc gia, vùng, tỉnh; giảng dạy, tập huấn và phổ cập kiến
thức
4.1.2. Xây dựng kế hoạch chiến lược và các hoạt động quản lý rừng bền vững, bao
gồm:
a./ Trong Chiến lược phát triển lâm nghiệp, giai đoạn 2006-2020 có 5
chương trình trọng điểm là:
(1) Quản lý và phát triển rừng bền vững
(2) Bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển dịch vụ môi trường
(3) Chế biến thuwong mại lâm sản
(4) Nghiên cứu, giáo dục, đào tạo và khuyến lâm
(5) Đổi mới thể chế, chính sách, kế hoạch, giám sát ngành
Trong đó, chương trình quản lý rừng bền vững là trọng tâm với 3 nội dung
chính của chương trình là:
(1) Xây dựng và hoàn thiện các điều kiện cần thiết để quản lý rừng bền
vững; như: (i) Thiết lập lâm phận ổn định trên cơ sở quy hoạch 3 loại rừng; (ii)
Hoàn thiện hệ thống đánh giá tài nguyên rừng, cơ sở dữ liệu; (iii) Cải cách quyền
sở hữu, quyền sử dụng rừng bằng giao khoán, cho thuê; (iv) Hoàn thiện các tiêu
chuẩn quản lý rừng bền vững, lâm sinh, sử dụng rừng.
(2) Thực hiện quản lý bền vững rừng tự nhiên; gồm: (i) Xây dựng và thực
hiện phương án điều chế rừng (Kế hoạch quản lý rừng); (ii) chứng chỉ rừng.
(3) Thực hiện quản lý rừng bền vững cho rừng trồng; gồm: (i) Quy hoạch
rừng nguyên liệu gắn kết với chế biến trong mọi thành phần kinh tế; (ii) Cải thiện
giống, phương thức lâm sinh, sản lượng và điều chế rừng; (iii) Thử nghiệm và mở
rộng chứng chỉ rừng trồng mọi quy mô, mọi thành phần kinh tế.
Một chương trình quan trọng khác của Chiến lược đã được tập trung vào là:
Bảo vệ, bảo tồn rừng và cung cấp dịch vụ môi trường. Chương trình này được kết
nối chặt chẽ với chương trình quản rừng bền vững; vì cả hai chương trình sẽ rất
cần thiết trong việc đạt được quản lý bền vững đối với tất cả các loại rừng ở Việt
Nam.
4.1.3. Xây Xây dựng lộ trình thực hiện quản lý rừng bền vững: Theo đề xuất của
Viện Quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng thì sẽ có hai giai đoạn: Giai đoạn 1
(2006-2010): Xây dựng các điều kiện cần và đủ để tiến hành quản lý bền vững
rừng tự nhiên và rừng trồng. Giai đoạn 2 (sau năm 2010): Tiến hành quản lý rừng
bền vững.
4.1.4. Xây dựng các điều kiện để quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng
10
- Ở Việt Nam hiện nay, do diện tích lâm phận ổn định chưa được xác định
trên thực địa, quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp chưa hoàn chỉnh; chất lượng rừng
thấp;