Phạm trù vốn là phạm trù hết sức quan trọng không chỉ được các chủ doanh 
nghiệp, các nhà quản lí quan tâm m à ngay cả các nhà kinh tế học , các nhà lí 
luận cũng đã dày công nhiên cứu, tìm hiểu để có thể đưa ra một định nghĩa 
hoàn chỉnh về vốn
Trong tác phẩm “Quản trị vốn’,TS. Đàm văn Huệ nói rằng:Vốn bằng tiền 
nhưng không chỉ bằng tiền; Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung, khi nói 
đến vốn thì đồng nghĩa với phạm trù tiền vốn(vốn bằng tiền , vốn tài chính), tức 
là nó đại diện cho loại hàng hoá nhất định. Trong điều kiện một nền kinh tế 
hiện vật là chủ yếu, phạm trù hàng hoá bị thu hẹp với cơ chế cấp phát giao nộp 
sản phẩm, nên có quan niệm như trên là khó tránh khỏi. Ngay bản thân quan 
niệm vốn được biểu hiện bằng tiền thì tiền ở đây phải vận động với mục đích 
sinh lời chứ không phải dạng tích trữ.Có thể hiểu đơn giản để phân biệt vốn và 
tiền tệ như sau: Tiền sẽ được coi là vốn khi chúng được sử dụng cho sản xuất 
kinh doanh, ngược lại nó hkông được coi là vốn khi đem vào tích trữ hay mua 
hàng hoá, dịch vụ phục vụ nhu cầu sinh hoạt của cá nhân hay x ã hội. Trong tác 
phẩm của m ình,Các Mác đã phân biệt rõ phạm trù tiền tệ và phạm trù tư bản. 
Ông cho rằng nếu tiền không tham gia vào quá trình sản xuất của xă hội thì tiền 
đó chỉ ở dạng tư bản tiềm năng m à thôi
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 75 trang
75 trang | 
Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 2510 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Lý luận chung về vốn và tạo lập vốn của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP 
Lý luận chung về vốn và tạo lập vốn của doanh 
nghiệp trong nền kinh tế thị trường 
 2
Mục lục 
PHầN 1 ............................................. 3 
1.1.2/ Vai trò của vốn đối với hoạt động của doanh nghiệp ......... 4 
Sẽ là không tưởng nếu nghĩ rằng có thể tiến hành bất cứ hoạt động sản xuất 
kinh doanh nào mà không có vốn hoặc không đủ vốn. Nói một cách khác 
vốn có vai trò đặc biệt quan trọng để bắt đầu, duy trì và phát triển hoạt động 
của doanh nghiệp. ..................................... 4 
Sơ đồ 14: Chiến lược vốn cần áp dụng tại công ty ................. 60 
 3
 PHầN 1 
Lý luận chung về vốn và tạo lập vốn của doanh nghiệp trong nền 
kinh tế thị trường 
1. Vốn và vai trò của vốn đối với hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 
1.1. Khái niệm vốn và vai trò của vốn đối với hoạt động của doanh 
nghiệp. 
1.1.1/Khái niệm vốn 
 Phạm trù vốn là phạm trù hết sức quan trọng không chỉ được các chủ doanh 
nghiệp, các nhà quản lí quan tâm mà ngay cả các nhà kinh tế học , các nhà lí 
luận cũng đã dày công nhiên cứu, tìm hiểu để có thể đưa ra một định nghĩa 
hoàn chỉnh về vốn 
 Trong tác phẩm “Quản trị vốn’,TS. Đàm văn Huệ nói rằng:Vốn bằng tiền 
nhưng không chỉ bằng tiền; Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung, khi nói 
đến vốn thì đồng nghĩa với phạm trù tiền vốn(vốn bằng tiền , vốn tài chính), tức 
là nó đại diện cho loại hàng hoá nhất định. Trong điều kiện một nền kinh tế 
hiện vật là chủ yếu, phạm trù hàng hoá bị thu hẹp với cơ chế cấp phát giao nộp 
sản phẩm, nên có quan niệm như trên là khó tránh khỏi. Ngay bản thân quan 
niệm vốn được biểu hiện bằng tiền thì tiền ở đây phải vận động với mục đích 
sinh lời chứ không phải dạng tích trữ.Có thể hiểu đơn giản để phân biệt vốn và 
tiền tệ như sau: Tiền sẽ được coi là vốn khi chúng được sử dụng cho sản xuất 
kinh doanh, ngược lại nó hkông được coi là vốn khi đem vào tích trữ hay mua 
hàng hoá, dịch vụ phục vụ nhu cầu sinh hoạt của cá nhân hay xã hội. Trong tác 
phẩm của mình,Các Mác đã phân biệt rõ phạm trù tiền tệ và phạm trù tư bản. 
Ông cho rằng nếu tiền không tham gia vào quá trình sản xuất của xă hội thì tiền 
đó chỉ ở dạng tư bản tiềm năng mà thôi 
 Trong nền kinh tế thị trường, những quan niệm về vốn như trên là lạc hậu 
bởi: Vốn là một phạm trù rộng lớn hơn bao gồm tiền tệ, vật tư, tài sản, đất đai, 
 4
nguồn nhân lực, với nhiều loại: vốn hữu hình( tiền mặt,máy móc, thiết bị...)hay 
vốn vô hình( bản quyền kinh doanh, tay nghề nhân công, phát minh sáng 
chế...)( Trong bài viết: “Vốn và việc huy động vốn trong nước” của TĐ Cao Sĩ 
Kiêm- Báo Kinh tế phát triển; Số 2-1999). Đặc trưng của vốn là dùng để đưa 
vào đầu tư với mục đích tạo ra lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu 
 Từ những phân tích như trên,ta có khái niệm đúng về vốn như sau: Vốn của 
doanh nghiệp là toàn bộ những giá trị ứng ra ban đầu, tham gia liên tục vào quá 
trình sản xuất kinh doanh với mục đích đem lại giá trị thặng dư ( Tác phẩm “ 
Quản trị vốn” của T.S Đàm văn Huê.) 
 Xác định một khái niệm đúng về vốn có một ý nghĩa quan trọng. Một phạm 
trù vốn bị thu hẹp sẽ dẫn đến tình trạng nhiều nguồn lực bị sử dụng lãng phí. 
Có một quan niệm đúng về vốn sẽ giúp doanh nghiệp phát hiện được những 
tiềm năng về vốn, từ đó có biện pháp khai thác và sử dụng chúng đem lại hiệu 
quả 
 1.1.2/ Vai trò của vốn đối với hoạt động của doanh nghiệp 
 Sẽ là không tưởng nếu nghĩ rằng có thể tiến hành bất cứ hoạt động sản xuất 
kinh doanh nào mà không có vốn hoặc không đủ vốn. Nói một cách khác vốn 
có vai trò đặc biệt quan trọng để bắt đầu, duy trì và phát triển hoạt động của 
doanh nghiệp. 
 -Vốn là điều kiện không thể thiếu được để thành lập doanh nghiệp. Để bắt 
đầu hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần mua sắm máy móc, trang 
thiết bị, xây dựng nhà xưởng hay thuê công sở, mướn nhân công. Vì vậy trong 
giai đoạn này, doanh nghiệp cần tới một lượng vốn rất lớn và phải huy động 
vốn. 
– Vốn là điều kiện cần thiết để doanh nghiệp chủ động thực hiện các dự án 
mang lại lợi nhuận. Không có vốn thì các dự án sản xuất kinh doanh, các 
cơ hội kinh doanh mang nhiều lợi nhuận sẽ bị bỏ lỡ và sẽ chỉ là dự định, kế 
 5
hoạch. Mỗi doanh nghiệp cần có chiến lược duy trì và phát triển trên thị 
trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. 
– Vốn vẫn là yếu tố quan trọng hàng đầu giúp doanh nghiệp có khả năng đầu 
tư , đổi mới công nghệ, đầu tư cho quảng cáo..., nhằm tăng cường cạnh 
tranh trước các đối thủ. 
 Bởi vì vốn có vai trò quan trọng to lớn như vậy nên bảo tồn và tăng trưởng 
vốn là một nguyên lí, là điều kiện đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh của 
doanh nghiệp.Chính vì vậy mà một trong những vấn đề mà các doanh nghiệp 
luôn trăn trở là:Doanh nghiệp nên tạo vốn bằng cách nào?,Làm thế nàodoanh 
nghiệp có thể huy động vốn tối đa từ mọi nguồn với một chi phí thấp nhất và 
một cơ cấu tối ưu?. 
1.2. Phân loai vốn 
 Để có thể trả lời những câu hỏi nêu trên bước đầu tiên mà người quản lí 
doanh nghiệp phải thực hiện là phân loại vốn. Đây là công việc được các doanh 
nghiệp ở các nước có nền kinh tế phát triển rất quan tâm vì nó ảnh hưởng rất 
nhiều tới chi phí vốn và cơ cấu huy động vốn. ở các nươc đang phát triển, các 
nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh chưa nhiều nên việc phân loại 
vốn chưa được mọi người quan tâm. 
1.2.1/ Phân loại căn cứ vào cơ cấu vốn trong sản xuất kinh doanh 
 Căn cứ vào cơ cấu vốn trong sản xuất kinh doanh, người ta phân thành hai 
loại:Vốn sản xuất và vốn đầu tư. Sự khác nhau của hai loại vốn này dựa vào 
mục đích và thời gian sử dùng vốn. 
 - Vốn sản xuất: Là loại vốn sử dụng trong quá khứ và hiện tại phục vụ cho 
quá trình sản xuất kinh doanh.Đó là số tiền, tài sản hữu hình, vô hình...dùng 
trong việc hình thành công việc sản xuất, duy trì và phát triển. Hiệu quả của nó 
được đánh giá thông qua sự phát triển của doanh nghiệp và uy tín của doanh 
nghiệp trên thị trường 
 6
 - Vốn đầu tư: Là loại vốn phục cho mục đích sản xuát kinh doanh trong 
tương lai. Số lượng vốn đầu tư phụ thuộc vào kế hoạch , các dự án sản xuất 
kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn đầu tư sẽ quyết định sự tồn tại và phát triển 
của doanh nghiệp trong tương lai do sự cạnh tranh ngày càng khóc liệt của các 
đối thủ cạnh tranh và do tính phức tạp của nhu cầu ngày càng tăng.Viêc huy 
động đủ số lượng , kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh là một vấn đề 
mà mọi doanh nghiệp luôn luôn quan tâm và dốc sức để hoàn thiện công việc 
đó 
1.2.2/ Căn cứ vào nguồn hình thành vốn 
 Căn cứ vào nguồn hình thành vốn thì toàn bộ vốn của doanh nghiệp được 
chia thành nợ vay và vốn cuả chủ sở hữu. Đây là cách phân loại cơ bản và phổ 
biến trong nền kinh tế thị trường. Hai loại vốn này có mối quan hệ đặc biệt với 
nhau khi chúng ta xem xét cơ cấu vốn tối ưu của doanh nghiệp. 
 - Vốn của chủ sở hữu: Là loại vốn do các chủ sở hữu của doanh nghiệp tài 
trợ và giữ lại phần lợi nhuận chưa phân phối.Đối với các loại vốn này doanh 
nghiệpkhông phải hoàn trả những khoản tiền đã huy động được trừ khi doanh 
nghiệp đóng cửa. Tuy nhiên các chủ sở hữu có thể giảm vốn bằng cách giảm 
vốn ngân sách nhà nước hay mua lại cổ phiêú...Chi phí vốn chủ sở hữu là chi 
phí cơ hội cho việc sử dụng vốn. Trong trường hơp huy động vốn cổ phần, chi 
phí vốn là lợi tức yêu cầu của các cỏ đông. Do tính dài hạn và gần như không 
hoàn trả, vốn chủ sở hữu có độ an toàn rất cao 
 - Vốn vay: Những tài trợ cho doanh nghiệp loại vốn này không phải là chủ 
sở hữu doanh nghiệp.Đặc trưng của loại vốn này là doanh nghiệp phải tiến 
hành hoàn trả vốn vay trong một thời gian nhất định. Chi phí vốn là lãi phải trả 
cho các khoản nợ vay.Mức lãi xuất hay chi phí phải trả cho nợ vay thường ổn 
định và được thoả thuận trước khi vay.Huy động nợ vay rủi ro hơn huy động 
vốn chủ sờ hữu song đôi khi các doanh nghiệp lại thích sử dụng nợ vay do một 
đặc điểm hết sức quan trọng. Chi phí nợ vay được tính vào chi phí hợp lí hợp lệ 
không phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp .Trong khi, lợi tức dành cho chủ 
 7
sở hữu được trả từ lợi nhuận sau thuế không được tính vào chi phí hợp lí hợp lệ 
như nợ vay.Đăc điểm này hết sức quan trọng ảnh hưởng tới việc hình thành cơ 
cấu vốn tối ưu với mục đích tối đa hoá giá trị vốn chủ sở hữu. 
 Nhìn chung đây là hai cách phân loại rất cơ bản và phổ biến trong nền kinh 
tế thị trường.Nó giúp cho người sử dụng có thể thấy được thực trạng tài chính 
của doanh nghiệp khi xem xét về măt kinh tế. Về mặt pháp lí, người sử dụng có 
thể thấy đươc trách nhiệm của doanh nghiệp về tổng số vốn đã đăng kí kinh 
doanh với nhà nước, về số tài sản đã hình thành từ vốn vay ngân hàng...Còn 
nhiều cách phân loại vốn khác như thành vốn cố định và vốn lưu động, phân 
chia theo khoản mục.Mỗi cách phân loại sẽ phục vụ những mục đích nhất định. 
2. Các phương thức tạo lập vốn của doanh nghiệp. 
Trong nền kinh tế thị trường, các phương thức tạo lập vốn cho doanh nghiệp được 
đa dạng hóa. Vì thế, cơ hội huy động vốn của doanh nghiệp từ các nguồn khác nhau 
là rất lớn. Về cơ bản doanh nghiệp có thể huy động vốn theo các phương thức sau 
đây: 
2.1. Huy động vốn chủ sở hữu. 
Có thể thấy rằng vốn chủ sở hữu là nguồn vốn quan trọng hàng đầu của mọi doanh 
nghiệp. Nó có yếu tố để đánh giá sức mạnh về tài chính của doanh nghiệp. Và nó 
cũng là căn cứ quan trọng để quyết định khả năng huy động các nguồn vốn khác của 
doanh nghiệp. 
2.1.1/ Ngân sách Nhà nước cấp. 
Đối với doanh nghiệp nhà nước thì vốn chủ sở hữu sẽ do Ngân sách Nhà nước cấp. 
Đây là số vốn do Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý và sử dụng trên cơ sở bảo 
toàn và phát triển vốn. Mức vốn Nhà nước cấp phụ thuộc vào yêu cầu nhiệm vụ Nhà 
nước giao cho các doanh nghiệp. Nhà nước có thể cấp vốn ban đầu khi doanh nghiệp 
mới thành lập hoặc cấp vốn bổ sung trong quá trình hoạt động. Tùy thuộc vảo khả 
năng ngân sách nhà nước và mức độ kiểm tra vốn của doanh nghiệp mà cơ chế cấp 
vốn cho doanh nghiệp ở mỗi nước là khác nhau. Ví dụ như ở Pháp, các doanh nghiệp 
loại 1, hoạt động theo yêu cầu của Nhà nước, thì Nhà nước cấp vốn 100%. Các doanh 
nghiệp do Nhà nước quản lý, nhưng tự chọn chính sách phát triển, phải cạnh tranh 
 8
với các doanh nghiệp khác (loại 2) thì Nhà nước không cấp vốn. Nhưng trên thực tế 
thì vốn Nhà nước cấp cho các doanh nghiệp loại 1 cũng không đủ. Vì vậy, từ năm 
1986, trở về trước Nhà nước nắm toàn bộ các doanh nghiệp nhà nước thuộc loại này. 
Từ 1986 trở lại đây, Nhà nước cho tư nhân tham gia, do đó, hiện nay ở Pháp, vốn 
Nhà nước và tư nhân kết hợp với nhau rất đa dạng. ở Malaisia, các công ty thuộc sở 
hữu Nhà nước được cấp 100% vốn cố định ban đầu. Hàng năm, công ty phải trả lãi 
(theo lãi suất ưu đãi) trên tổng số vốn đầu tư của Nhà nước. Trong các doanh nghiệp 
này, Nhà nước quản lý trực tiếp, toàn diện, doanh nghiệp phải sản xuất theo kế 
hoạch của Nhà nước. Nhưng nếu Nhà nước chỉ muốn nắm một phần hoạt động của 
doanh nghiệp thì Nhà nước thường thông qua việc nắm cổ phần khống chế của 
doanh nghiệp. 
2.1.2/ Phát hành cổ phiếu. 
Một nguồn tài chính dài hạn rất quan trọng là phát hành cổ phiếu để huy động vốn 
cho doanh nghiệp. Đây là cách thức tạo lập vốn rất phổ biến trong nền kinh tế thị 
trường. Bằng cách phát hành một số lượng các cổ phiếu lớn với mệnh giá thấp ra 
công chúng, doanh nghiệp đã tích tụ những luồng vốn nhỏ, rải rác thành một lượng 
vốn khổng lồ đầu tư vào doanh nghiệp. Những người mua các cổ phiếu này trở thành 
các cổ đông, chủ sở hữu của doanh nghiệp, tức là công ty cổ phần. 
Có thể xem xét một số yếu tố cơ bản liên quan đến việc phát hành và kiểm soát các 
loại cổ phiếu khác nhau. 
2.1.2.1. Phát hành cổ phiếu thường. 
Cổ phiếu thường là một loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu một cách thực sự 
của cổ đông đối với công ty cổ phần. Đây là loại cổ phiếu mà thu nhập của nó lên 
xuống phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Cổ đông sở hữu cổ 
phiếu thường được hưởng những quyền lợi nhất định: 
- Quyền tham gia kiểm soát và điều khiển các hoạt động của Công ty 
- Quyền yêu cầu về thu nhập, được chi trả lợi tức cổ phần từ lợi nhuận sau 
thuế. Cổ phiếu thường không bị giới hạn trong chi trả cổ tức. Lợi tức cổ 
phiếu thường chi trả cho cổ đông tương đương với mức rủi ro mà cổ đông 
chấp nhận. 
- Quyền yêu cầu về tài sản (quyền yêu cầu được chi trả sau cùng khi công ty 
phá sản). 
- Quyền mua trước (quyền được mua cổ phiếu khi công ty phát hành chứng 
khoán mới). Trong khi đó mỗi cổ đông chỉ phải chịu một mức trách nhiệm 
 9
hữu hạn chính là phần vốn mà họ đã đầu tư vào công ty. 
Về phía Công ty phát hành: Với phương thức huy động này, công ty tạo được luồng 
vốn chủ sở hữu khổng lồ làm tấm lá chắn chống đỡ mọi rủi ro trong quá trình hoạt 
động. Vì thế, chi phí huy động vốn cao hơn so với chi phí huy động bằng các chứng 
khoán khác. Chi phí này chính là lợi tức yêu cầu của nhà đầu tư. Huy động vốn bằng 
cổ phiếu thường có những ưu điểm nhất định. Trước hết, nó tạo ra một lượng vốn 
lớn an toàn. Công ty còn có thể linh hoạt thay đổi lượng vốn chủ sở hữu này sao cho 
thích hợp. Mới thành lập, công ty có thể chỉ phát hành một lượng cổ phiếu nhất 
định. Khi muốn giảm vốn cổ phần, công ty có thể mua lại các cổ phiếu đang lưu 
hành, giữ nó cho đến khi bán lại hoặc hủy bỏ. Muốn tăng vốn cổ phần, công ty có thể 
tiến hành phát hành cổ phiếu mới. Ngoài ra, xem xét sự biến động của thị giá cổ 
phiếu trên thị trường có thể thấy được phần nào hoạt động và các yếu tố ảnh hưởng 
tới hoạt động của công ty. Từ đó làm cơ sở cho công ty ra quyết định tài chính nhằm 
khuyếch đại giá trị vốn chủ sở hữu. 
Khi huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu mới phải lưu ý tới nhiều vấn đề. Do 
cổ phiếu tăng nên trong tương lai lợi tức cổ phần có thể sẽ giảm ảnh hưởng tới thị giá 
của công ty trên thị trường. Mặc dù các cổ đông cũ có quyền mua trước nhằm tránh 
hiệu ứng pha loãng quyền kiểm soát song công ty cần đề phòng nguy cơ bị thôn tính. 
Vấn đề chống thôn tính, bảo vệ công ty trước sự thôn tính bằng cổ phiếu của các 
công ty khác là một khía cạnh đặc biệt. Do đó phải tính đến tỷ lệ cổ phần tối thiểu mà 
mỗi cổ đông được phép nắm giữ để duy trì tỷ lệ cân đối về sở hữu công ty. 
2.1.2.2. Phát hành cổ phiếu ưu đãi. 
Cổ phiếu ưu đãi thường chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu được phát 
hành. Nó có đặc điểm là thường có tỷ lệ cổ tức cố định, không phụ thuộc vào kết quả 
sản xuất kinh doanh của công ty. Người chủ của cổ phiếu này có quyền được thanh 
toán lãi trước các cổ đông thường. Hội đồng quản trị của công ty có thể thay đổi cách 
thức và tỷ lệ trả cổ tức cho cổ phiếu ưu đãi theo từng năm để phù hợp với tình hình 
cụ thể. 
Rất hiếm khi cổ đông ưu đãi có quyền bỏ phiếu một cách đầy đủ. Trong một số công 
ty của Mỹ, đôi khi có quy định những trường hợp ngoại lệ về quyền bỏ phiếu của cổ 
đông ưu đãi. Tuy nhiên, nếu có ít nhất 2/3 cổ đông ưu tiên nhất trí về một vấn đề nào 
đó thì ban lãnh đạo công ty phải xem xét ý kiến của họ. Nếu các cổ đông ưu đãi 
không được trả cổ tức tới một giới hạn nào đó, chẳng hạn sáu quý cổ tức của cổ 
 10
phiếu ưu tiên bị nợ, thì các cổ đông của những cổ phiếu đó có thể được quyền bỏ 
phiếu. 
Khác với chi phí lãi vay được giảm trừ khi tính thuế thu nhập công ty, cổ tức dành 
cho cổ đông ưu đãi được lấy từ lợi nhuận sau thuế, tức là không được tính vào chi 
phí để giảm thuế. Đây chính là hạn chế của việc phát hành cổ phiếu ưu đãi. Mặc dù 
vậy, như đã đề cập cổ phiếu ưu đãi vẫn có những ưu điểm đối với cả công ty phát 
hành và nhà đầu tư. Những điều kiện ưu đãi làm giảm rủi ro cho loại cổ phiếu này và 
như vậy có thể tăng tính hấp dẫn đối với nhà đầu tư và giảm chi phí huy động cho 
nhà phát hành. 
Tóm lại, mặc dù chi phí cao song huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu cho 
phép tạo được một luồng vốn lớn, an toàn. Tuy nhiên việc huy động này đòi hỏi phải 
có sự chuẩn bị về thời gian và điều quan trọng là doanh nghiệp phải có được uy tín 
trên thị trường vì doanh nghiệp có làm ăn tốt, tình hình tài chính vững vàng mới có 
khả năng thắng lợi trong huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu. 
2.1.3/ Tài trợ nội bộ. 
Tài trợ nội bộ là phương thức huy động vốn quan trọng đối với doanh nghiệp. Có hai 
hình thức để thực hiện tài trợ nội bộ: Tái đầu tư thông qua chính sách phân phối cổ 
tức và phát hành cổ phiếu nội bộ. Điểm chung của cả hai hình thức này đó là cổ đông 
chấp nhận hưởng một mức lợi tức cổ phần thấp hơn hoặc không nhận lợi tức cổ 
phần mà đầu tư toàn bộ lợi nhuận sau thuế để mở rộng quy mô của công ty. Như 
vậy, cổ đông không bị chia sẻ quyền kiểm soát công ty và họ có thể hưởng toàn bộ giá 
trị thặng dư thu được từ đầu tư bao gồm cổ tức tăng thêm và chênh lệch giá cổ phiếu 
trên thị trường. Theo hình thức thứ nhất, việc tái đầu tư được thực hiện bằng cách 
ghi tăng giá trị sổ sách của cổ phiếu. Giá trị danh nghĩa của cổ phiếu tăng sẽ làm tăng 
thị giá cổ phiếu. Theo hình thức thứ hai, công ty sẽ phát hành thêm cổ phiếu thông 
thường cho các cổ đông của công ty. Cổ đông sẽ nhận cổ phiếu thay vì nhận thu nhập 
của họ dưới dạng cổ tức. Việc phát hành cổ phiếu thêm sẽ ảnh hưởng tới thị giá cổ 
phiếu. Vì vậy, để đảm bảo cho quyền lợi của cổ đông, cổ đông sẽ được hưởng chính 
sách ưu đãi về giá. 
Huy động vốn theo phương thức này có nhiều lợi điểm: 
- Tránh việc pha loãng quyền kiểm soát của các cổ đông, 
- Không dẫn đến việc giảm lợi tức trên mỗi cổ phần trong tương lai như việc 
phát hành cổ phiếu mới, 
 11
- Tránh được nguy cơ bị thôn tính sáp nhập. 
 Tuy nhiên chi phí cho huy động vốn cao. Các cổ đông kỳ vọng vào một mức lợi tức 
cao hơn mới chấp nhận chính sách tái đầu tư này. Vì vậy huy động vốn phải chú ý 
đến hiệu quả của việc tái đầu tư. Một hạn chế nữa của phương thức huy động vốn 
này đó là đôi khi lợi nhuận để lại không đủ đáp ứng nhu cầu về vốn cho mở rộng sản 
xuất kinh doanh. Vì vậy, đôi khi các công ty không thực hiện biện pháp này hoặc chỉ 
coi đó như là giải pháp bổ sung cho những hình thức huy động vốn khác. Tuy nhiên 
có thực hiện được cách thức tạo lập vốn này hay không còn tùy thuộc vào nhiều yếu 
tố. Nói chung, ở những nước đang phát triển, yếu tố lợi tức là quan trọng, vì thế các 
cổ đông thích nhận thu nhập dưới dạng cổ tức. Trong khi đó, đối với các nước phát 
triển, các cổ đông quan tâm nhiều hơn tới yếu tố tăng giá cổ phiếu và do đó, trong 
chính sách phân phối cổ tức, công ty sẽ chú trọng nhiều hơn tới vấn đề tái đầu tư từ 
lợi nhuận để lại. Nhiều công ty đặt ra mục tiêu phải có một khối lượng lợi nhuận để 
lại đủ lớn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng. Chẳng hạn ở Pháp, tài trợ nội 
bộ của các công ty chiếm 54% tổng nguồn vốn, ở Đức là 65,5%, Anh là 68,3%, ở 
Nhật, con số này lên tới 71,3%. Còn các công ty Mỹ thì rất coi trọng huy động vốn 
theo phương thức này. Lợi nhuận để lại bổ sung vào vốn chiếm tới 82,8% tổng nguồn 
vốn. 
2.2. Phát hành trái phiếu. 
Phát hành trái phiếu công ty là một hình thức tạo lập vốn trung và dài hạn cho 
doanh nghiệp. Doanh nghiệp sử dụng hình thức này khi huy động vốn chủ sở hữu 
không đủ đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn, hoặc không thích hợp, hiệu quả 
bằng hình thức này và nhiều lý do khác. Cũng như hình thức phát hành cổ phiếu, 
doanh nghiệp muốn thắng trong việc phát hành trái phiếu thì doanh nghiệp cần phải 
có uy tín, tình hình tài chính lành mạnh và xu thế phát triển tốt... Tuy nhiên ở đây, 
doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm đối với số vốn có được từ phát hành trái phiếu 
như một khoản nợ và có trách nhiệm trả nợ cho khoản vốn đó bởi trái phiếu là một 
chứng chỉ vay nợ chứng nhận trái chủ đã cho doanh nghiệp vay một số vốn nhất định 
trong một khoảng thời gian nhất định với lãi suất xác định. 
Một trong những vấn đề cần xem xét trước khi phát hành là lựa chọn loại trái phiếu 
nào phù hợp nhất với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp và tình hình trên thị trường 
tài chính. Việc lựa chọn trái phiếu thích hợp là rất quan trọng vì có liên quan đến